Phật
Học Cơ Bản
Tập Ba
Ban
Hoằng pháp Trung ương
GHPGVN
Chương
trình Phật học Hàm thụ (1998-2002)
Nguyệt san Giác Ngộ
--- o0o ---
Phần
II - Bài 6
Giới thiệu Pháp Hoa Tông
HT Thích Trí Quảng
Pháp Hoa tông còn được gọi là
Thiên Thai tông. Thiên Thai là tên của hòn núi ở Thai Châu, miền Nam Trung
Hoa. Ngài Trí Giả sống tại núi này và giảng dạy đại chúng suốt đời nhà
Trần và nhà Tùy.
Tông phái này do Ngài thành lập, nên được gọi là
Thiên Thai theo tên núi mà Ngài ở. Nhưng đúng tên là Pháp Hoa, đặt theo tên
kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh căn bản của tông này.
I. Lịch sử
1- Long Thọ
Tuy ngài Trí Giả thành lập tông Pháp Hoa, nhưng tông
này đặt ngài Long Thọ làm sơ Tổ. Nargajuna, Hán dịch là Long Thọ,
Long Thắng hay Long Mãnh, nhưng tên Long Thọ phổ thông hơn. Ngài thuộc
dòng Bà la môn ở Nam Êẽn Ðộ, nước Tỳ Ðạt Bà, thông minh xuất chúng, sớm
hiểu được bốn bộ Vệ Ðà kinh, được coi như hàng lãnh đạo của Bà
La Môn giáo.
Sau, Ngài theo Phật giáo, bắt đầu học Tiểu
thừa, rồi chuyển sang Ðại thừa. Cuối cùng, Ngài phát huy tư tưởng Trung
Quán và là Tổ của phái Trung Quán. Ngài cũng là Tổ thứ 13 trong 28 Tổ của
Thiền tông và cũng là Tổ của tất cả 10 tông phái ở Trung Hoa, 21 tông
phái ở Nhật Bản.
Về năm sanh của ngài Long Thọ, có nhiều
thuyết khác nhau. Theo Cao tăng truyện, Ngài sanh sau Phật nhập
diệt 900 năm, Ma Da kinh ghi sau 700 năm, Pháp Hoa truyền ký ghi sau 600
năm. Theo cận đại học giả Ðông Tây, năm sanh của Ngài vào khoảng 150-250
T.L.
Ngài Long Thọ được coi là sơ Tổ của tông Pháp Hoa
vì theo Chân đế tam tạng, sau khi Phật diệt độ, có nhiều học
giả nghiên cứu kinh Pháp Hoa, nhưng tác phẩm mang tên Pháp Hoa của Ngài soạn,
Kiên Ý Bồ tát chú thích, là một tác phẩm được coi như xuất sắc nhất.
Ngoài bộ Pháp Hoa luận chưa tìm thấy, nếu
theo dõi những tác phẩm khác của Bồ tát Long Thọ cũng bắt gặp những
ý nghĩa thâm huyền của kinh Pháp Hoa.
Thuyết nhị thừa tác Phật được dẫn dụng trong Ðại
Trí Ðộ luận đã nói lên được tư tưởng của Bồ tát Long Thọ phát
nguồn từ kinh Pháp Hoa. Và hơn thế nữa, trong bộ Ðại luận đã nhắc
đến kinh Pháp Hoa trên 20 lần. Các phẩm Tựa, Phương tiện, Thí
dụ, Dược thảo dụ, Hóa thành dụ, Thọ ký, Hiện Bảo tháp, Tùng
địa dũng xuất, Như Lai thọ lượng, Phổ Môn, Phổ Hiền v.v... đều
được dùng dẫn chứng cho học thuyết của Ðại luận.
Cuối cùng, Ngài viết: "Kinh Bát Nhã chưa phải
là pháp rốt ráo giải thoát. Duy có kinh Pháp Hoa thọ ký cho A la hán
được thành Phật và là pháp của các bậc đại Bồ tát hành trì, mới là rốt
ráo. Kinh này cũng như một vị đại lương y mới dám sử dụng chất độc làm
thuốc cứu người".
