.
Chánh Pháp và Hạnh Phúc
Thích Minh Châu
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO –2001
--- o0o ---
9.
Ý NGHĨA PHẬT THÀNH
ĐẠO
Theo
truyền thuyết Nam tông, đức Phật đản sinh, thành
đạo và nhập Niết Bàn cùng trong một
ngày, tức là ngày Rằm trăng tròn tháng
Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức
Phật đản sinh vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8 tháng Tư),
thành đạo ngày mồng 8 tháng Chạp, và
nhập Niết Bàn vào ngày Rằm tháng Hai âm lịch. Nhưng Bắc tông hay Nam tông,
quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là
một. Chí nguyện xuất gia, quá trình tầm đạo
học đạo, hành khổ hạnh, hành Thiền, tu tập Thiền quán, chứng Chánh
Đẳng Giác cùng là một. Quá trình ấy
đều được các học phái chấp nhận, dù có
những sai khác về chi tiết.
Theo truyền thống, Thái tử
đi dạo chơi bốn cửa thành, thấy một
người già, một người bệnh, một người chết và một người tu sĩ xuất gia. Bốn
hình ảnh được chứng kiến này làm Ngài
xúc động rất mạnh. Ba hình ảnh
đầu mở mắt cho Ngài thấy cảnh sinh,
lão, bệnh, tử đè nặng trên kiếp sống
con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu con
đường giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già, bệnh, chết. Do vậy chí
nguyện xuất gia của Ngài đã
được minh định rõ ràng như
đã được
diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
"Này các Tỳ kheo, Ta cũng vậy,
trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng
Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh,
tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già , tự mình bị bệnh... tự mình
bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu
cái bị ô nhiễm... Vậy Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy
hại của cái bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, khỏi các
khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già... cái không già... tự
mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị sầu...
cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm. Sau khi biết rõ sự nguy hại
của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết Bàn" (Trung Bộ Kinh I, 163).
Ở nơi
đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò của
cảm thọ (Vedanà) rất là đặc biệt trong quá trình
xuất gia, tu đạo và thành quả của
Ngài, chính vì thấy sự đau khổ của chúng
sinh, và đau khổ (Dukkha) là
một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh,
đau khổ vì bị già,
đau khổ vì bị bệnh,
đau khổ vì bị chết nên Ngài mới xuất
gia tìm đạo. Cho nên
đạo Phật có thể nói là một
đạo bắt đầu với một cảm thọ tức là khổ
thọ và chấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức là lạc thọ, giải thoát lạc,
chánh gìác lạc. Ở đây chúng ta hiểu một cách
toàn diện câu nói rất đặc biệt của đức
Phật: “Trọn đời Ta thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai điều: sự khổ và
sự diệt khổ" (Trung Bộ I, 140).
Với tâm nguyện giải quyết vấn
đề sanh, lão, bệnh, tử nên Thái tử
xuất gia tu đạo, như được chính Ngài
diễn tả trong đoạn kinh sau đây:
"Rồi này các Tỳ kheo, sau một
thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc
đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng
son cuộc đời, mặc dù cha mẹ không bằng
lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia
đình. Ta xuất gia như vậy,
để đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô
thượng, tối thắng an tịnh, đạo lộ, hướng đến
tịch tịnh..." (Trung Bộ Kinh I, trang 163).
Sau khi xuất gia, Thái tử
đi đến học đạo với Alàra Kàlàma và
Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả Vô sở hữu xứ và Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà hai vị này
đạt được, Ngài suy nghĩ: "Pháp này
không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn mà chỉ
đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ...
Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn
kính các pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ
đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
Tiếp
đến là những năm
khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy giờ, có nhiều vị giáo chủ tin
tưởng rằng khổ hạnh là con đường đưa đến giải
thoát; có hành hạ thân xác, có cảm thọ khổ
đau mới hy vọng giải thoát giác ngộ.
