Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Đặc tánh của Niết Bàn
"Niết
bàn là gì, hỡi đạo hữu?
Sự tận diệt tham, tận diệt sân, tận diệt si.
Đó, nầy đạo hữu, gọi là Niết Bàn.''
--
Tạp A Hàm
---o0o---
Đối
nghịch với cảnh giới hữu tình của vòng luân hồi trong
ấy tất cả đều là những hiện tượng luôn luôn biến đổi,
sanh diệt, diệt sanh, Niết Bàn là vĩnh cửu (dhuva), đáng được
ham muốn (subha), và hạnh phúc (sukha).
Theo Phật Giáo các pháp - tại thế và
siêu thế - đều được sắp vào hai loại: (a) những pháp
hữu vi, tùy thế, thuộc thế gian pháp, có nhiều hay một nguyên
nhân tạo điều kiện để phát sanh (samkhata); và (b) những pháp
vô vi, bất tùy thế (asamkhata), không cần nguyên nhân hay điều
kiện nào để hiện hữu.
Vậy tùy thế (samkhatalakkhanani) luân
chuyển trong ba giai đoạn: sanh (uppada), diệt (vaya) và biến đổi
trạng thái (thitassa annathattam). [1]
Phát sanh hay trở thành là đặc tánh
chánh yếu của mọi vật cấu tạo, hữu vi, do một hay nhiều
nguyên nhân tạo điều kiện để hiện hữu. Cái gì phát sanh
hay trở thành tức nhiên phải biến đổi và phân tán. Pháp
hữu vi luôn luôn trở thành và lôn luôn biến đổi. Vô thường
biến đổi là định luận bao quát, phổ thông cho mọi sự
vật - vật chất lẫn tinh thần - nằm trong vũ trụ, từ tế
bào hết sức vi tế đến những chúng sanh thật to lớn hay
những hình thể khổng lồ. Tâm, tuy vô hình, biến đổi lại
càng nhanh chóng hơn vật chất.
Sự hiện hữu của Niết Bàn, trạng
thái siêu thế mà chư Phật và chư vị A La Hán chứng ngộ,
không tùy thuộc nguyên nhân nào. Vì lẽ ấy, Niết Bàn không
trở thành, không biến đổi, không bị phân tán. Niết Bàn là
vô sanh (ajata), bất hoại (ajara), và bất diệt (amara). Một cách
chính xác, Niết Bàn không phải là quả, cũng không phải là
nhân. Do đó Niết Bàn là duy nhất (kevala).
Cái gì phát sanh do một nguyên nhân
chắc chắn phải hoại diệt, và do đó, là không đáng được
ham muốn. Đời sống là sở hữu mà con người thiết tha quý
trọng nhất, thế nhưng lắm khi, trong những cảnh ngộ khó khăn
và dưới những gánh nặng quá đổi, chính cái đời sống
được yêu chuộng ấy trở thành không thể chịu nổi. Trong
những lúc ấy, sống là một cực hình, và những người
yếu tánh đôi khi nghĩ đến việc quyên sinh cuộc sống, tưởng
chừng như chết là quyết được mọi vấn đề đau khổ.
Tất cả chúng ta đều thương yêu và
hết sức cố gắng chăm nom, săn sóc, trang điểm thân thể như
vật rất quý. Nhưng tấm thân duyên dáng, yêu kiều, diễm
lệ, và khả ái nầy là nguồn gốc bao nhiêu đau khổ. Đến
lúc bị thời gian và bệnh tật làm hao mòn tiều tụy đi
rồi thì cơ thể vật chất nầy chỉ còn là gánh nặng vô cùng
khả ố.
Sau đây là một chuyện tích lý thú,
ngụ ý rằng đời sống và những lạc thú của kiếp nhân
sinh chỉ là tạm bợ:
- Một
chàng nọ lầm lủi đi giữa một khu rừng mênh mông đầy chông
gai và gành đá ngổn ngang. Bỗng nhiên anh thấy sau lưng một
thớ tượng to tướng rảo bước đi về phái mình. Sợ hãi,
anh đâm đầu chạy. Voi chạy theo đến trước một giếng
cạn, anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng nhìn xuống
giếng anh nhìn thấy một con rắn độc nằm dưới đáy. Không
còn cách nào khác nữa anh đành đeo theo một sợi dây đầy
gai có sẵn, lòng thòng trên miệng giếng. Tạm thoát khỏi
nạn, anh nhìn lên thấy hai con chuột, một đen một trắng, đang
cặm cụi gặm sợi dây mà anh đang đeo. Lúc anh ngửa mặt lên
thì từ một ổ ong phía trên, vài giọt mật nhỏ ngay vào
miệng.
