Ở VN ta
các chùa thường hay thờ Phật, thờ Tổ, thờ Thánh. Nhờ Phật độ nên mỗi năm
tôi về VN một lần, mà lần nào tôi cũng đi từ Nam ra Bắc hầu hết thời gian
tôi đều dành cho việc đi tham quan các chùa, do đó tôi thấy: Cách bài trí
các tượng chư Phật, chư Bồ Tát, ở trong chùa tuy cũng có công thức và ý
nghĩa rõ ràng, nhưng vì xưa nay không có sách vở nào ghi chép cho tinh
tường. Do đó người ta mỗi khi bước chân vào chùa không phân biệt được pho
tượng nào thờ vị nào. Nay ta muốn biết rõ, trước hết phải phân biệt tượng
thờ chư Phật, tượng thờ chư Bồ Tát. Dưới đây tôi chỉ trả lời câu hỏi nêu
trên, không giải thích về sự thờ Thánh của một số chùa ở VN.
Ở trong chánh điện thờ Phật,
chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo
thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý
nghĩa ấy cho nên ở lớp trên cùng là thờ Pháp thân Phật, tức là thờ thường
trụ Phật ở trong vũ trụ; Ở lớp thứ hai thờ Báo thân Phật, tức là thờ
Thụ-dụng trí-tuệ Phật ở cõi cực lạc; ở lớp thứ ba là thờ Ứng thân Phật,
tức là thờ Phật đã hoá hiện ra sác thân ở trần thế. Từ lớp thứ tư trở
xuống bày những cảnh quan hệ đến lúc sơ sinh của đức Thích Ca Mầu Ni Phật
và những tượng các vị thần khác.
Vậy cách bài trí các tượng ở
chánh điện từ trên xuống dưới theo thứ tự sau đây:
A)-Tượng Tam Thế Phật.-
Lớp trên cùng tột ở chỗ giáp vách phía trong, có ba pho tượng để ngang một
dẫy, hình dáng giống nhau, tức là tượng "Thường trụ tam thế diệu pháp
thân", người ta thường gọi tắt là tượng Tam thế Phật, nghĩa là Phật thường
trụ, trong thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
B)-Tượng Di-Đà tam tôn.-
Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho tượng ngồi giữa là pho tượng đức
A-Di-Đà Phật, tức là Thụ-dụng Trí-tuệ thân, Pho tượng đứng bên tả là tượng
đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát, pho tượng đứng bên hữu là tượng đức Đại Thế-Chí
Bồ-Tát. Đức Phật và hai Bồ Tát ấy ở Tây-phương Cực-lạc, chủ việc cứu độ
chúng sinh ở cõi Sa-bà qua cõi Cực lạc.
C)-Tượng Hoa Nghiêm Tam
Thánh.-Lớp thứ ba có ba pho tượng lớn, pho tượng lớn ngồi giữa là
tượng Thích Ca Mầu Ni Phật, tức là Ứng- thân hay là biến hóa thân, giáng
sinh xuống trần thế, tu thành chính quả và thuyết pháp độ chúng, pho tượng
ở bên phải, hoặc đứng trên toà sen , hoặc ngồi trên con sư tử xanh là
tượng Đức Văn-Thù Bồ-Tát; pho tượng ở bên hữu, hoặc đứng trên toà sen,
hoặc ngồi trên con voi tráng là tượng Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát, theo thuyết nói
trong Hoa Nghiêm kinh.
Ở lớp thứ ba ấy có nhiều chùa
làm tượng đức Thích Ca Mầu-Ni ngồi cầm hoa-sen, như khi ngài thuyết pháp ở
Linh-Thứu-Sơn; bên tả là tượng Ca-Diếp Tôn-Giả, vẻ mặt già, bên hữu là
tượng A-Nan-Đà tôn giả, vẻ măt trẻ, là hai đại đệ tử của Đức Thích-Ca khi
ngài còn ở thế-gian. Tượng hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng, hình dáng hai
người tỳ khưu.