Trong
Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập nghiến
răng, dấu chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục
tâm, đánh bại tâm. Rồi Ngài tu tập Chỉ
tức Thiền (tức là Thiền nín thở), chịu những khổ
đau kinh khủng, khi thì bị tiếng gió
động kinh khủng thổi ngang qua lỗ tai như
tiếng ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh khủng thổi ngang qua
đầu, khi thì bị
đau đầu một cách kinh khủng, khi thì
bị một sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức
Phật tường thuật lại đời sống tu khổ hạnh:
"Và này Aggivessana, trong khi
Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt
một, như súp đậu xanh, súp đậu đen, hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân
của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì ta
ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như
những cọng cỏ hay những đốt cây leo
khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của
Ta trở thành như móng chân con lạc đà;
vì Ta ăn quá ít, xương sống phơi bày
của Ta giống như một chuỗi trái bóng; vì Ta
ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một
sàn nhà hư nát; vì Ta ăn quá ít, con ngươi
long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt giống như ánh nước long
lanh nằm sâu trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta
ăn quá ít, da đầu của Ta trở thành nhăn
nheo khô cằn như trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm
cho nhăn nheo khô cằn. Này
Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng" thì chính xương sống bị Ta
nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống" thì chính da bụng bị Ta nắm
lấy. Vì Ta ăn quá ít, này Aggivessana,
da bụng của Ta đến bám chặt xương sống”.
(Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
Hiện nay ở các chùa Việt Nam có
thờ tượng Phật gọi là tượng Tuyết Sơn hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn
da bọc lấy xương, như chúng ta được thấy ở chùa
Bút Tháp.
Điều quan hệ ở nơi đây là
những bài học, những kinh nghiệm, vị Bồ-tát đã
rút tỉa ra được, khi tự mình tu khổ
hạnh như vậy: "Này Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận
lực, dù cho niệm được an trú không dao động,
nhưng thân của Ta vẫn bị khích động không được khinh an, vì Ta bị
chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy". Rồi vị Bồ-tát
nghĩ đến lúc còn nhỏ khi vua cha
đang dự lễ cày cấy, và Thái tử
được đặt ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập
sơ Thiền: “Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ". Khi an trú như
vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể
đưa đến giác ngộ chăng?”. Và này
Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây
là đạo lộ đưa
đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta
suy nghĩ: "Ta có sợ chăng, lạc thọ này,
một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?". Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ:
"Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp" (Đại
kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 246).
Vị Bồ-tát nói lên kinh nghiệm
riêng của Ngài về vấn đề Thiền như sau:
"Và này Aggivessana, sau khi
ăn thô thực, và
được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly bất thiện
pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana,
như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại
nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ
trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta,
được tồn tại, nhưng Ta không chi phối tâm
Ta”. (Trung Bộ Kinh I, trang 247).
Ở
đây, thế giới hành Thiền là một thế giới cảm thọ, cảm thọ sơ Thiền
đưa đến hỷ lạc là một cảm thọ này do
sống viễn ly đưa đến. Thiền thứ hai cũng là
một cảm thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng hỷ lạc này do
định sanh. Thiền thứ ba cũng là một
cảm thọ. Xả niệm lạc trú, không còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và Thiền
thứ tư cũng là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn, và
được xả thay thế và xả cũng là một cảm
thọ.
Khi
đã nhận thức
được con đường phải
đi, vị Bồ-tát đi tới Uruvelà
(Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả ái
một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, có một chỗ lội
qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng
đi khất thực. Thật là một chỗ vừa
đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có
thể tinh tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và
nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi
mà vị Bồ-tát lựa chọn là dưới gốc cây Bồ
đề ở Bồ đề Đạo tràng, và con sông kế
cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền). Theo truyền thống Nam tông,
đêm ấy Ngài thành
đạo chứng quả Bồ đề, và sau khi thành
đạo, Ngài ở lại chung quanh cây Bồ
đề đến 49 ngày. Theo truyền thống Bắc
tông, sau khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày
rồi mới chứng quả. Đó là những sai
khác về học phái chưa được giải thích tường
tận. Điều quan hệ là Ngài đã
thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, sau khi thực
hiện quá trình thành đạo: xuất gia,
học đạo, tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quán và chứng quả Chánh
Đẳng Giác.
Con
đường đức Phật tự mình tu hành chứng
quả và giảng dạy lại cho các đệ tử là
con đường Giới, Định, Tuệ. Giới là một
nếp sống lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện pháp, như
đã được
diễn tả trong nhiều kinh điển. Thứ hai là
Định, tức là Thiền
định, phương pháp tập trung nội tâm
trên những đối tượng lựa chọn để đoạn trừ năm
triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi và thay
thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc,
nhất tâm. Các Thiền chi này được giảm
dần cho đến Thiền thứ tư, chỉ có xả và nhất tâm. Tới
đây chấm dứt giai đoạn Thiền định thứ hai và
mở đầu giai đoạn thứ ba tức là giai
đoạn trí tuệ.
Chính xả và nhất tâm, tức là
Thiền thứ tư đóng một vai trò rất quan
trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu sĩ. Một mặt, Thiền thứ tư là vị
trí người hành giả, có đủ nội lực, nghị lực
để đối trị ác ma, đối trị sức mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và
nhất tâm đạt được địa vị cao nhất của Thiền
sắc giới, Thiền này chấm dứt giai đoạn
Giới (Sìla) và Định (Samàdhi)
và mở đường cho giai đoạn thứ ba tức là
Tuệ (panna). Thiền này chấm dứt Samatha (Chỉ) và mở
đầu cho Vipassanà (Quán). Nói một cách
khác, phải với định lực của Thiền thứ tư là
xả và nhất tâm, người hành giả mới có sức mạnh
để Thiền quán có hiệu quả và tiến dần
đến đích giác ngộ, giải thoát. Tiến trình
giải thoát, giác ngộ của đức Phật dược diễn
tả như sau:
"Với tâm
định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy. Ta
dẫn tâm đến Túc mạng minh...
Như vậy, Ta nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng với
các nét đại cương và các chi tiết. Này
Aggivessana, đó là
đệ nhất minh Ta đã chứng
được trong đêm canh một. Vô minh diệt
thì minh sanh, ám diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
"Với tâm
định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy, Ta
dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của
chúng sinh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhãn, thấy sự sống
và chết của chúng sinh ... Này Aggivessana,
đó là đệ
nhị minh Ta đã chứng được trong đêm
canh hai, vô minh diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh
nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm
Ta.
"Với tâm
định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không
phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta
dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí Ta biết
như thật: “Đây là Khổ", biết như thật: "Đây
là nguyên nhân của Khổ", biết như thật "Đây
là Khổ diệt", biết như thật "Đây là
con đường đưa đến Khổ diệt”, biết như thật:
"Đây là các Lậu hoặc", biết như
thật: "Đây là nguyên nhân của các Lậu
hoặc", biết như thật: "Đây là các Lậu
hoặc diệt", biết như thật: "Đây là con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ
hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát
khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát
như vậy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã
giải thoát". Ta đã biết: "Sanh
đã tận, Phạm hạnh
đã thành, việc cần làm
đã làm, sau
đời hiện tại không có đời sống nào
khác nữa". Này Aggivessana, đó là
đệ tam minh Ta đã chứng trong canh ba,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Có một con
đường làm nổi bật vai trò các cảm thọ
trong quá trình giải thoát và giác ngộ, vì trong phương pháp này, chúng ta
thấy rõ sự đóng góp vô cùng quan trọng
của cảm thọ.
Vị hành giả, cùng với xả và
nhất tâm của Thiền thứ tư, thanh tịnh trong sáng như vậy, không tập trung
vào bốn Không định vì là những pháp
hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không suy tưởng
đến Hữu hay Phi hữu, nên không có chấp
thủ mọi sự vật gì ở đời. Không chấp thủ nên
không sợ hãi tháo động. Do không sợ hãi
tháo động, vị hành giả chứng Niết Bàn,
tự biết mình đã chứng quả A-la-hán:
"Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những
điều gì nên làm
đã làm, không còn trở lại trạng thái
này nữa". Khi vị ấy cảm thọ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị
ấy biết cảm thọ ấy là vô thường, không nên
đắm trước, không phải là đối tượng để
hoan hỷ. Vị ấy biết không có hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ ấy. Khi vị
ấy cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy sinh mạng làm
tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ, lấy thân làm tối hậu hay
lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi
cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành
thanh lương. Do vậy vị hành giả thành tựu
được bốn Thắng xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị ấy thành tựu Tối
thắng tuệ thắng xứ (Pannà) nghĩa là trí biết sự
đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị này
an trú vào Chân đế (Sacca) không bị
dao động, không thể đưa đến hư vọng, thuộc về
Chân đế, Niết Bàn. Vị hành giả thành tựu Tối thắng
đế thắng xứ (Saccadhitthànà), tức là
Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh y vô trí thức của vị ấy
được đoạn tận gốc rễ, không có thể tái sanh.
Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà), tức là sự xả ly tất
cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục; phẫn nộ thuộc sân hận; vô minh
thuộc si mê, không có thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng
sanh khởi. Vị ấy thành tựu được tối
thắng, tịch tịnh thắng xứ (Upasamàditthànà). Những vọng tưởng: "Tôi
là, tôi là cái này, tôi không là cái này, tôi sẽ không là cái này. Tôi sẽ
có sắc, có tưởng". Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục bướu, là mũi tên,
vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được
gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không già,
không có dao động, không có hy cầu. Không
sanh làm sao già được, không già
làm sao chết được, không chết làm sao
dao động được. Không dao động làm sao
hy cầu. Cho nên vị ấy đạt được tịch tịnh.
Ở đây chúng ta nhận thấy vị hành giả
khi giác ngộ giải thoát không phải thụ động,
không phải đoạn diệt, không phải trở thành vô tri giác như thường
bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất sinh
động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh thắng xứ (Ariyàdhitthànàni):
trí tuệ, chân đế, tuệ xả, tịch tịnh, tác động
rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ được chấm dứt hoàn toàn, mọi cảm
thọ trở thành thanh lương, tịch tịnh, không có sanh, lão, bệnh, tử, không
còn khổ vì sanh, khổ vì bệnh, khổ vì già, khổ vì chết. Vị ấy thật sự giác
ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành
đạo.
Quá trình giác ngộ giải thoát
của đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như sự giác
ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã
được thể hiện trọn vẹn trong ngày
thành đạo của Ngài. Từ nơi sự thành
đạo của Ngài, chúng ta rút tỉa
được một số kinh nghiệm và hiểu biết
như sau:
1. Quá trình giác ngộ, giải
thoát của đức Phật là một quá trình tu
tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người hiện tại, không có thần
linh, không có bùa pháp, không có cứu rỗi.
Trong quá trình này các cảm thọ
đóng một vai trò chủ yếu vô cùng quan
trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất gia; chính khổ thọ khiến Ngài từ bỏ
khổ hạnh; chính lạc thọ khiến Ngài hành Thiền; chính xả thọ là chân
đứng để Ngài giác ngộ giải thoát,
thành đạo.
2. Pháp môn
đưa đến giác ngộ, giải thoát là Giới,
Định, Tuệ, nghĩa là phải sống một nếp
sống tốt lành trong sạch, dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những
đối tượng có lựa chọn để phát triển nội lực
định tâm, và với xả và nhất tâm trong sáng của Thiền thứ tư, bước
vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và lấy trí như thật ấy
đoạn tận các lậu hoặc để được giác ngộ giải
thoát.
3.
Đức Phật là một người như chúng ta, sanh ra là một người, sống như
một người và từ giã cõi đời như một người,
nhưng là một người vì sự đau khổ của
chúng sinh mà xuất gia tu đạo, một con
người có đủ nghị lực kiên trì can đảm,
để chiến thắng mọi trở ngại cuối cùng tìm ra
được con đường diệt khổ cứu độ chúng sinh.
Ngày Thành
Đạo của Ngài nói lên sự thành công cao
cả của con người đã biết nâng cao phẩm
giá tuyệt vời của con người, có khả năng giác
ngộ và đã thành tựu sự giác ngộ
một cách trọn vẹn dưới gốc cây Bồ đề.
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục