--- o0o ---
Một
năm, không theo trong Phật giáo, thông thường dân gian có ba ngày rằm
chính. Đó là: Rằm tháng giêng, Rằm tháng bảy và Rằm tháng mười.
Trong ba ngày rằm
nầy, người ta còn gọi các danh từ khác nữa như: Thượng nguơn, trung nguơn
và hạ nguơn, hay: Thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên.
Ca dao, tục ngữ
Việt nam thường truyền khẩu:
Rằm tháng Giêng,
ai có tiền thì quảy,
Rằm tháng Bảy,
người quảy kẻ không,
Rằm tháng Mười,
mười người mười quảy.
Chữ quảy tức là
cúng với danh từ chung là cúng quảy được tách ra, theo danh từ địa phương
mà đặc biệt là miền trung Việt Nam của chúng ta.
Phật giáo có chung
một ngày rằm với dân gian, đó là ngày rằm tháng bảy hằng năm. Tất cả những
ngày mồng một và ngày rằm trong năm, Phật giáo đều gọi là ngày Sóc và ngày
Vọng (dùng theo danh từ Phật học). Chư Tăng dùng hai ngày nầy để bố tát và
tụng giới, tùy theo khả năng và cấp bậc đã phát nguyện vâng giữ. Phật tử
cũng tùy theo giới luật đã cầu thọ của mình, nương theo chư Tăng để được
học giới, tụng giới và tiến tu.
Bài nầy chỉ nói về Ba Ngày Rằm trên theo dân gian đang lễ cúng hằng năm.
Vì, Phật pháp không xa rời thế gian pháp (Phật pháp bất ly thế gian pháp),
Phật pháp lấy ?dĩ huyễn độ chơn?, nên không lạ gì trong chốn già lam
thường tổ chức những ngày lễ như rằm tháng giêng hay rằm tháng mười.
Tâm nguyện của chư
vị Bồ tát thường chủ trương rằng:
- Chính ta không
vào địa ngục thì ai là người vào địa ngục để thuyết giáo cho chúng sanh
đang trầm luân, đọa lạc?
Với tâm niệm và
hạnh nguyện cứu khổ ban vui đại bi tâm của Đại thừa Phật giáo khai phương
tiện như thế, cho nên, chốn già lam tùy duyên hóa độ bằng cách tùy theo
niềm tin của lớp đại đa số quần chúng sơ cơ học đạo giải thoát mà tổ chức
các buổi lễ lạc, không ngoài mục đích chính là hướng dẫn chúng sanh quay
về bờ giác, ... Vì vậy, không lạ gì có một số chùa mà không phải là Phật
học viện, Phật học đường cũng có thờ đức Quan Thánh Đế (đức Quan Công),
rồi có các hộp xăm quẻ như là: Quán âm linh thiêm tức là xăm Quán âm, xăm
Quan thánh, ... Tuy nhiên, một số sư sãi ở các chùa, một phần vì giáo lý
không tinh thông, một phần khác không nhắm vào vấn đề chính là ?đạt giả
tầm chơn?, lại còn lợi dụng như cảnh ?mượn đạo tạo đời? để lợi dưỡng riêng
tư cho bản thân mình, cho ngôi chùa mình. Từ đó, đã hướng dẫn một số nhẹ
dạ tin theo họa phước vu vơ, đi một con đường sai lạc với chánh pháp, gần
với Lạc ma giáo và Phù chú giáo có thể nặng về phần mê tín dị đoan hơn là
tu tập. Thậm chí có những tu sĩ mang danh là văn hóa Phật giáo mang pháp
phục nhà Phật, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm dao phay múa qua múa lại trước
bàn cúng sao hội như một ông phù thủy không hơn không kém; lại còn ra vẻ
hiêu hiêu tự đắc, quyền trọng ra uy như một võ tướng cầm thương ra trận
mạc, trông thật tội nghiệp về sở học và sở tu cho suốt cuộc đời của họ.
Cũng chính một vài điểm như vậy, một số người chưa thâm nhập giáo lý Phật
đà một cách nghiêm chỉnh, chưa được thọ giáo với các bậc chơn tu thực học
của Phật giáo, khi nhìn vào Phật giáo đã vội phê phán, đã vội lên án Phật
giáo là như thế nầy, Phật giáo là như thế nọ ..., rất đáng tiếc và đáng
thương hơn là đáng trách.
Rằm tháng giêng,
là ngày rằm đầu tiên trong năm, dân chúng dùng để cầu nguyện cho bản thân,
cho gia đình cả năm đều được như ý về mọi mặt như: Tai qua nạn khỏi, công
ăn việc làm được thuận buồm xuông gió, hanh thông, ... Họ sắm lễ vật để
cầu an, dương sao, giải hạn. Vùng nào có chùa thì cùng nhau vào chùa để
nhờ quý sư sãi lập đàn cầu nguyện. Tuy nhiên, có những gia đình quá nghèo,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Những gì về vật chất có được đều đem ra
xử dụng trong ba ngày Tết. Chưa hết tết là đã bắt đầu cuộc sống vất vả
thường lệ như trong năm. Thậm chí có những gia đình mới ngày mồng hai tết,
trời vừa ló dạng là đã vác cuốc ra đồng hay đi kiếm việc làm nữa là khác.
Thân mạng, gia đình của họ đều phó thác cho trời, Phật, Thành thần (tùy
theo niềm tin của họ).
Họ chỉ nghĩ một
câu đơn giản: Ăn hiền, ở lành thì có trời, Phật biết là đủ. Vì lâm vào
cuộc sống như vậy, thử hỏi tiền đâu để mua sắm lễ vật; nên nhân gian mới
nói ra: ?Rằm tháng giêng, ai có tiền thì quảy? là như vậy.