D)-Tượng Cửu Long.- Lớp
thứ tư có pho tượng Cửu Long để giữa. Tượng này theo điển nói khi đức
Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài
tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà
nói rằng: "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. Trên trời, dưới đất,
chỉ có ta là quí hơn cả" Bởi vậy tượng Cửu-long làm chín con rồng vây bọc
chung quanh và ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên, nhã nhạc, cờ
phướn và bát bộ Kim Cương, ở giưã có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên
trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc
sơ sanh. (Ý nghĩa ngày Đản Sinh, tôi đã viết và phổ biến trong cuốn sách
"Tôn Giáo và Dân Tộc", cũng có trên Internet và một số báo). Bên tả tượng
Cửu Long có tượng Đế Thích ngôi ngai, mặc áo đội mũ Hoàng Đế, bên hữu có
tượng Đại Phạm Thiên cùng một kiểu như pho tượng Đế Thích, đó là theo điển
nói hai vị Đại Thiên Vương này chủ-tế ở cõi sa-bà thế-giới và lúc nào cũng
hộ trì Đưc Thiùch - Ca khi ngài chưa thành Phật.
Những chùa thường, ở trong điện
thờ Phật, chỉ bầy có thế mà thôi. còn những chùa rộng lớn thì bầy thêm hai
lớp tượng nữa là:
E)- Tượng Tứ Thiên-Vương.-
Ở ngoài tượng Cửu Long để bốn pho tượng Tứ-Thiên-Vương mạc áo Vương-phục,
bày làm hai dẫy đối nhau, tức là bốn vị hộ thế.
F)-Tượng tứ Bồ Tát.- Có
chùa bỏ tượng Tư-Thiên-Vương mà bày tượng bốn vị Bồ-Tát, tạc hình
Thiên-thần gọi là Ái-Bồ-Tát, tay cầm cái tên; Sách Bồ-Tát, tay cầm cái
cây; Ngũ Bồ-Tát, tay cầm cái lưỡi; Quyền Bồ-Tát tay nắm lại và để vào
ngực.
G)- Tượng Bát-Bộ Kim-Cương.-
Có nhiều chùa tạc 8 vị Kim-Cương, là thần tướng trên trời, thường gọi là
Bát-bộ Kim-Cương gồm có :
1)-Thanh Trừ Tài Kim-Cương.
2)-Tích-Độc-Thần Kim-Cương.
3)-Hoàng-Tuỳ-Cầu Kim-Cương.
4)-Bạch-Tĩnh-Thủy Kim-Cương.
5)-Xích-Thanh-Hoả Kim-Cương.
6)-Định-Trừ-Tai Kim-Cương.
7)-Tử-Hiền Kim-Cương.
8)-Đại-Thần-Lực Kim-Cương.
Bốn vị Bồ-Tát và Tám vị
Kim-Cương này, theo điển tích ở trong các kinh thi có nhiều thuyết khác
nhau, xong đại ý là nói những bậc thần đã phát Bồ-Đề Tâm, đem thần lực mà
hộ-trì Phật Pháp.
SƠ QUA VỀ
CÁC VỊ BỒ TÁT
Định nghĩa Bồ Tát: BỒ
TÁT (Bodhisattva), Tên đầy đủ là Bồ-đề-tát-đoá, còn gọi là Bồ-đề- tác-đóa,
Ma- ha- đế- tác- đóa. Cũ dịch là Đại đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng
sinh.v..v. mới dịch là đại Giác hữu tình, Giác hữu tình....nghĩa là người
có đại tâm cầu đạo. Các vị đại Bồ Tát đối với trên thì cầu được đạo Phật,
đối với dưới thì cầu giáo hoá chúng sinh. Chư Bồ Tát khi mới phát tâm, ai
nấy đều phát nguyện bốn đều thề lớn său đây, sau này gọi là tứ hoằng-thệ:
1)-Chúng sanh vô biên, thề nguyện độ. Thề xin độ hết thẩy chúng
sanh vô biên. Ấy là lấy Khổ- đế làm duyên mà phát thệ.
2)-Phiền não vô số thề nguyện đoạn. Thề xin dứt hết phiền não vô
số. Ấy là lấy Tập- đế làm duyên mà phát thệ.
3)-Pháp môn vô tận, thề nguyện học. Thề xin học hết pháp môn vô
tận. Ấy là lấy Đạo- đế làm duyên mà phát thệ.
4)-Phật-đạo vô-thượng thề-nguyện thành. Thề xin thành đạo Phật vô
thượng. Ấy là lấy Diệt-đế làm duyên mà phát thệ.
Đối với tâm
thân mình, chư Bồ Tát phát bốn điều nguyện lớn sau đây:
1)-Tâm như đại đại. Nguyện cái tâm mình như đất lớn, để nuôi lớn
chúng sinh cho được thành chánh quả.
2)-Tâm như kiều thuyền. Nguyện cái tâm mình như cái cầu, cái
thuyền để đưa chúng sinh sang bến bên kia.
3)-Tâm như đại hải. Nguyện cái tâm mình như bể lớn, để nuôi chứa
chúng sinh trong chỗ chân nguyên (mối đầu chân thật phát sinh ra vạn
vật).
4)-Thân như hư không. Nguyện cái thân mình như hư không bao hàm
hết thẩy vạn vật, cùng với chúng sinh bình đảng vô nhi.
Đối với chúng
sinh, chư Bồ Tát phát bốn điều thệ nguyện lớn như sau:
1)-Vị độ giả, linh độ. Ai chưa được độ, thì khiến được độ.
2)-Vị giải giã, linh giải. Ai chưa hiểu, thì khiến được hiểu.
3)-Vị an giả, linh an. Ai chưa được an, thì khiến được an.
4)-Vị Niết-bàn giả, linh niết bàn. Ai chưa được niết-bàn thì
khiến được niết bàn.
Trên đây tôi
chỉ dẫn giải một số hạnh nguyện chính của các vị Bồ-Tát, tôi không đi sâu
vào Hạnh nguyện của từng vị, mỗi vị có một hạnh nguyện khác nhau như:
Di Lạc Bồ Tát: Di-Lạc Bồ
Tát tiếng Phạn gọi là Maitreya Bodhisattva phiên dịch ra, theo nghĩa thì
gọi là A-Dật-Da (Adjita), căn cứ theo lời Thích Ca Mầu Ni nói ra khi ngài
thuyết pháp, thì hiện nay Đức Di-Lạc Bồ-Tát còn ở trên tầng trời Đầu-Suất,
đợi đến ngày giáng ainh làm người ở trần gian để tu thành Phật, tức là một
vị Phật tương lai nối sau đức Thích-Ca Mầu-Ni Vậy.
Đức Di-Lạc Bồ-Tát tuy lúc chưa
thành Phật vẫn lấy lòng từ bi mà phổ độ chúng sinh cho nên người ta thờ
Ngài cũng như thờ một vị dã thành Phật. Thường ở chùa người ta thờ Đức
Di-Lạc ngồi giữa, bên tả có Đức Pháp-Hoa-Lâm Bồ Tát, bên hữu có đức Đại
Diệu Tướng Bồ Tát, gọi chung là Di-Lạc tam tôn.
Có sách chép đức Di-Lạc Bồ-Tát
ở trên tầng trời Đầu Suất xuống giảng thuyết: "Phi không phi hữu, trung
đạo diệu lý" làm ra sách Du-già-sư-địa-luận, truyền cho Vô-Trước
Bồ-Tát (Asangha) ở đất Ấn Độ. Sách ấy là sách cốt yếu của phái Du-Già, tức
là một phái chuyên bàn về cái tông chỉ Duy-Thức. Những kinh nói về đức
Di-Lạc Bồ-Tát, có bộ Di-Lạc bản kinh, Di-Lạc thượng-sinh kinh nói: Ngài
sinh lên cõi trời; Di-Lạc hạ sinh kinh nói Ngài sẽ sinh xuống trần thế;
Di-Lạc đại thành Phật kinh; nói lúc Ngài sẽ thành Phật.
Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: Kinh
Pháp Hoa nói : Khổ-não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thị quan
kỳ âm thanh, giai đác giải thoát. Dĩ thị danh Quán-Thế -Âm, những chúng
sinh bị khổ não mà nhất tâm đọc đến Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì ngài nghe
âm thanh của chúng sinh mà độ cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là
Quán-Thế-Âm.
Đức Quán-Thế-Âm mà có cái danh
hiệu ấy là do một đức Phật đã thụ-ký cho Ngài, cho nên chính Ngài đã nói
trong Kinh-Lăng-Nghiêm: "Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu
là Quán-Thế-Âm Như Lai. Ta đến trước Phật mà phát Bồ-Đề tâm. Phật dậy ta
theo ba phép: Văn, Tư, Tu, nghĩa là nghe lời giảng dậy, suy nghĩ về đạo
lý, và tu hành mà vào tam-ma-đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được
viên-thông pháp-môn và tức thì ở ngay chỗ đại hội thụ-ký cho ta cái hiệu
là Quán-Thế-Âm". Như thế Ngài được lấy cái danh hiệu của Bản-Sư làm
danh hiệu của Ngài.
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát:
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tiếng Phạn là (Mahasthanaprâta Bodhisattva), cùng với
Quán-Thế-Âm cùng phụ giúp Đức Phật A-Di-Đà để tế độ chúng sinh. Trong kinh
Lăng-Nghiêm có nói: "Về vô số kiếp đời xưa, có Đức Phật hiệu là
Siêu-Nhật-Nguyệt Quang-Như-Lai ra đời, dậy ngài tu phép niệm Phật tam
muôi, thu cả lục căn là: nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân, ý, định tâm chuyên
nhất về việc niệm Phật, bởi thế tâm khai, ngộ đạo viên-thông được danh
hiệu là Đại Thế Chí".
Trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ,
tán thán công đức của đức Đại-Thế-Chí Bồ-Tát rằng: "Ngài đem ánh sáng
trí-tuệ soi khắp hết thẩy, khiến chúng sinh đều thoát khỏi ba nơi ác-đạo,
mà cái sức mạnh vô thượng". Bởi cái công đức của Đại-Thế-Chí to lớn
như thế, cho nên Vân-Thế thiền sư làm bài Tán -Định Tây- Phương Nguyện-Văn
"Đức Phật A-Di-Đà với Đức Phật Quan-Thế-Âm và đức Đại-Thế-Chí cùng các
đấng hiền thánh, phóng hào quang ra mà tiếp dẫn chúng sinh giắt tay đề
huề, chỉ trong một khắc là người mệnh chung được về cõi cực lạc". Vì
thế ở các chùa người ta trưng bầy Tượng đức Đại-Thế-Chí và Đức Quan-Thế-Âm
đứng hai bên tả hữu đức A-Di-Đà gọi là hai vị Nhiếp-Sĩ.
Hiện nay ở
Bắc Việt, chùa Tây Phương, thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây có pho tượng
Tuyết sơn, tạc rất khéo, và chùa Bút Tháp thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bác
Ninh có pho tượng Tuyết Sơn cũng rất mỹ thuật. hai pho tượng ấy thật rất
đáng chiêm ngưỡng. Trong dịp tôi đến vãng cảnh chùa Đậu thuộc Quận Thường
Tín, tỉnh Hà Đông, cách Hà-Nội có 25 cây số về phía nam, có hai pho tượng
đặc biệt đó là hai vị: Vũ Khắc Minh và Vũ khắc Trường hai chú cháu đều tu
đắc đạo cách đây trên 300 năm, hiện toàn thân xá lợi đang thờ tại chuà
Đậu, mà du khách trong nước cũng như quốc tế đều tìm đến chiêm ngưỡng,
Cũng tại chùa Đậu tôi còn thấy thờ ở nhà hành lang có 18 vị A-La-Hán ở hai
bên dẫy nhà Hành lang. -Chi tiết, địa danh và di tích lịch sử của ngôi
chùa Đậu tôi đã phổ biến trên website ở Mỹ, Úc, Ấn-Độ và in trong cuốn
sách "Trở về cội nguồn" xuất bản năm 2000, do nhà xuất bản "Văn Nghệ" phát
hành và hiện có ca cuốn sách "Tôn Giáo và Dân Tộc" mới phát hành 2004, nếu
muốn đọc xin mở: www.thuvienhoasen.org roi tim chu Index bấm vào do xong
nó sẽ ra chữ "tác giả và dịch giả" bấm vào đó sẽ tìm chữ "Tuệ Minh Đạo
Nguyễn Đức Can", bấm vào đó sẽ có cả 2 quyển sách này đủ các bài trong đó.
--- o0o ---
Source: www.giamy.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật: 01-2-2005