2- Huệ Văn (505-577)
Khi Ðại Trí Ðộ luận và Trung Quán luận của
Bồ tát Long Thọ được truyền sang Trung Hoa, ngài Huệ Văn cảm nhận
sâu sắc tư tưởng của Bồ tát Long Thọ trong hai bộ luận này và sử dụng
nó để triển khai thành sở đắc của Ngài. Ngài được coi là Tổ thứ
hai của tông Pháp Hoa.
Về phần truyền thừa từ Long Thọ đến
Huệ Văn, cách nhau một khoảng thời gian thật xa. Hai người sanh ở hai thời
đại khác nhau. Ngài Long Thọ ở vào thế kỷ I đầu kỷ nguyên,
còn Huệ Văn ở vào thế kỷ thứ 4. Vì vậy, không thể nói trực
tiếp truyền thừa được. Nhưng vì Huệ Văn tiếp thu tư tưởng
của ngài Long Thọ và lấy đó làm căn bản cho học phái mình nên đặt
Ngài là Tổ thứ hai của tông này.
Tiếp nhận tư tưởng của Bồ tát Long Thọ, ngài
Huệ Văn triển khai thành "Tam Trí Tam Quán". Nghĩa là trên
bước đường tu, chuyển nhận thức từ Thanh văn sang Duyên giác và Bồ tát,
từng bước đi lên, trí tuệ mở ra, dùng ba trí quán ba pháp, gọi là
tam trí tam quán.
Sử dụng trí Thanh văn quán các pháp, thấy tất cả là
Không. Tiến lên trí quán sát của hàng Duyên giác, thấy các pháp tuy có,
nhưng không thực, gọi là quán giả. Và đến sau cùng là Trung đạo theo
trí của Bồ tát, quán thấy các pháp có mà cũng không có.
3- Huệ Tư (515-577)
Tổ thứ ba là ngài Huệ Tư (515-577). Ngài học
Pháp Hoa và thực tập thiền quán với Tổ Huệ Văn. Trên bước đường
hành đạo, Ngài bị thuốc độc vì không nghe theo các phe phái chính trị.
Nhưng vì tu chứng pháp vô duyên đại từ bi tâm, Ngài vẫn an lành.
Ngài ẩn tu ở núi Ðại Tô, thực hành ba pháp: Niệm
Phật tam muội, Ban châu tam muội và Pháp Hoa tam muội.
Ðời Ðông Ngụy Võ Ðịnh thứ 6, năm 554, khi giảng kinh Bát
Nhã tại Hà Nam, Ngài lại bị bỏ thuốc độc hai lần. Và khi Ngài đến
chùa Quang Êẽp, Quang Châu, tỉnh Hà Nam, giảng Ðại luận trong 50 ngày,
người ta bỏ đói Ngài. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục giảng kinh được, chứng
tỏ Ngài đã đắc Pháp Hoa tam muội.
Sau đó, Ngài trở về núi Ðại Tô, chú giải bộ Bát
Nhaả và Pháp Hoa và phát nguyện rằng: "Tôi nguyện ở lại
thế giới này duy trì bộ Bát Nhã và Pháp Hoa để độ
chúng sanh, cho đến khi nào Phật Di Lặc ra đời".
Huệ Tư ngộ được pháp Tam trí tam quán của Tổ
Huệ Văn và triển khai thành tư tưởng Nhứt tâm tam quán. Tu theo thứ
bậc của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát phát sanh ra ba trí. Nhưng khi đã sử
dụng được ba trí này thì theo Huệ Tư kiến giải, trong Bồ tát quán
pháp đã gồm đủ cả trí quán của Thanh văn và Duyên giác. Ðứng ở vị trí
Bồ tát nhìn xuống, thấy được giáo nghĩa tam thừa thông suốt, Bồ tát hành
đạo hoàn toàn tự tại, không còn chướng ngại. Trong một niệm tâm (chơn
tâm) có đủ tam thừa giáo, hay đầy đủ các pháp, độ được tất cả chúng
sanh.
4- Trí Khải (538-597)
Tổ thứ tư là Trí Khải (538-597) thọ pháp với
Huệ Tư ở núi Ðại Tô và được truyền cho pháp tu quán theo kinh Pháp
Hoa. Khi Tổ Huệ Tư viên tịch, Ngài nhớ lại lời Huệ Tư dạy "Núi
Thiên Thai là chỗ của ông", Ngài liền lên núi Thiên Thai (tỉnh
Triết Giang) ẩn tu trên đỉnh núi cao nhất tên Hoa Ðảnh Phong, chuyên tu
tập thiền quán trong 10 năm.
Năm Ngài 48 tuổi, triều đình rước Ngài về
giảng kinh và chính vua Tuyên đế đảnh lễ Ngài ba lạy trước khi giảng
kinh.
Lúc Ngài giảng Pháp Hoa văn cú ở chùa Quang Trạch, Nam
triều, thì ở phương Bắc, Tùy Văn đế lên ngôi. Năm 588, thái tử là
Tấn Vương Quảng đánh Nam Kinh, tiêu diệt nhà Trần, thống nhất đất nước
và lên ngôi, lấy hiệu là Tùy Dạng đế. Ông tổ chức Thiên Tăng hội,
lập đàn tràng cầu nguyện quốc thái dân an và thỉnh Ngài về chứng
minh. Tấn Vương Quảng phát nguyện ăn chay, xin Ngài truyền giới Bồ tát
và phong tặng Ngài tước hiệu là Trí Giả đại sư.
Ở Trung Hoa, từ các thời đại trước cho đến
thời ngài Pháp Vân, thì nặng về phần giáo học, tức tư tưởng.
Ðến thời ngài Huệ Tư, ngả về chiều hướng sinh hoạt tâm linh,
tức tu thiền. Ðến ngài Trí Giả là người tổng hợp được cả hai
phần: giáo học và thiền quán. Ngài chủ trương thiền giáo song tu.
Tiếp nhận tư tưởng nhứt tâm tam quán do Huệ Tư
Thiền sư truyền cho, Trí Giả chuyển thành pháp tu Nhứt niệm tam
thiên. Với pháp chứng đắc Nhứt niệm tam thiên, trong một niệm tâm bao
gồm cả 3000 thế giới, dung được tất cả hữu tình không chướng ngại,
dùng một pháp thuyết, nhưng mọi người ở trình độ khác nhau đều
tiếp thu như pháp dành riêng cho họ.
Từ pháp chân thật tu chứng được là Nhứt niệm tam
thiên, Ngài thuyết pháp suốt 8 năm mà chỉ giảng có 5 chữ Diệu Pháp
Liên Hoa kinh, khai triển không biết bao nhiêu ý hay.
Tác phẩm của Ngài chủ yếu là Pháp Hoa tam đại
bộ gồm: Pháp Hoa huyền nghĩa, Pháp Hoa văn cú và Ma ha chỉ
quán. Pháp Hoa tông được khai ra từ đó, nhưng thực sự tông Pháp Hoa
cũng chưa chính thức thành lập.
5- Quán Ðảnh (561-632)
Phải đợi đến khi Quán Ðảnh biên soạn tất cả bài
giảng của ngài Trí Giả, tông Pháp Hoa mới được chính thức thành. Ba tác
phẩm lớn của ngài Trí Giả là Pháp Hoa tam đại bộ cũng do Quán Ðảnh
tập thành. Quán Ðảnh được coi là Tổ thứ năm của tông Pháp Hoa.
6- Trạm Nhiên (717-782)
Tổ thứ sáu, ngài Trạm Nhiên, là người phục hưng Pháp
Hoa tông, vì bấy giờ tông này đang suy yếu. Và từ Trạm Nhiên về sau,
vẫn còn tông Pháp Hoa, nhưng không có người nào xuất sắc, nên không nổi
tiếng như trước kia.
7- Tối Trừng (767-822)
Cho đến khi Tối Trừng (Saicho, tức Truyền Giáo
đại sư, Dengyô) ở Nhật Bản sang Trung Hoa cầu pháp với Trạm Nhiên. Trở
về nước, ngài Tối Trừng thành lập tông Thiên Thai trên núi Tỷ
Duệ. Ngài được coi là sơ Tổ của tông Pháp Hoa ở Nhật Bản.
Tuy ngài Tối Trừng học Pháp Hoa với Trạm Nhiên và
lập tông Thiên Thai, nhưng Ngài lại chịu ảnh hưởng của Mật giáo. Vì
thế, sau đó, đệ tử của Ngài là Trí Chứng, Viên Nhân kế
nghiệp tông này, nhưng không thuần tu Pháp Hoa, nên chuyển sang
Thiền và Mật tông.
8- Nhật Liên (1222-1282)
Từ đó kéo dài mãi đến khi ngài Nhật Liên ra đời
vào thế kỷ 12, tông Pháp Hoa ở Nhật Bản mới được Ngài thành lập
lại. Ngài xây dựng Bổn môn Pháp Hoa, hành đạo đến nơi nào là dựng cờ
có chữ Diệu Pháp Liên Hoa kinh và niệm đề kinh này. Ngài Nhật
Liên được tôn danh là Bổn môn đại sư. Ngài triển khai phần tiềm ẩn
sâu xa của kinh Pháp Hoa, không căn cứ trên 28 phẩm kinh, nhưng căn cứ
trên tam đại bí pháp. Theo Ngài, tam đại bí pháp gồm Bổn môn bổn tôn, Bổn
môn đề mục và Bổn môn giới đàn.
Bổn môn bổn tôn chỉ cho vị giáo chủ được tôn thờ
là Ðức Phật thường trú vĩnh hằng, bất sanh bất diệt. Không phải Ðức
Phật Thích Ca mang thân hữu hạn sanh diệt.
Bổn môn đề mục là 5 chữ Diệu Pháp Liên Hoa
kinh. Chỉ thọ trì 5 chữ này là thấy được toàn bộ những gì Phật
thuyết và thấy đủ nhân hạnh quả đức của Phật mười phương.
Bổn môn giới đàn là đại mạn trà la, tức tổng
thể của vũ trụ. Ðây là giới đàn vô tướng có Bổn Phật, không thể
dùng mắt thường thấy được. Chỉ dùng nhân duyên căn lành và tâm thanh tịnh
mới có thể thâm nhập thế giới bao la ấy và làm bạn lữ với các Bồ
tát đang trụ nơi đó.
Ðây là pháp tu chứng, bề ngoài thấy đơn giản,
nhưng hành trì mang lại kết quả có sức thuyết phục lớn lao.
Thật vậy, ngày nay, các hội đoàn Phật giáo phát xuất
từ Nhật Liên tông hay Pháp Hoa tông như: Risshio Kosei kai, Sokai Gakkai, Buksho
Gonenkai, mỗi hội này có từ 1 triệu đến 7, 8 triệu tín đồ,
tổng cộng tín đồ của riêng ba hội đoàn này đã chiếm hơn phân nửa số
tín đồ của Phật giáo Nhật Bản.
II. Triết lý
Phán giáo của Pháp Hoa tông hay Thiên Thai tông là
"Ngũ thời Bát giáo". Thật ra, cách phán giáo này chính là của ngài
Trí Giả, chia một đời thuyết pháp của Ðức Phật Thích Ca thành 5 thời.
1- Thời kỳ thứ nhất là thời Hoa Nghiêm. Căn cứ theo
kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện nói rằng Ðức Phật ngồi cội bồ
đề 21 ngày nói kinh Hoa Nghiêm. Ðây là pháp tu chứng của Phật nói về
sự giác ngộ của Ngài, chỉ có Bồ tát trụ trong đại thiền định nghe
được. Còn hàng thính chúng trên cuộc đời hoàn toàn không hiểu nổi,
kinh ví họ như người điếc, đui mù.
2- Thời kỳ thứ hai là thời Lộc Uyển. Nói kinh Hoa
Nghiêm, chúng Thanh văn không nghe được, Phật mới rời Bồ đề đạo
tràng, đến Lộc Uyển nói pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như. Từ đó,
suốt 12 năm, Ngài giảng 4 bộ kinh A Hàm. Thời kỳ này cũng được
gọi là thời dụ dẫn, nhằm giúp đệ tử tiến lên giáo lý cao
hơn.
3- Thời kỳ thứ ba là thời Phương Ðẳng. Trong 8 năm,
Phật giảng nói các kinh thuộc quyền thừa, chuyển mạch từ Tiểu thừa
sang Ðại thừa giáo, gọi là kinh Phương Ðẳng. Trong thời này, Ðức
Phật thường khiển trách các vị La hán bị rơi vào thiên kiến và Ngài
thức tỉnh họ, cho họ thấy giá trị của pháp Ðại thừa.
4- Thời kỳ thứ tư là thời Bát Nhã. Ðức Phật nói kinh
Ðại Bát Nhã phủ nhận hoàn toàn mọi ý niệm phân biệt
và chấp thủ. 22 năm làm nghề hốt phân của gã cùng tử ngầm ví cho thời
Bát Nhã của Phật hướng dẫn chúng đệ tử dọn sạch tâm hoàn toàn
trống không, được thanh tịnh.
5- Thời kỳ thứ năm là thời Pháp Hoa hay Niết Bàn.
Ðến đây, quan niệm ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát có thể
đạt đến Thánh quả chỉ là pháp phương tiện tạm thời đưa ra,
để cuối cùng cả ba thừa này đều hội nhập vào một thừa.
Nhân duyên Ðức Phật xuất hiện ở thế gian này
là cứu độ tất cả chúng sanh và chỉ có kinh Pháp Hoa mới hoàn thành
được nhân duyên ấy. Vì vậy, Pháp Hoa là pháp rốt ráo của Phật, là vua của
các kinh.
Kinh Niết Bàn được giảng vào thời này,
nhưng chỉ là toát yếu lại những gì Phật đã giảng trước kia.
Ðó là sự phân chia giáo lý của Phật thành 5 thời.
Nhưng trong 5 thời này, giáo lý có sai biệt, nên lại chia ra hóa nghi
tứ giáo và hóa pháp tứ giáo, hợp lại thành Bát giáo.
Hóa Nghi Tứ Giáo là bốn phương thức giáo hóa như sau:
1- Ðốn giáo
Kinh Hoa Nghiêm thuộc Ðốn giáo, Phật nói thẳng
sự giác ngộ của Ngài, không cần dùng bất cứ phương tiện nào. Và người
nghe là các đại Bồ tát cũng chứng ngộ ngay tức khắc chân lý mà Phật
nói.
2- Tiệm giáo
Vì nói thẳng chân lý như ở thời Hoa Nghiêm, thính
chúng không thể hiểu nổi, nên sau đó, Ðức Phật phải dùng tất cả
phương tiện để từ từ dẫn dắt chúng hội đi lần vào thế giới
tâm linh, tiến gần đến chân lý.
3- Bí mật giáo
Trong các thời pháp của Ðức Phật giảng dạy, có những
vị Bồ tát tham dự. Nhưng bề ngoài thấy họ chỉ là cư sĩ hay hàng nhị
thừa bình thường. Tuy nhiên, chỉ có Ðức Phật nhận biết được pháp tu
"Nội bí ngoại hiện" của các vị Bồ tát, nghĩa là Bồ tát
hiện thân trên cuộc đời, đóng vai cư sĩ hay xuất gia như mọi người
khác, nhưng bên trong họ hàm chứa Pháp thân Bồ tát.
Và Ðức Phật đã dùng thần lực thuyết pháp bí mật
cho Bồ tát. Với Pháp thân Bồ tát, họ đã tiếp thu được bí mật pháp
của Phật truyền trao riêng cho họ, mà những người hiện diện
trong pháp hội, ở kế cận họ, cũng không hay biết được việc
Phật giáo hóa bằng bí mật pháp như vậy.
Thí dụ như trong pháp hội, Ðức Phật đưa một cành hoa
lên và ngài Ca Diếp mỉm cười. Thế là Phật truyền pháp cho Ca
Diếp. Chúng hội chẳng nghe Phật nói gì và cũng không hiểu Phật muốn
nói gì. Ca Diếp cũng không nói gì, chỉ mỉm cười thôi. Sinh mệnh
trọng đại của Phật pháp được truyền trao cho Ca Diếp một cách
giản dị như vậy đó.
Và đến khi Ca Diếp truyền pháp cho ngài A
Nan, đưa cho A Nan cái y. A Nan hỏi Ca Diếp: "Ngoài y ra, Phật còn dặn
gì không?". Ca Diếp chỉ trả lời: "A Nan!". Thế là A Nan
nhận biết ngay ý của Ca Diếp và đảnh lễ lui ra.
Thí dụ trên là một trong muôn ngàn thí dụ của đạo,
cho c húng ta hiểu được thế nào là bí mật giáo. Về sau, bí mật
pháp được triển khai thành đà la ni, tức mật ngữ.
4- Bất định giáo
Ðức Phật thuyết pháp tùy người, tùy chỗ, tùy
thời, Ngài nói pháp khác nhau cho thích hợp. Pháp đó là phương tiện hay
bất định, nhằm mục tiêu làm người phát tâm, hướng về Vô thượng Bồ
đề. Kinh thường gọi là khai thị.
Giáo lý của Phật ở khoảng giữa, tức ngoài thời Hoa
Nghiêm ban đầu và Pháp Hoa ở thời cuối ra, đều thuộc về bất định
giáo.
Thời Pháp Hoa không thuộc đốn, tiệm, bí mật hay
bất định. Thời Hoa Nghiêm gồm đốn giáo, bí mật giáo. Thời Lộc Uyển,
Phương Ðẳng và Bát Nhã gồm tiệm giáo, bí mật giáo và bất định giáo.
Hóa Pháp Tứ Giáo là bản chất của giáo lý, gồm có
Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.
1- Tạng giáo: là A Hàm và tất cả giáo
lý Tiểu thừa có trong văn học Tỳ bà sa, phần nhiều chủ yếu
dạy cho con người những gì gần gũi, dễ hiểu, nắm bắt được.
2- Thông giáo: chung cho cả ba thừa và là
giáo lý sơ cơ của Ðại thừa.
3- Biệt giáo: thuần Ðại thừa và dành
riêng cho Bồ tát. Trong khi Tạng giáo và Thông giáo chỉ giảng về Không
phiến diện (thiên không), thì Biệt giáo giảng về Trung đạo. Do
đó, nó riêng biệt.
4- Viên giáo: "Viên" nghĩa là
hoàn toàn, viên mãn. Biệt giáo giảng về Trung đạo độc lập, riêng
biệt. Viên giáo giảng về Trung đạo viên thông. Do đó, nó không
phiến diện, nhưng chứa đựng tất cả pháp, thường được diễn tả là
"Nhất tức nhất thiết và Nhất thiết tức nhất".
Nếu chúng ta xét 5 giai đoạn của giáo lý này
trong tương quan với bốn bản chất của giáo lý (Hóa pháp tứ giáo), sẽ có
kết quả sau:
1- Thời Hoa Nghiêm thuộc Viên giáo vì dạy Ðại thừa,
nhưng chính yếu dẫn đến Nhứt Phật thừa, thành Phật quả.
2- Thời Lộc Uyển thuộc Tạng giáo, phần nhiều
giảng dạy những gì bình thường mà con người có thể nắm bắt được.
3- Thời Phương Ðẳng thông cả tứ giáo, nhưng vẫn còn
tương đối.
4- Thời Bát Nhã chủ yếu giảng Biệt giáo,
triển khai pháp Không. Nhưng pháp Không này chưa có phần diệu hữu. Vì
vậy, Bát Nhã không thể coi là Viên giáo và còn liên hệ với Thông
giáo. Vì Bát Nhã thuộc phần chuyển mạch từ Tiểu thừa sang Ðại thừa,
nói với Thanh văn, phần nhiều triển khai pháp Không của nhị thừa, chỉ
nói đến chân đế, không nói tục đế.
5- Thời Pháp Hoa mới là thuần Viên giáo và tối
thượng, vì nhân duyên xuất hiện của Ðức Phật trên cuộc đời này được
thể hiện trọn vẹn đầy đủ ở thời này. Và tất cả giáo lý
của Phật dạy sau cùng đều quy tụ vào Pháp Hoa.
Kinh Niết Bàn tóm tắt những gì Phật dạy trong
suốt cuộc đời Ngài, tam thừa và tứ giáo đều được xóa bỏ, quy tụ tam
thừa về nhứt thừa.
Tông Pháp Hoa chỉ công nhận duy nhất có một thừa cứu
độ tất cả chúng sanh ra khỏi sanh tử. Vì phương tiện thiện xảo mà
Ðức Phật giảng dạy ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát. Nhưng cứu cánh là
đưa ba thừa này về một thừa chân thật là Phật thừa.