Dân chúng có ảnh
hưởng đến giáo lý Phật đà, được chư Tăng hướng dẫn tu học; hoặc được thọ
sanh trong những gia đình nền nếp thuần lương, đạo đức, được ông bà tổ
tiên hướng dẫn đàng hoàng, đến ngày rằm tháng bảy đều có sắm lễ vật y như
trong kinh Báo hiếu Phụ mẫu trọng ân, kinh Vu lan,... để cúng dường Tam
bảo, chư Tăng, ông bà tổ tiên và cha mẹ hiện đang tại thế hay quá vãng.
Không những thế, họ theo chư Tăng để lập đàn tràng cúng cho Thập loại
chúng sanh, khi sống thì không được no đủ, khi chết thì gặp phải cảnh bất
trắc như cụ thi hào Nguyễn Du đã từng diễn tả từ ngàn xưa. Chết theo hoàn
cảnh không thuộc trong ý nguyện là tử an, thì được gọi là Bất đắc kỳ tử.
Hạng chết bất đắc kỳ tử thì quá nhiều, cần phải được cầu nguyện, cần phải
được cúng cấp theo niềm tin của quần chúng để các âm linh khỏi bị đói
khát, lạnh lẽo khổ sở, ...
Còn một số không
được gia đình giáo dục, không được ảnh hưởng về cả ba tôn giáo: Phật, Lão
và Khổng. Họ sống một cuộc đời buông thả mà người đời thường gọi là ký
sinh trùng của xã hội. Họ sống không nhà, thác không mồ. Không biết và
không hề nghĩ đến đức cù lao sinh dưỡng của cha mẹ, chứ đừng nói gì là
nghĩ đến ông bà tổ tiên. Đã không nghĩ đến, thử hỏi làm sao nói đến chuyện
cúng kính. Từ đó, nhân gian mới truyền tụng: ?Rằm tháng Bảy, người quả, kẻ
không? là như vậy.
Vụ tháng tám hằng
năm tức là vụ trái, vụ tháng ba tức vụ mùa. Sau khi vụ trái vừa gặt hái
xong xuôi, công việc đồng áng cả năm bắt đầu nhẹ nhàng hơn, thư thả hơn.
Lúc đã đầy bồ, rơm rạ đã thành đống khô ráo, tươm tất. Đông tiết lạnh lẽo
mà lại được mùa, có lúa mới, dân chúng nghĩ đến ơn nghĩa của trời đất mưa
thuận gió hòa, trong năm không bị lụt lội làm hư hại mùa màng; đến ngày
rằm tháng mười bèn đem những gì đã được làm ra, họ chế tạo những thức ăn
theo phong tục địa phương tự ngàn xưa như: Xôi, chè, bánh bột lọc, bánh
gạo (tục gọi là bánh gói, bánh nậm, ...), cọng với cơm cỗ, ... để dâng
cúng. Họ gọi đây như là lễ tạ ơn. Ở xứ hoa kỳ cũng có lễ tạ ơn vậy. Lễ tạ
ơn nầy là một trong bốn ơn của Phật giáo mà đức Phật đã dạy khi ngài còn
tại thế. Sau khi cúng tạ ơn trời đất xong, cả gia đình sum họp quanh bếp
lửa hồng của mùa đông giá rét với một bữa no đủ, ấm cúng. Dân chúng ai ai
cũng có thu hoạch được một số thực phẩm trong vụ tháng tám vừa rồi, mọi
nhà đều cúng lễ tạ ơn nầy, từ đó trong nhân gian mới truyền tụng câu: ?Rằm
tháng Mười, mười người mười quảy? là như vậy.
Như vậy, trong ba
ngày rằm kể trên, ngày rằm trọng đại hơn hết là ngày Rằm tháng Bảy. Ngày
nầy nhờ ảnh hưởng đến Phật, Lão và Khổng giáo mà đặc biệt là Phật giáo. Vi
đạo Phật là đạo Hiếu. Nói đến hạnh Phật là nói đến hạnh Hiếu. Là người
Phật tử chơn chánh, ơn nhỏ đã không quên thì ơn lớn sẽ không bao giờ quên.
Vì ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên là một trong bốn ơn lớn mà đức Thế tôn Thích
Ca Mâu Ni Từ phụ đã răn dạy cho hàng đệ tử của ngài, dù là xuất gia hay
tại gia. Đó là tứ ân: tức ơn Tam bảo , ơn cha mẹ, ơn thầy tổ và đàn na tín
chủ và ơn quốc gia xã hội, sơn hà xã tắc, thiên địa phú tãi. Người học
Phật phải biết rõ và mãi ghi nhớ bốn ơn nầy. Ngày rằm nầy mang một ý nghĩa
trọng đại và vô cùng thâm thúy. Ngày của ơn trả nghĩa đền. Ngày của con
thảo cháu hiền phải nghĩ đến ân đức sanh thành dưỡng dục. Ngày cầu nguyện
để cứu độ cho thân nhân đã khuất bóng nếu bị nghiệp duyên ràng buộc thì
sớm được nhẹ nghiệp và hết nghiệp để được vãng sanh về cảnh giới an lạc,
sớm được giải thoát. Ngày cúng nguyện cho hàng thập loại chúng sanh không
may tạo nghiệp đang bị đọa lạc trong chín tầng địa ngục được no đủ và sớm
thoát nghiệp. Ngày của chiến sĩ trận vong.
Đối với Tam bảo:
Đó là ngày Phật hoan hỷ, ngày chúng Tăng hoan hỷ, ngày phước đức của người
con Phật... .
Thích Tín Nghĩa
--- o0o ---
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật: 01-12-2004