Anh chàng
lấy làm thỏa thích, lãng quên là mình đang sống trong tình
trạng bấp bênh và hết sức nguy ngập, yên trí tận hưởng
vị ngọt ngào của mật. Vừa lúc ấy có một người giàu lòng
bi mẫn chỉ đường cho anh thoát nạn.
Nhưng
anh lễ độ xin Ngài cảm phiền chờ một chút, để anh thưởng
thức hết giọt mật...
Khu rừng mênh mông và đầy chông gai
là vòng luân hồi, trầm luân bể khổ. Đời sống của chúng
sanh không phải là một vườn hoa hồng tươi đẹp mà dẫy đầy
những hoàn cảnh cam go đau khổ. Chúng ta phải vượt qua bao
nhiêu chướng ngại, chịu đựng bao nhiêu sự chỉ trích bất
công, những hành vi chống đối, những câu nói khiêu khích,
những cuộc tấn công, những lời nguyền rủa. Đó là những
con đường chông gai của cuộc sống.
Thớt voi giống như cái chết. Con
rắn độc như tuổi già. Sợi dây đầy gai là sự sanh [2].
Hai con chuột, là ngày và đêm. Những giọt mật ngọt ngào là
thú vui của đời sống,và người giàu lòng bi mẫn, sẵn sàng
chỉ lối thoát là Đức Phật.
Cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc
trong đời sống chỉ là sự thoả mãn một vài điều mong
mỏi. Khi được một việc ta lại muốn việc khác. Tham vọng
không khi nào dứt, không khi nào ta cho là vừa đủ.
Vậy, phiền não và đau khổ là bản
chất thiên nhiên của đời sống, và không chúng sanh nào
trong tam giới có thể tránh thoát.
Niết Bàn là pháp bất tùy thế, vô
vi, không tùy thuộc nhân duyên để hiện hữu. Do đó Niết Bàn
là trường cửu, vô sanh, bất diệt (dhuva), đáng được ham
muốn (subha), và hạnh phúc (sukha).
Ta nên phân biệt hạnh phúc Niết Bàn
với hạnh phúc thông thường ở thế gian.
Hạnh phúc Niết Bàn không phai lạt,
cũng không nhàm chán. Đó là hạnh phúc không mệt mỏi, không
đổi thay.
Hạnh phúc tạm bợ ở thế gian là
sự thỏa mãn một vài tham vọng (vedayita). Trái lại, hạnh phúc
Niết Bàn phát sanh do sự giảm suy dục vọng(vupasama).
Trong kinh Bahuvedaniya Sutta [3], Đức
Phật kể ra mười loại hạnh phúc sắp xếp theo thứ tự,
bắt đầu từ những khoái lạc thô kịch do sự thỏa mãn
nhục dục. Phẩm hạnh đạo đức càng lên cao, loại hạnh phúc
càng trở nên phấn khởi, cao thượng, vi tế đến độ thế
gian khó nhận thức được rằng đó là hạnh phúc. Khi đắc
Sơ Thiền, hành giả đã hưởng được một thứ hạnh phúc
khác thường, tuyệt đối không liên hệ đến ngũ quan. Hạnh
phúc này phát sanh do sự chế ngự lòng ham muốn thỏa mãn
nhục dục mà người sống theo vật chất đánh giá thật cao.
Tuy nhiên, khi hành giả đắc Tứ Thiền, cho đến loại hạnh
phúc của Sơ Thiền cũng trở thành thô kịch và không lợi ích,
so với hạnh phúc mới thành tựu, tức tâm Xả (Upekkha).
Đức phật dạy:
"Nầy Ananda, những giây trói
buộc của nhục dục ngũ trần có năm loại. Năm loại ấy là
gì? Là những hình thể do mắt tiếp nhận, đáng ham muốn,
quyến rũ, dễ mến, dễ say mê, và theo sau đó là sự thèm
thuồng khuấy động, làm dậy lên đám bụi khát vọng.
"Là những âm thanh do tai, những
mùi hương do mũi, những vị do lưỡi, những sự xúc chạm do
thân tiếp nhận, đáng ham muốn, quyến rũ, dễ mến, dễ say
mê và theo sau đó là sự thèm thuồng, khuấy động, làm dậy
lên đám bụi khát vọng; nầy Ananda, đó là năm dây trói
buộc của nhục dục. Bất luận hạnh phúc hay lạc thú nào
phát sanh do năm trói buộc của nhục dục ngũ trần là hạnh
phúc vật chất.
"Kẻ nào nói rằng: - 'đây là
hạnh phúc cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ hưởng'.
Như Lai không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì có hạnh phúc khác
phấn khởi và cao thượng hơn. Và hạnh phúc khác phấn khởi
và cao thượng hơn là gì?
"Ở đây, vị Tỳ khưu hoàn toàn
dứt bỏ lòng ham muốn thỏa mãn những dục vọng, xa lìa
những trạng thái bất thiện, sống ẩn dật nơi vắng vẻ và
yên tĩnh, phát triển Tầm, Sát đến Phỉ, Lạc và an trụ tâm
trong Sơ Thiền (Pathama Jhana). Đó là hạnh phúc phấn khởi và
cao thượng hơn.
"Tuy nhiên nếu ai nói rằng: - 'đây
là hạnh phúc và lạc thú cao trọng nhất mà chúng sanh có
thể thọ hưởng', Như Lai không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì
có hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Nơi đây Tầm, Sát vững chắc,
không chao động. Yên tĩnh bên trong, tâm kiên cố, vị Tỳ khưu
chấm dứt Tầm, Sát, và do trạng thái vắng lặng, tiến đến
Phỉ, Lạc và an trụ tâm vào Nhị Thiền (Dutiya Jhana). Đó là
hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Nhưng nếu có kẻ bảo rằng đó
là cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ huởng, Như Lai
không chấp nhận. Còn hạnh phúc cao thượng hơn?
"Ở đây, chấm dứt lòng thích
thú trong Phỉ, giữ yên lặng, an trụ và hoàn toàn giác tỉnh,
vị Tỳ khưu thọ hưởng trạng thái mà bậc thánh nhân mô
tả 'tâm bình thản, quân bình (tâm xả)' và an trụ trong
hạnh phúc. Như vậy, hành giả nhập Tam Thiền (Tatiya Jhana).
Đó là hạnh phúc phấn khởi và cao thượng hơn.
"Mặc dầu vậy, nếu có kẻ
bảo rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất, Như Lai không
chấp nhận. Còn hạnh phúc cao thượng và phấn khởi hơn?
"Nơi đây, dứt bỏ lạc thú và
đau khổ, để lại phía sau mọi lạc thú và phiền não, không-đau-khổ,
không-vui-thú, tâm xả hoàn toàn và an trụ, hành giả thành đạt
Tứ Thiền (Catuttha Jhana). Đó là hạnh phúc phấn khởi và cao
thượng hơn.
"Tuy nhiên, nếu nói rằng đó là
hạnh phúc cao thượng nhất thì Như Lai không chấp nhận. Còn
hạnh phúc cao thượng hơn.
"Nơi đây, vượt lên mọi tri giác
và hình thể, không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không
quan tâm đến tri giác về tình trạng khác nhau, vị Tỳ khưu
suy niệm: 'không gian vô tận' và sống trong cảnh giới Không
Vô Biên Xứ (Akasanancayatana), có quan niệm rằng không gian vô
cùng tận. Đó là hạnh phúc phấn khởi và cao thượng hơn
"Nhưng nói rằng đó là hạnh phúc
cao thượng nhất thì Như Lai không chấp nhận. Có hạnh phúc
ca thượng hơn.
"Nơi đây vượt lên khỏi cảnh
giới Không Vô Biên Xứ, vị Tỳ khưu suy niệm: 'thức vô cùng
tận', và sống trong cảnh Thức Vô Biên Xứ (Vinnananacayatana).
Đó là hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Tuy nhiên nếu nói đó là hạnh
phúc cao thượng nhất thì Như Lai không chấp nhận. Còn hạnh
phúc cao thượng hơn.
"Nơi đây vượt khỏi cảnh
Thức Vô Biên Xứ, vị Tỳ khưu suy niệm: 'không có gì hết'
và sống an trụ trong cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (Akincannayatana).
Đó là hạnh phúc cao thượng hơn.
"Mặc dầu vậy, nếu có kẻ
bảo rằng đó là hạnh phúc cao thượng nhất, thì Như Lai không
chấp nhận. Có hạnh phúc khác cao thượng hơn.
"Nơi đây vượt hẳn lên khỏi
cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ, vị Tỳ khưu sống an trụ trong
cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (N'evasanna n'asannayatana).
Đó là hạnh phúc khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Tuy nhiên nếu có ai bảo: 'đây
là lạc thú và cao thượng nhất mà chúng sanh có thể thọ hưởng'.
Như lai sẽ không chấp nhận. Tại sao? Bởi vì hạnh phúc khác,
phấn khởi và cao thượng hơn.
"Nơi đây vượt hẳn khỏi cảnh
giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, đạt đến mọi chấm dứt
mọi tri giác và cảm giác, vị Tỳ khưu sống không còn tri giác
và cảm giác (Sannavedayita Nirhoda). Nầy Ananda, đó là hạnh phúc
khác, phấn khởi và cao thượng hơn.
"Trong mười hạnh phúc, đó là
hạnh phúc cao thượng nhất. Trạng thái tối thượng ấy là
Nirodha Samapatti (Diệt Thọ Tưởng Định), nghĩa là thọ hưởng
quả Niết Bàn trong kiếp hiện tiền."
Ta có thể hỏi: "Sao có thể
gọi là trạng thái cao thượng nhất trong khi không còn tâm
thức để thọ hưởng?"
Đức Phật giải đáp:
"Không, nầy chư đệ tử, Như
Lai không chấp nhận là một hạnh phúc nếu hạnh phúc ấy
chỉ là một cảm giác thỏa thích. Nhưng nầy chư đệ tử, nơi
nào phát sanh chân hạnh phúc, nơi ấy, và chỉ nơi ấy thôi,
Đức Thế Tôn mới nhận là hạnh phúc." [3]
Và Đức Phật dạy tiếp:
"Như Lai tuyên bố rằng mà tất
cả những gì mà giác quan cảm nhận đều là đau khổ. Tại
sao? Bởi vì người trong cuộc cảnh khổ khao khát được
hạnh phúc, mà người được xem là đã có hạnh phúc cũng
vẫn khao khát được thêm nữa. Lòng tham của thế gian không
cùng tận."
Dùng những ngôn từ chế định, Đức
Phật tuyên bố:
"Nibbanam
paramam sukham - Niết bàn là hạnh phúc tối thượng".
Là hạnh phúc tối thượng vì Niết
bàn không phải là loại hạnh phúc do ngũ quan chứng nghiệm.
Niết Bàn là pháp chân lạc tuyệt đối, là hạnh phúc phát
sanh do trạng thái tích cực giải thoát ra khỏi mọi đau khổ
của đời sống.
Chính sự đoạn tuyệt trạng thái đau
khổ thường được gọi là hạnh phúc, mặc dầu danh từ
ấy không mấy thích hợp để miêu tả bản chất thật sự
của Niết Bàn.
Niết Bàn ở
đâu?
Trong sách "Vua Milinda Vấn Đạo",
Đức Nagasena giải đáp câu hỏi ấy như sau:
"Không có nơi nào nhìn về hướng
tây, hướng nam, hướng đông, hướng bắc, phía trên, phía dưới,
hay phía ngoài, mà có thể nói rằng đó là Niết Bàn. Tuy nhiên,
Niết Bàn thật sự có,và người nào có cuộc sống chân chánh,
giới hạnh trang nghiêm, và chú tâm minh sát, dầu ở Hy Lạp,
Trung Hoa, Alexandria, hay Kosala, đều có thể thành tựu Đạo
Quả Niết Bàn.
"Cũng như lửa, không phải được
tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều
kiện thì lửa phát sanh. Cùng thế ấy ta không thể nói Niết
Bàn ở đâu, nhưng khi Đạo đủ duyên đầy, thì Quả Niết Bàn
được thành tựu."
Kinh Rohitassa Sutta có ghi lại những
Phật ngôn sau đây:
"Như Lai tuyên bố rằng thế gian,
nguồn gốc của thế gian, và con đường dẫn đến sự chấm
dứt thế gian, đều nằm trong tấm thân một trượng nầy, cùng
với tri giác và tư tưởng." [4]
Trong đoạn kinh nầy, danh từ 'thế
gian' có nghĩa là đau khổ. Do đó, chấm dứt hay tiêu diệt
thế gian là chấm dứt đau khổ, tức Niết Bàn. Niết Bàn
của ta tùy thuộc nơi tấm thân một trượng nầy. Niết Bàn
không phải là cái gì đã được tạo ra hay cái gì cần
phải được tạo ra. [5]
Niết Bàn là nơi bốn nguyên tố
cấu thành vật chất -- nguyên tố Nước (apo), có đặc tính
kết hợp, làm dính liền lại; nguyên tố Đất (pathavi), có
đặc tính duỗi ra; nguyên tố Lửa (Tejo) có đặc tính nóng,
lạnh cũng là một hình thức nóng; và nguyên tố Gió (vayo), có
đặc tính di động -- không thể có chỗ đứng.
Đề cập đến Niết Bàn ở đâu,
Bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, có ghi:
"Nơi mà bốn nguyên tố cấu thành
hợp chất có đặc tính dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di
động không còn chỗ đứng" [6]
Trong kinh Udana [7], Phật dạy:
"Cũng như, nầy chư Tỳ khưu,
mặc dầu bao nhiêu nước từ sông ngòi kênh rạch và các
trận mưa to từ trên trời đổ xuống chảy dồn về biển
cả, nhưng không vì thế mà mực nước biển dâng nên quá cao
hay xuống quá thấp. Cũng dường thế ấy, không vì lẽ có
nhiều vị Tỳ khưu nhập Đại Niết Bàn mà Niết Bàn quá đông
đúc hay quá thưa thớt."
Do đó Niết Bàn không phải một
cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà
là một pháp, một sự thành tựu, mà mọi chúng sanh đều có
thể đạt đến.
Trong thực tế, không có một cảnh
trời vĩnh cửu, trong ấy có hình thức khoái lạc mà con người
ham muốn và nơi ấy ta có thể mặc tình thọ hưởng. Thật
không thể tưởng tượng một cảnh giới trường cửu như
vậy ở bất luận nơi nào.
Chấp nhận rằng không có nơi nào
gọi là Niết Bàn, vua Milinda hỏi Đức Nagasena căn cứ trên
nền tảng nào ta có thể sửa dọn đời sống để chứng
ngộ Niết Bàn.
- Có, tâu Đại vương, có một nền
tảng như thế.
- Như vậy, kính bạch Đại đức,
nền tảng ấy là gì?
- Tâu Đại vương, giới hạnh là căn
bản. Bởi vì, nếu vững vàng đặt nền tảng trên giới
hạnh và thận trọng nhiếp tâm quán tưởng thì dầu ở nơi
nào, ở miền Bắc Hải hay ở Hy Lạp, ở Trung Hoa hay ở xứ
Thát Đát, dầu ở Alexandria hay ở Nikumba, ở Benares hay ở
Kosala, ở Kashmir hay ở Gandhara, trên đỉnh núi cao hay ở một
cảnh trời xa lạ, dầu thế nào đi nữa, người đã sửa
dọn mình, sống đời chân chánh, sẽ thành tựu Đạo Quả
Niết Bàn. [8]
Cái gì nhập
Niết Bàn?
Đây là một câu hỏi không thích
nghi, cần phải gác lại một bên, bởi vì Phật Giáo phủ
nhận sự hiện hữu của một thực thể trường tồn hay
một linh hồn trường cửu. [9]
Cái được gọi chúng sanh mà ta thường
nghe như ở trong "bộ y phục của một linh hồn",
chỉ là sự gắn hợp của những yếu tố tùy thế, hiện
hữu do điều kiện.
Vajira, vị Tỳ khưu ni A La Hán dạy:
"Khi tất cả những bộ phận
được ráp vào đúng chỗ của nó, danh từ "cái xe"
phát sanh (trong tâm ta). Cùng thế ấy, một cách chế định,
thói quen thông thường gọi là một chúng sanh khi ngũ uẩn
cấu hợp lại." [10]
Theo Phật Giáo, cái được gọi là
chúng sanh gồm hai phần, danh và sắc, và hai phần này luôn luôn
biến đổi trong chấp nhoáng. Ngoài hai yếu tố tổng hợp
ấy, không có một linh hồn trường cửu hay một thực thể
bất biến. Cái được gọi là "Ta" cũng là một ảo
tưởng.
Cũng như ngay trong hiện tại, không có
một cái "Ta" trường cửu hay một chúng sanh không
biến đổi, không cần phải nói rằng không có một cái
"Ta" hay một linh hồn ở Niết Bàn.
Sách Thanh Tịnh Đạo dạy:
"Chỉ có trạng thái
khốn khổ, không có người khốn khổ,
cũng không có người hành động, không ai hết, ngoài trừ
sự hành động.
Có Niết Bàn, nhưng không có người tìm Niết Bàn.
Có con đường, nhưng không có con người đi đến đó."
Điểm khác biệt chánh yếu giữa
quan niệm của người Phật Tử về Nibbana và quan niệm của
Ấn Độ Giáo về Nibbana hay Mukti là người Phật Tử, trong lúc
nhìn vào mục tiêu, không tin có linh hồn và một tạo hóa, còn
người theo Ấn Độ Giáo thì tin có linh hồn trường cửu và
tạo hóa.
Vì thế ta không thể nói rằng Phật
Giáo là một chủ nghĩa "vĩnh cửu" hay "hư vô".
Trong Niết Bàn không có gì để
"vĩnh-cửu-hóa", mà cũng không có gì để "hư-vô-hóa".
Cũng như Sir Edwin Arnold nói:
"Nếu có người
dạy rằng Niết Bàn là chấm dứt,
Bạn hãy nói người ấy dối.
Nếu có người dạy rằng Niết Bàn là còn sống nữa,
Bạn hãy nói người ấy sai lầm."
Phải nhìn nhận vấn đề Niết Bàn
là khó hiểu nhất trong Giáo lý của Đức Phật. Tuy nhiên,
dầu có tìm đến đâu, ta cũng không thể thấu triệt bản
chất thật sự của Niết Bàn. Đường lối tốt nhất để
hiểu Niết Bàn là gia công bằng trí tuệ trực giác của chính
ta.
Mặc dầu con người trung bình không
thể tri giác Niết Bàn được bằng ngũ quan, con đường duy
nhất đi thẳng đến Niết Bàn đã được Đức Phật giải
thích cặn kẻ trong từng chi tiết và rành mạch cho tất cả.
Mục tiêu còn lu mờ sau đám mây che
lấp, nhưng phương pháp để thành tựu thật là ràng minh
bạch, và khi thành tựu được rồi thì mục tiêu sẽ hiện
ra sáng tỏ như "mặt trăng trong không bị mây án".
Chú thích:
[1] Xem "Gradual Sayings", trang
135.
[2] Sanh (jati) ở đây có nghĩa là
sự sống, những kiếp sống trong vòng luân hồi.
[3] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, kinh số
57.
[4] Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, phần 1,
trang 62.
[5] "Quả thật pháp nầy (Niết Bàn)
phải được thành tựu (hay chứng ngộ) do bốn Thánh Đạo (Dự
lưu, Nhất lai, Bất lai, A La Hán), chớ không phải được
tạo nên." -- Thanh Tịnh Đạo.
[6] Kindred Sayings, phần I, trang 23.
[7] Xem Woodward, "Verses of
Uplift", trang 66-67.
[8] Questions of King Milinda, trang
202-204.
[9] Xem Chương 29.
[10] Kindred Sayings, phần I, trang 170.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com