Ngoài ra, tông Pháp Hoa không chủ xướng thuyết nhị
đế giống như một số kinh Ðại thừa. Thuyết nhị đế phân ra hai
chân lý: thế tục và tối thượng. Nhưng Pháp Hoa tông đề ra tam
đế (ba chân lý): Không đế, Giả đế và Trung đế. Cả ba
chân lý ấy luôn luôn hợp nhất và dung hòa, nên có thể nói ba trong
một, một trong ba.
Nghĩa là bất cứ sự hiện hữu nào cũng là giả tạm,
vì các pháp đều tùy thuộc vào nhân quả. Chúng chỉ hiện hữu bằng
giả danh. Vì vậy, không có bất cứ hiện hữu nào thường hằng, nhưng phải
công nhận rằng có nó. Mọi sự đều là Không và giả danh. Ðó là trung
đạo, là tuyệt đối.
Pháp Hoa tông cũng đưa ra lý thuyết về thật
tướng của các pháp hay còn gọi là thế gian tướng thường trụ. Chúng
ta không thể nhìn thấy được trực tiếp thật tướng của các pháp. Các
hiện tượng luôn luôn biến chuyển và thay đổi, tính chất linh hoạt
này chính là thật tướng của các pháp mà thuật ngữ thường gọi là như
như. Thí dụ cho dễ hiểu, nước tĩnh lặng và sóng dữ dội, cả hai đều
là biểu hiện của nước. Cái được biểu hiện ra bên ngoài
không gì khác hơn là chính nó hay thật tướng của nó.
Nói về vũ trụ quan, theo Pháp Hoa tông, toàn thể
vũ trụ là sự tập hợp của 3.000 thế giới. 3.000 không phải chỉ cho tính
chất bao la hay bản thể, nhưng để nói lên sự tương dung của tất cả
các pháp và cứu cánh đồng nhất thể của toàn vũ trụ.
Pháp Hoa tông kiến giải thế giới hữu tình chia
thành 10 cõi: 4 cõi Thánh (Phật giới, Bồ tát giới, Duyên giác giới và Thanh
văn giới) và 6 cõi phàm (Thiên giới, A tu la giới, Nhân giới, Ngạ quỷ
giới, Súc sanh giới, Ðịa ngục giới).
Mười thế giới này tương dung tương nhiếp lẫn
nhau, mỗi thế giới tự bao hàm 9 thế giới còn lại.Ví dụ, nhân giới
có đủ cả 9 thế giới, từ Phật giới cho đến cõi địa ngục. Mỗi
một thế giới bao hàm 10 thế giới, được nhân lên thành 100 thế
giới.
Và mỗi cảnh giới có 10 trạng thái khác nhau gọi
là thập như thị: tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo và
bản mạt cứu cánh. Mười như thị này có đủ ở trong 100 thế giới, nên
trở thành 10 x 100 = 1.000.
Lại thêm mỗi thế giới có 3 phần: chúng sanh,
quốc độ và ngũ ấm được tách ra từ chúng sanh giới (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức). Do đó, có 1.000 x 3 = 3.000 thế giới. Ðó là vũ trụ của hữu
tình và vô tình, tức toàn thể sự sống của thế giới.
Theo Pháp Hoa tông, trong một sát na tâm đều có đủ
3.000 thế giới. Với quan niệm thế giới tiềm tàng trong một
khoảnh khắc của tư tưởng (sát na tâm), đó là triết học về bản
thể nội tại, theo đó thì hiện tượng và tác động của tâm là một.
Pháp Hoa tông cũng đưa ra lý thuyết đặc
biệt về ba thân của Phật. Bất cứ Phật nào viên mãn quả vị toàn giác
đều có 3 thân: Pháp thân, Báo thân và sanh thân.
Pháp thân là lý tánh bất sanh bất diệt của
đấng toàn giác. Báo thân là phước đức vô lượng và trí tuệ vô cùng
của đấng toàn giác. Và sanh thân là thân hữu hạn xuất hiện trên cuộc
đời để dẫn dắt chúng sanh về bến giác./
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn
ôn tập
1- Trình bày sơ lược lịch sử của Pháp Hoa tông.
2- Triết lý cơ bản của Pháp Hoa tông là gì?
|
[^]
Bài
trước
|Mục lục |
Bài kế
|
-oOo-
| Toàn
bộ | | Tập Một
| | Tập Hai |
|Tập Ba|
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |