Việt hóa nghi thức tụng
niệm không chỉ là nhu cầu cần thiết mà còn là chất liệu tinh
thần quý giá của người Phật tử Việt Nam, dù xuất gia hay tại
gia. Do vì những khó khăn khách quan của đất nước cũng như sự
bất đồng quan điểm của các tông phái và giáo hội Phật giáo,
cho đến nay, nước ta vẫn chưa có một nghi thức tụng niệm thuần
Việt và tiêu chuẩn. Để góp phần vào việc Việt hóa nghi thức
tụng niệm, người viết xin mạo muội trình bày vài thiển ý về
phương pháp dịch thuật kinh điển và vài vấn đề liên hệ khác. Hầu hết các bản dịch kinh
điển từ tiếng Hán sang tiếng Việt, thậm chí từ chữ Pali sang
tiếng Việt vẫn còn mang âm hưởng chữ Hán một cách nặng nề.
Người Phật tử đọc vào các bản kinh của HT Thích Minh Châu và
của cố HT Giới Nghiêm, nếu không có một trình độ Hán học tối
thiểu, chắc hẳn khó có thể lãnh hội hết ý tứ sâu sắc được
chuyển tải trong các thuật ngữ Phật học Hán Việt. Các bản
dịch về kinh điển đại thừa của HT Thích Trí Tịnh, HT. Thích Trí
Quang v.v… cũng như các bản dịch A-hàm của HT Thích Thiện Siêu,
HT Thích Thanh Từ và của Phật học viện Huệ Nghiêm lại còn
nặng chữ Hán hơn nữa. Có nhiều lý do để giải
thích sự ảnh hưởng Hán học một cách tập thể này. Thứ nhất,
kinh sách Phật giáo được dịch ra tiếng Việt hầu hết được tiến
hành trong giai đoạn mà tiếng Việt chưa được định hình và phổ
biến rộng rãi như hiện nay. Kế đến, vì là phong trào dịch thuật
kinh điển trong giai đoạn khởi điểm, các bậc tôn túc của chúng
ta đã không có đủ các phương tiện tham khảo, đối chiếu các
bản dịch trước đó, khi cần thiết, như hiện giờ. Hơn nữa, văn
phong chữ Hán có thể giúp cho quý dịch giả có thể chuyển tả
ý kinh một cách cô đọng mà dân trí mấy chục năm trước cũng
có thể hiểu được dễ dàng do Hán học còn thông dụng trong
quần chúng trí thức. Tuy nhiên đặt các bản dịch
mấy mươi năm trước trong bối cảnh hiện nay, người đọc tụng kinh
điển sẽ gặp không ít các khó khăn khi phải tiếp cận một bản
văn kinh điển quá nặng thuật ngữ chữ Hán. Đành rằng có hơn 60
phần trăm yếu tố chữ Hán trong ngôn ngữ tiếng Việt, chúng ta
vẫn có thể tìm ra các chữ Việt tương ứng hoặc ít nhất các chữ
Hán đã được Việt hóa để thay thế các chữ Hán khó hiểu và
không còn thông dụng trong quần chúng. Ngoài việc diễn đạt súc
tích, có âm điệu êm tai, các bản dịch nặng âm hưởng chữ Hán
chỉ có thể phục vụ cho một số đối tượng nhất định, và do đó,
sẽ xa rời tập thể quần chúng, và hơn nữa, không có lợi cho
tiến trình tu học của nhiều lớp người. Đó là chưa nói đến
việc các bản dịch nặng chữ Hán hoặc các kinh điển để nguyên
âm Hán Việt đã dẫn đến việc thần thánh hóa kinh điển (do
không hiểu được ý kinh), dẫn đến nạn biến kinh điển thành đối
tượng cầu nguyện và đức Phật thành một vị thần linh ban phước,
xa rời với bản chất lời Phật dạy. Phải công nhận rằng có
nhiều khó khăn trong việc chọn các từ ngữ và thuật ngữ thuần
tiếng Việt để thay thế các thuật ngữ Phật học bằng chữ Hán
đã quen thuộc với giới học đường Phật giáo. Tư duy, chất xám,
sự sáng tạo và thời gian là các yếu tố giúp chúng ta có thể
tạo ra các thuật ngữ Phật học thuần Việt một cách thành
công. Một khó khăn khác nữa là các từ ngữ và thuật ngữ mới
này chắc hẳn sẽ gây ra hiện tượng chói tai, khó nghe, do người
đọc tụng kinh điển đã quen thuộc các thuật ngữ chữ Hán từ
nhiều năm qua trong cuộc đời của mình. Một công việc tuy có nhiều
khó khăn nhưng không phải là không có giải pháp. Theo thiển ý
của người viết các bản dịch kinh sách Phật giáo trong tương lai
nên tận dụng tối đa các từ ngữ tiếng Việt thuần túy để diễn
tả các ý tưởng Phật học. Ví dụ, ta nên dùng cụm từ "ba ngôi
Báu" để thay thế từ "Tam bảo," nên dùng "trạng thái thiền thứ
nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư" để thay thế từ "sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền," và nên dùng "ba kho tàng kinh điển
Phật giáo" để thay thế thuật ngữ "Tam tạng," v.v… Mặc dù các
từ mới này có dài dòng hơn các thuật ngữ Hán nhưng chúng có
thể giúp cho người đọc dễ dàng hiểu được ý tưởng chứa tải
trong kinh sách. Kế đến quý dịch giả có thể
vận dụng phương pháp "thay thế" trong khi dịch, nghĩa là dùng một
từ ngữ chữ Hán đã được Việt hóa, phổ biến trong dân gian để
thay thế các thuật ngữ chữ Hán đã không còn quen thuộc với
quần chúng. Ví dụ ta nên dùng cụm từ "ba tính chất của
thực tại" để thay thế thuật ngữ "tam pháp ấn," "bốn
chân lý của cuộc đời" để thay thế "tứ diệu đế," dùng "con
đường thánh gồm tám yếu tố" để thay thế "bát
chánh đạo," dùng "bảy yếu tố đưa đến giác ngộ"
để thay thế "thất giác chi" v.v… Các từ ngữ được in đậm trong
các cụm từ đề nghị bên trên đều là các từ ngữ Hán Việt, tuy
nhiên chúng đã được người Việt Nam sử dụng quen thuộc như
những chữ thuần Việt, sẽ giúp chúng ta thay thế thành công
các thuật ngữ nặng chữ Hán từ trước đến giờ. Nói tóm lại, công việc
Việt hóa nghi thức tụng niệm nói riêng và phiên dịch kinh sách
Phật giáo nói chung, có thể được thực hiện bằng nhiều cách,
trong đó ba yếu tố sau đây là cần thiết nhất. Thứ nhất, chúng
ta nên dịch nghĩa toàn bộ các thuật ngữ pháp số bắt đầu bằng
"nhất, nhị, tam, tứ, v.v…" thành các thuật ngữ tiếng Việt bắt
đầu bằng "một, hai, ba, bốn v.v…" Kế đến, cố gắng chọn lọc
các từ ngữ thuần Việt để thay thế toàn bộ các thuần ngữ chữ
Hán. Và thứ ba là thay thế thuật ngữ chữ Hán khó hiểu bằng
các thuật ngữ chữ Hán khác đã được Việt hóa. Có như vậy thì
việc đọc tụng kinh của người Việt Nam mới dễ dàng và thu
hoặch nhiều lợi ích. Dưới đây, chúng tôi xin đưa
ra vài tiêu chí để phiên dịch một văn bản kinh điển Phật giáo. 1. Chuyển dịch chính xác nội
dung nguyên tác, không thêm thắt những ý tưởng không có chứa
tải trong nội dung. Tính chính xác (accuracy) hay trung thành
(faithfulness to the original) với văn bản gốc được xem là tiêu
chí hàng đầu của phiên dịch nói chung, nhất là kinh điển đạo
Phật. Phong cách dịch thuật này ứng với phong cách dịch theo
hàng (line-by-line translation). Nghĩa là không nên đảo vị trí
"quá xa" của những câu bên dưới lên trên và ngược lại. Cách
dịch này giúp người đọc có thể kiểm chứng bằng phương pháp
đối chiếu văn bản một cách dễ dàng. Nên lưu ý, phong cách
này khác với cách dịch nghĩa đen (literary translation), chữ đâu
nghĩa đó, hay dịch "chữ theo chữ," mà bỏ quên nghĩa của toàn bộ
ngữ cảnh của chúng. 2. Cấu trúc và ngôn ngữ
biểu đạt phải rõ ràng, sáng sủa (stylistic elegance) và thuần
Việt. Sự rõ ràng, trong sáng trong phong cách biểu đạt là tiêu
chí quan trọng bậc nhì trong phương pháp dịch thuật kinh điển Phật
giáo. Một bản dịch trung thành nhưng nếu thiếu đi phong cách
diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu sẽ đánh mất đi mục đích phục vụ
của nó. Phong cách dịch này đòi hỏi nhà dịch thuật phải thông
thạo một cách nhuần nhuyễn văn phạm và ngôn từ dịch thuật, ở
đây là tiếng Việt. Tránh lạm dụng việc vai mượn quá nhiều
thuật ngữ Hán Việt, ngoại trừ các thuật ngữ này đã được
Việt hóa, tức đã được quần chúng sử dụng như tiếng Việt. Tuy
nhiên, sự rõ ràng về văn phong phải được đi song hành với tính
chính xác. Một bản dịch dù có hay về văn phong nhưng thiếu tính
trung thành với nguyên bản thì không còn gì tai hại cho bằng,
và do đó được xem là bản dịch tồi nhất. 3. Các đoạn trùng tụng hay
thi kệ nên chuyển thành văn vần theo thể thơ Việt Nam như lục
bát hay song thất lục bát hay thể ngũ ngôn. Vì mục đích của
các đoạn trùng tụng là nhằm tóm tắt ý của đoạn kinh văn dài
ở trên và giúp cho người đọc nhớ được ý kinh dễ dàng, nên
chuyển thể chúng sang thể thơ Việt Nam là thích hợp nhất. Nói tóm lại, một bản dịch
tiêu chuẩn trước nhất phải chuyển tải một cách trung thành ý
tưởng của văn bản gốc, với một văn phong rõ ràng, dễ hiểu,
người đọc không cần phải tra tự điển cũng có thể hiểu được
ý tưởng chứa tải trong nó. Nói khác hơn, "dịch thuật là nghệ
thuật tạo ra trong ngôn ngữ dịch (receptor language) các tương
đồng mang tính tự nhiên nhất (the closest natural equivalent) so
với thông điệp của ngôn ngữ được dịch hay ngôn ngữ nguồn
(source language), trước nhất về mặt ý nghĩa, kế đến về mặt
văn phong." Có hai trường phái phiên
dịch kinh điển quen thuộc trong giới Phật giáo Trung Quốc nói
riêng Phật giáo thế giới nói chung, đó là phong cách dịch
thuật của ngài Cưu-ma-la-thập (344-413) và ngài Huyền Tráng. Phong cách dịch thuật của
ngài Huyền Tráng có thể được thâu tóm trong phương pháp "ngủ
chủng bất phiên" (năm loại nên để nguyên ngữ mà không dịch),
trong đó, phần "không dịch nhân danh và địa danh tiếng nước
ngoài [Sanskrit và Pali]" và "chỉ nên phiên âm mà không dịch
nghĩa các thuật ngữ có nhiều nghĩa [ví dụ chữ pháp
(dharma // dhamma)] là hai điều đáng lưu ý nhất. Nếu người Trung
Quốc có phong cách "Trung Quốc hóa" tất cả các yếu tố ngoại
ngữ, ngay cả nhân danh và địa danh cũng được chuyển ngữ ra
tiếng Trung Hoa, thì người Việt Nam khi vay mượn ngôn ngữ của
họ, không bắt chước phong cách độc lập này, trái lại sử dụng
âm Hán Việt, nên không có lợi ích mà còn gặp nhiều trở ngại
cho giới quần chúng Việt Nam. Văn phong của ngài Huyền Tráng
là văn phong bác học, không tỉnh lược các đoạn trùng lập trong
khi dịch, nên gây nhiều khó khăn cho người đọc nhất là phương
diện âm vận của bản dịch. Do vậy mà công trình phiên dịch của
ngài dù nổi tiếng khắp thế giới và đã đi vào văn học và
điện ảnh Trung Quốc nhưng lại ít được giới Phật giáo Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam đọc tụng trong các
khóa lễ hằng ngày. Ngài Cưu-ma-la-thập dù là
người Ấn Độ nhưng do sống lâu năm tại Trung Quốc và dịch
trường của ngài có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ học,
triết gia, nhà văn hóa v.v… cộng tác, nên các bản dịch mang
tên ngài có một văn phong đặc biệt, trong sáng, gảy gọn và
rất thích hợp với giới đọc tụng kinh điển ở Trung Quốc. Phong
cách dịch thuật của ngài có thể tóm lược như sau: (1) Chuyển
ngữ ra tiếng Trung Quốc một cách tối đa các thuật ngữ Phật
học Sanskrit, (2) Sử dụng thể văn ngôn "bốn chữ" (tứ tự) để
tạo ngữ điệu đặc biệt cho bản dịch (tuy nhiên phong cách tứ tự
này không thích hợp trong tiếng Việt, do vì tiếng Việt có một
cấu trúc ngữ điệu khác với tiếng Trung Quốc), (3) Tỉnh lược
những đoạn văn có tính cách mô tả cảnh trí, địa dư, thưa hỏi
và nhất là các đoạn văn trùng lập (ví dụ trong bản Sanskrit
của kinh A-di-đà ghi chép đủ 10 phương Phật tán thán việc xiển
dương pháp niệm Phật như thiền định "nhất tâm bất loạn", bản
dịch của ngài Cưu-ma-la-thập đã tỉnh lược hết 4 phương, đó là
đông nam, tây nam, đông bắc và tây bắc, mà không hề ảnh
hưởng đến ý tứ của mạch văn). Với phong cách dịch thuật này,
các bản dịch kinh điển của ngài đã trở nên phổ biến nhất,
được sử dụng đọc tụng nhiều nhất trong các bản dịch kinh điển
của Trung Quốc từ trước đến giờ. Đút kết kinh nghiệm từ hai
phong cách dịch thuật tiêu biểu trên, người viết xin đề nghị
một số tiêu chí cho các bản dịch các kinh điển tiếng Việt: -- Chỉ phiên âm mà không
dịch các nhân danh và địa danh tiếng nước ngoài (Sanskrit, Pali,
Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản v.v…) -- Thay thế các thuật ngữ
Phật học chữ Hán bằng các thuật ngữ thuần tiếng Việt. -- Chỉ dùng chữ Hán trong
trường hợp tiếng Việt không có từ tương đương để diễn đạt. -- Giữ lại các yếu tố chữ
Hán đã được Việt hóa hoặc đã trở nên quen thuộc và dễ hiểu
trong dân gian. -- Các thuật ngữ Phật học
bắt đầu bằng pháp số phải được dịch ra tiếng Việt. -- Vận dụng thuật ngữ của
các ngành học hiện đại (như triết học, xã hội học, tâm lý
học, khoa học v.v…) để chuyển ngữ các thuật ngữ Phật học có
cùng nội dung. -- Tỉnh lược các đoạn, câu,
cụm từ (1) mang tính cách giải thích về địa danh, (2) liệt kê
trùng lập, (3) tường thuật trùng lập, (4) mang tính liệt kê
trùng lập chỉ thêm một vài từ mới và các đoạn thưa hỏi và
trả lời trùng lập. -- Dịch mạch văn theo cấu
trúc văn phạm và văn phong tiếng Việt. -- Đặt lại các tên kinh theo
nội dung chủ đề của chúng. Các tên kinh có chứa từ "dụ" nên
dịch là "kinh dụ ngôn …" để ý nghiã của kinh được dễ hiểu hơn. -- Phân loại và đánh số
thứ tự cho từng ý chính của bài kinh. -- Viết hoa chữ đầu và
không gạch nối các âm còn lại Vd: Hòa thượng, Thượng tọa,
Đại đức, Trụ trì, Viện chủ, Phương trượng v.v… -- Viết hoa chữ đầu và
gạch nối các âm còn lại: Áp dụng cho
các nhân danh, địa danh và thuật ngữ được chuyển âm (transliteration)
từ tiếng nước ngoài như Sanskrit, Pali, Tây Tạng (Ngoài trừ chữ Hán). Vd:
Thích-ca-mâu-ni, A-nan-đa; Ma-kiệt-đà, Ca-tỳ-la-vệ; A-tỳ-đạt-ma,
niết-bàn v.v… -- Viết hoa toàn bộ và
không dùng gạch nối: Áp dụng cho các
từ chỉ tên người (Phật, Bồ-tát, A-la-hán và người thường), tên đất
(nước, tỉnh thành, quận huyện, xứ sở, núi sông, đường phố) và tên
chùa tháp có nguồn gốc tiếng Việt hay Hán-Việt. Vd:
Phật Nhiên Đăng, Bồ-tát Quan Thế Âm, Trần Nhân Tông, nước Nepal,
thành phố Hồ Chí Minh, núi Phổ Đà, chùa Giác Ngộ v.v… -- Phép viết hoa tên tác
phẩm: Đối với tên của bài kinh, tên
của các chương, phẩm, sách, ta nên viết hoa toàn bộ các chữ, ngoại
trừ giới từ và liên từ. Giới từ và liên từ chỉ được viết hoa khi
chúng đứng đầu trong tên tác phẩm. Nếu các tên kinh sách có chứa
các từ chỉ tên người, tên đất và thuật ngữ có nguồn gốc tiếng nước
ngoài thì luật viết hoa sẽ được áp dụng như đã nêu ở mục 2 của phần
này. Vd:
Kinh Hoa Sen Chánh Pháp, Luận A-tỳ-đạt-ma, Luận Giải về Thiền (Thiền
Luận), Về Chuyện Sống Chết v.v… -- Phép viết nghiêng:
Áp dụng cho các nhân danh, địa danh, thuật ngữ có nguồn gốc nước
ngoài, và tên hay tựa đề và tiêu mục của các tác phẩm. (Phép viết
nghiêng này được áp dụng cho các phần 2, 3 và 4 nêu trên). Vd:
Varanasi, Sakyamuni, Aøgama, Nikàya, Duy Thức Tam Thập Tụng v.v… Do vì chịu ảnh hưởng của
ngôn ngữ cổ đại Ấn Độ, các từ chỉ cho con người trong kinh
điển thường được dùng với nam-tính. Tương tự, khái niệm tỳ-kheo
trong các kinh điển Phật giáo không phải chỉ dành riêng cho họ
mà còn được dùng chung cho các tỳ-kheo-ni và cư sĩ Phật tử. Tuy
nhiên cũng có một số trường hợp đặc biệt, một số bài kinh
chỉ dành riêng cho các vị tỳ-kheo, và do đó, khái niệm tỳ-kheo
trong trường hợp này không phải chỉ chung cho toàn thể thính
chúng trong pháp hội. Trên cơ sở của hai ngữ cảnh này, người
viết xin đề nghị cách chuyển ngữ khái niệm tỳ-kheo tùy theo
mạch văn như sau: -- Đối với trường hợp các
bài kinh dành riêng cho giới tu sĩ, khái niệm "tỳ-kheo" trong
thành ngữ "này các tỳ-kheo" nên được dịch thành: (1) "các đệ
tử xuất gia," hoặc (2) "người tầm cầu đạo hạnh" (lấy nghĩa
bóng của từ khất sĩ). Như vậy thành ngữ "này các tỳ-kheo"
trong trường hợp kinh Giáo Huấn Cuối Cùng (kinh Di giáo) v.v…
nên đổi thành "này các đệ tử xuất gia." -- Đối với các ngữ cảnh mà
từ tỳ-kheo được dùng đại diện cho toàn thể đệ tử Phật thì
nên dịch thành: (1) "Này các vị" hay (2) "Này các Phật tử." Ví
dụ khái niệm tỳ-kheo trong câu sau đây rõ ràng không phải chỉ
riêng cho các tỳ-kheo tăng mà chỉ chung cho tất cả mọi người:
"Này các tỳ-kheo, ta tuyên bố rằng, sự chủ ý là nghiệp. Do
có sự chủ ý, nên có các hành động của thân thể, lời nói
và suy tư." Do đó, nên đổi thành "này các vị / quý vị." Cách
thay đổi này nhằm giúp cho người đọc kinh có cảm giác rằng
đức Phật đang nói kinh này cho mình, nhờ đó, họ có thể chú ý
nhiều hơn trong khi đọc tụng. -- Tương tự, đối với các
kinh điển đại thừa, thành ngữ "này các thiện nam tử, thiện nữ
nhơn" hay "này các thiện nam tín nữ" nên đổi thành "này các
Phật tử" hay "này các vị," để cho ngữ cảnh đối thoại trở nên
thuần Việt và ấn tượng hơn. -- Ngoài ra, trong một số
kinh điển đại thừa, thuật ngữ "này thiện nam" hay "này thiện
nam tử" thường được các vị bồ-tát sử dụng để xưng hô với một
vị bồ-tát (thường là mới phát tâm) nên đổi thành "này tôn
giả" hay "này đại đức" tùy theo ngữ cảnh. Nếu vị bồ-tát mới
phát tâm đó là cư sĩ thì chỉ nên dùng "này tôn giả" để thay
thế, trong khi nếu vị ấy là một người xuất gia thì có thể dùng
cả hai trường hợp: tôn giả hay đại đức. Có nhiều phong cách dịch
thuật khác nhau, tùy theo sở trường và sở thích của người dịch.
Người viết xin nêu ra bốn phong cách dịch thuật chính, để trên
cơ sở đó, đề nghị một phong cách dịch thuật phù hợp với kinh
điển Phật giáo:
Trở ngại lớn nhất của phong
cách dịch nghĩa đen là người đọc không hiểu được ý tưởng của
mạch văn bản dịch, dù họ rất thông thạo về ngôn ngữ dịch.
Cách dịch nghĩa đen sẽ bỏ qua ý tưởng của toàn mạch văn, và
nguy hại hơn là sẽ làm cho mạch văn trong bản dịch thiếu tính
mạch lạc và đôi lúc không đúng với văn phong ngôn ngữ được
chuyển dịch. Nếu văn phạm và cách diễn đạt của 2 ngôn ngữ là
khác nhau, cách dịch này sẽ làm độc giả không hiểu được gì ý
tưởng của bản dịch, do dịch chữ đâu nghĩa đó. Ví dụ: Từ Bhik.su (Sanskrit)
hay bhikkhu (Pali) có nghĩa đen là "người hành khất, người ăn
xin" thường được phần lớn các dịch giả dịch là "khất sĩ" trong
chữ Hán, hay slo"ng-ba có nghĩa tương trong tiếng Tây Tạng. Một
số dịch giả Trung Quốc chọn cách phiên âm (transliteration) để
tránh sự chói tai trong ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Tác phẩm
Mahàvyupatti, từ điển thuật ngữ đối chiếu Sanskrit và Tây
Tạng, đã dịch nghĩa bóng của từ này thành "dge slong" có nghĩa
là "người tìm kiếm hay tầm cầu đức hạnh" (virtue-seeker), một
từ dịch rất đẹp và dễ thương. Từ "pàpa" thường được dịch
ra tiếng Anh "sin" trong khi khái niệm này trong Phật giáo chỉ cho
các hành vi (kamma//karma) bất thiện (akusala) mang
lại kết quả xấu cho mình và người; khác hoàn toàn với khái
niệm tội trong "tông tội" của Thiên chúa giáo.
Trong cách dịch này, dịch giả
không bám sát nghĩa đen của mạch văn, nhưng lại dịch theo cách
giải thích nghĩa của chúng thành một mạch văn dài hơn, hay bằng
các thuật ngữ có sẳn trong nền văn hóa của ngôn ngữ dịch.
Đây cũng chính là phương pháp dịch của rất nhiều dịch giả đầu
tiên của Trung Quốc, bằng cách vai mượn các thuật từ của Đạo
giáo, để chuyển tải tư tưởng Phật học. Ca-diếp Ma-đằng và
Trúc Pháp Lan là hai vị dịch giả đầu tiên sử dụng phong cách
này. Cách dịch giải thích này, trong một số trường hợp, thường
đi xa ý nguyên tác, dù có giúp cho đọc giả dễ dàng hiểu ý
tưởng của văn bản. Cách dịch này không nên áp dụng thái quá.
Nó chỉ nên ứng dụng trong một số trường hợp nhất định mà
thôi.
Để thực hiện phong cách dịch
này, dịch giả cần phải nắm thật vững ý tưởng của cả văn bản
gốc và văn bản dịch. Tuy nhiên cách dịch này có thể có khả
năng đi xa văn bản gốc, và có thể dẫn tới sự biến dạng của
văn bản gốc. Kế đến, nó có thể làm mất đi nhiều thông tin
của văn bản gốc, do bỏ qua (skipping) bối cảnh từ nguyên của
thuật ngữ (etymological background of terminology). Đối với các
thành ngữ và thuật ngữ có điển tích, sự mất mát sẽ dễ thấy
hơn. Nghĩa tiềm ẩn (implicit meaning) và nghĩa nổi (explicit
meaning) chứa đựng trong thành ngữ điễn tích dễ dàng bị bỏ quên
trong chuyển dịch. Đây là cách dịch nhấn mạnh
đến chủ đề của văn bản gốc, hơn là ý nghĩa của các thành tố
trong mạch văn. Khi nhấn mạnh đến chủ đề, người dịch dễ dàng
bỏ qua các yếu tố vi tế của mạch văn. Chẳng hạn khi dịch
"nhân thân nan đắc" thành "làm được thân người là khó" hay
"tái sanh kiếp người là khó" là cách dịch chủ đề. Ở đây, con
người là trọng tâm của mạch văn. Dịch như vậy sẽ dẫn đến các
vấn dề như: nếu thân người là khó, thì tại sao dân số thế
giới ngày càng tăng? Sự tăng dân số con người có phải do các
loài chúng sanh khác biết tu tập hạnh tốt và nhờ đó được tái
sanh làm người hay không? *** Nói tóm lại, mỗi phong cách
có điểm mạnh và điểm nhược, không có phong cách dịch thuật
nào là hoàn hảo cả. Do đó, tùy theo ngữ cảnh hay mạch văn
của văn bản kinh mà chúng ta uyển chuyển chọn phong cách dịch
cho thích hợp. Sự vận dụng một cách uyển chuyển và tương thích
các phong cách dịch thuật trên có thể giúp cho dịch giả tránh
được các thiếu sót và làm cho nội dung của bản dịch không chỉ
phản ánh trung thành văn bản nguyên tác mà còn mang một văn
phong thuần bản địa, để giúp cho người đọc tiếp cận dễ dàng
và hiệu quả hơn. Mặc dù có nhiều phong cách
dịch thuật nhưng tựu trung chỉ có 2 phương thức dịch thuật là (1)
dịch một mình không có hợp tác của chuyên gia ngôn ngữ gốc,
và (2) dịch với sự hợp tác của các chuyên gia bản địa về ngôn
ngữ gốc (Collaborative Translation). Phương thức dịch thứ hai là
hình thức làm việc nhóm (teamwork), bao gồm các chuyên gia của
ngôn ngữ được dịch và ngôn ngữ dịch. Các chuyên gia ngôn ngữ
được dịch sẽ giúp bản dịch có được tính chính xác. Các chuyên
gia của ngôn ngữ dịch sẽ giúp cho văn phong dịch sáng sủa, nhẹ
nhàng, mạch lạc, dễ hiểu và có tính văn học nghệ thuật cao,
và nhất là người đọc không cần tra tự điển vẫn có thể hiểu
được ý kinh. Đây là cách dịch lý tưởng nhất trong hai phương
thức. Phương thức này sẽ mang lại tính chính xác (accuracy) của
văn bản gốc, và tính chất lượng của ngôn ngữ dịch, nhất là
về phương diện rõ ràng, sáng sủa (clarity). Phương thức này đã được
ngài Cưu-ma-la-thập phối hợp nhuần nhuyễn với các cộng sự của
nhiều nhà văn thơ, triết học người Trung quốc, cho ra đời nhiều
dịch phẩm bất hũ. Từ xa xưa, phương thức này
cũng được các dịch giả Tây Tạng phối hợp với các chuyên gia
Ấn Độ vào những thời kỳ phiên dịch sơ khai của văn học tam
tạng Tây Tạng. Nhờ vậy mà các bản dịch kinh điển của Tây
Tạng rất trung thành với bản nguyên tác Sanskrit nhưng cũng rất
gần gủi với phong tục tập quán và văn hóa Tây Tạng. Lama
Chimpa cho chúng ta biết rằng không một bản dịch nào trong ba kho
tàng kinh điển của Tây tạng (Tibetan Kanjur và Tanjur: bao gồm
330 volumes, chứa hơn 5000 tác phẩm độc lập) từ tiếng Sanskrit
mà không có sự hợp tác nhuần nhuyễn của ít nhất ba học giả:
một vị cao tăng Ấn (tinh thông Sanskrit), vị dịch giả Tây Tạng
(tinh thông văn hóa Tây Tạng) và một vị nhuận văn phong. Nhiệm
vụ của vị cao tăng Ấn là nhằm cắt nghĩa và giải thích ý tưởng
của mạch văn cho vị dịch giả Tây Tạng (lotsàwa), người
dịch ý kinh văn ra tiếng Tây Tạng. Bản dịch sẽ được vị nhuận
văn (reviser-translator/shu-chen-gyi lotsàwa) chịu trách nhiệm hiệu
đính và nhuận văn. Rất tiếc cho đến ngày nay, các phong trào
và cá nhân dịch thuật kinh điển Phật giáo ra tiếng Việt đã
không có sự phối hợp cần thiết này. Ngày nay, các kinh sách Tây
Tạng đã đang được Viện Tây Tạng học Trung Ương (Central Institute
of Tibetan Studies, Sarnath, Ấn Độ) phiên dịch trở lại tiếng
Sanskrit để phục hồi một nền văn học Phật giáo đã bị thất
lạc và mất gốc, chỉ vì người ta tin tưởng rằng các bản dịch
Tây Tạng rất trung thành với bản Sanskrit và do đó việc dịch
ngược trở lại có thể một phần nào làm sống lại nền văn học
đại thừa này. Có rất nhiều trở ngại cho
các công trình phiên dịch kinh điển Phật giáo ra tiếng Việt,
chẳng hạn như nhân sự, địa điểm tập trung, ngân quỹ và các
phương tiện tham khảo, nghiên cứu cần thiết khác, như thư viện,
sách vở, các từ điển chuyên ngành và tự điển liên hệ. Các
khó khăn khác có thể kể đó là: --
Yêu cầu của một dịch giả: người dịch kinh điển Phật giáo cần phải
thông thạo hai nguồn ngôn ngữ, ngôn ngữ văn bản gốc (Sanskrit, Pali),
ngôn ngữ tham khảo (tiếng Tây Tạng, tiếng Trung Quốc) và ngôn ngữ
dịch thuật (tiếng Việt). Kế đến, nhà dịch thuật kinh điển Phật giáo
còn phải thông thạo về tư tưởng hay triết lý của nội dung của văn
bản gốc (bao gồm triết học và tôn giáo Ấn Độ cổ đại) và có khả
năng diễn đạt chúng bằng ngôn ngữ dịch. -- Sự khác nhau về cú pháp
(syntax) và ngữ nghĩa học (semantic) của ngôn ngữ
dịch và ngôn ngữ được dịch là vấn đề lớn nhất trong phiên
dịch. -- Sự không rõ ràng của
văn bản gốc (textual ambiguity) là hệ quả của sự khác
nhau về cú pháp (syntax) và ngữ nghĩa học (semantic)
giữa hai ngôn ngữ, có thể dẫn đến tình trạng hiểu sai và dịch
sai văn bản do đón mò. Sự không rõ ràng của ngôn ngữ gốc bao
gồm tính đa từ loại của một từ và tính đa nghĩa của chúng. Hai
yếu tố này thương dẫn tới việc hiểu sai ý tưởng của văn bản
gốc. -- Trong bất kỳ hai ngôn ngữ
nào cũng có tình trạng không thể có các thuật ngữ tương đương
thật sự. Nghĩa là có nhiều ý tưởng có trong ngôn ngữ này lại
không tìm thấy trong ngôn ngữ kia, và ngược lại. Trong trường
hợp đó, người dịch phải cố gắng tìm từ gần nghĩa nhất để
chuyển ngữ và đính kèm theo một chú thích về nghĩa từ nguyên
của thuật ngữ gốc, để người đọc có thể hình dung một cách
tương đối. Ví dụ, khái niệm "triết
học" (philosophy) của phương Tây không có từ tương đương
trong ngôn ngữ Pali và Sanskrit của Phật giáo. Khái niệm "pháp"
(dhamma/dharma), "Phật" (Buddha) và Bồ-tát (Bodhisattva) v.v… không
có từ tương đương trong tiếng Việt, Anh, Hoa và bất kỳ tiếng
nào trên thế giới. Sự vai mượn từ của hai nền văn hóa khác
nhau mà không chú dẫn bối cảnh từ nguyên của chúng sẽ dẫn
đến sự hiểu lầm đáng trách. Sự khác nhau về văn hóa dẫn đến
sự khác nhau căn bản về ngôn ngữ và ý tưởng chứa tải trong
ngôn ngữ. -- Sự rời rạc (disparity)
và thiếu nhất quán (inconsistencey) là vấn đề nghiêm
trọng của dịch thuật, mà người dịch kinh điển Phật giáo cần lưu
ý. Trở ngại này thường thấy trong một tác phẩm nhiều tập với
nhiều dịch giả khác nhau. Kết quả là, một thuật ngữ trong ngôn
ngữ gốc lại được dịch ra thành nhiều từ khác nhau, làm cho
người đọc lẫn lộn và không biết đâu là ý tưởng chính yếu,
và từ dịch nào là chính xác và đáng tin cậy. -- Bất đồng về tiêu chuẩn
của các thuật ngữ (lack of standardization of terminology).
Việc tạo ra các từ mới (coining a new term/word) không có
trong cả hai ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ được dịch là công việc
rất cần thiết nhưng vô cùng khó khăn. Công viẹc này nên được
sự hỗ trợ của các cước chú, để người đọc dễ dàng tiếp
nhận. Ví dụ, khái niệm "delusion" trong tiếng Anh không
chuyển tải hết ý nghĩa của chữ "vô minh" (moha) hay (avidya) của
Phật giáo. Do đó, nếu không giải thích, người đọc sẽ hiểu sai
hay hiểu áp đặt, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa tiếng Anh,
hơn là văn hóa Phật giáo. -- Phiên âm (Transliteration).
Để tránh các khuyết điểm trong việc phiên dịch không hết nghĩa
của một từ đa nghĩa, các dịch giả nên chọn cách phiên âm mà
không dịch nghĩa. Cách này lại phát sanh các khó khăn về âm
tiết học (phonetics) và do đó có thể dẫn đến việc đọc
và phiên không chính xác từ gốc. Việc phiên âm Hán Việt trong
các bản dịch kinh điển tiếng Việt là một điển hình nhất về
vấn đề này. Việt hóa nghi thức tụng
niệm hay công việc phiên dịch kinh điển từ tiếng Sanskrit, Pali,
Trung Quốc v.v… sang tiếng Việt là một công trình đòi hỏi đến
sự đóng góp của nhiều người về nhiều phương diện, chẳng hạn
như nguồn chất xám, ngân quỹ, địa điểm, phương tiện khảo cứu,
dịch thuật và ấn loát v.v… Theo tinh thần duyên khởi "cái này
có nên cái kia có" của đạo Phật thì mọi vấn đề đều có giải
pháp toàn hảo của nó. Người viết mong rằng các bậc lãnh đạo
Phật giáo, các tổ chức và giáo hội Phật giáo trong và ngoài
nước, các tự viện và các cơ sở giáo dục Phật giáo nên quan
tâm về vấn đề này, bằng cách thông báo, chiêu mộ nhân tài
và phân bổ công việc một cách hợp lý cho sự nghiệp Việt hóa
nghi thức tụng niệm và phiên dịch kinh điển ra tiếng Việt. Có như vậy, quần chúng Phật
tử Việt Nam sẽ không còn nô lệ ngôn ngữ chữ Hán trong việc
diễn đạt tư tưởng Phật học, và nhất là sẽ có thể trình bày
tư tưởng Phật học một cách chính xác, mạch lạc bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ của mình. Nói khác hơn, công trình Việt hóa nghi thức
tụng niệm và phiên dịch kinh điển ra tiếng Việt một cách tiêu
chuẩn sẽ giúp cho người Việt Nam hiểu đức Phật và đạo Phật
hơn, để người Việt Nam "sống" thông điệp từ bi và trí tuệ của
đức Phật một cách có hiệu quả hơn, và sau cùng để thăng hoa
đời sống tâm linh và đạo đức của người Việt Nam và nước Việt
Nam đúng với tinh thần cao thượng của lời Phật dạy. Trong niềm
hy vọng và niềm vui đó, người viết kính mong công trình này sớm
được thực hiện và đưa vào sử dụng trên toàn quốc và ở những
nơi có cộng đồng người Việt sinh sống trên khắp thế giới.
Nguồn: www.quangduc.com