Phải
nói
ngay
từ
đầu
rằng,
với
sự
quá
rộng
rãi
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa),
chúng
ta
không
hy
vọng
gì
hơn
là
chỉ
giới
thiệu
được
các
khuynh
hướng
chính
yếu
của
nó
trong
khoảng
một
vài
chương
ngắn
ngủi.
Không
cần
phải
xét
đến
các
khuynh
hướng
cá
nhân
hay
theo
sát
bất
cứ
tông
phái
nào
của
Phật
giáo,
chúng
ta
phải
nhận
rằng
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
đã
đóng
góp
rất
nhiều
vào
tư
tưởng
và
văn
hóa
của
Phật
giáo.
Nó
đã
tạo
ra
một
rừng
văn
học
siêu
việt,
vĩ
đại,
nhiều
tác
phẩm
nghệ
thuật
và
các
kỷ
thuật
khác
nhau
cho
việc
phát
triển
cá
tính
con
người.
Nhiều
quốc
gia
khắp
Á
châu
đã
được
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
ảnh
hưởng
sâu
sắc.
Các
học
giả
ngày
nay
tuy
không
quan
tâm
đến
nó
nhiều,
nếu
so
sánh
với
phái
Nam
truyền
(Tiểu
thừa),
nhưng
hiện
cũng
có
một
số
người
rất
chú
ý
vào
nền
văn
học,
triết
lý
và
vào
con
đường
đi
của
chư
Bồ
tát.
Vì
thế
với
tám
chương
sau,
chúng
ta
hãy
xét
dến
các
nguồn
gốc
và
sự
phát
triển
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa). Bắt
đầu
bằng
việc
xét
đến
nguồn
gốc
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
là
bởi
vì
tôi
tin
rằng
nếu
chúng
ta
không
hiểu
và
không
đánh
giá
đúng
mức
các
lý
do
tại
sao
truyền
thống
này
phát
sinh--tức
cái
hạt
giống
trong
mảnh
đất
nguyên
thủy
của
tín
ngưỡng
Phật
giáo--thì
thật
là
điều
khó
khăn
cho
chúng
ta
để
thấy
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
từ
một
quan
điểm
khách
quan.
Ðầu
tiên
tôi
xin
chú
mục
ngay
vào
chính
thời
kỳ
đầu
tiên
thiết
lập
tín
ngưỡng
Phật
giáo,
tức
là
vào
chính
cuộc
đời
của
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni. Ðức
Thích
Ca
đã
dạy
trong
45
năm
cho
vô
số
các
sinh
vật
tại
nhiều
nơi
trong
vùng
trung
tâm
đông
bắc
Ấn
độ.
Các
sinh
vật
không
những
là
mọi
người
trong
các
tầng
lớp
xã
hội,
mà
còn
cả
thú
vật
và
các
siêu
nhân
như
thần
thánh
của
các
cõi
trời
bên
trên
và
các
cõi
âm
ty
phía
dưới.
Các
tông
phái
Phật
giáo
đã
thừa
nhận
rằng
đức
Phật
thực
hiện
được
nhiều
phép
lạ
khác
nhau
một
cách
phi
thường,
không
dễ
hiểu
được
đối
với
các
sinh
vật
đã
giác
ngộ.
Phật
không
phải
là
người
cũng
không
phải
là
thánh
như
chính
Ngài
đã
tự
nhận.
Nếu
không
phải
là
thánh,
ông
chắc
chắn
là
bậc
siêu
phàm,
được
tán
thán
và
siêu
thế
gian,
vì
ông
đã
hiện
hữu
từ
vô
số
kiếp.
Thật
vậy,
các
Phật
tử
tin
rằng
Phật
vĩ
đại
hơn
bất
cứ
vị
thánh
nào
qua
hạnh
nguyện
cùng
các
hoạt
động
từ
tâm
và
bao
la
của
ngài.
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
đã
làm
gương
bằng
sự
nghiệp
riêng
của
ông
mà
con
người
đều
có
thể
làm
bằng
hoặc
hơn.
Mục
tiêu
của
sự
nghiệp
này
là
Giác
ngộ
và
Phật
quả
và
cái
cách
làm
là
cách
của
các
Bồ
tát.
Phật
nói
đến
mục
tiêu
của
Giác
ngộ
và
Phật
quả
cũng
như
về
mục
tiêu
Niết
bàn.
Chính
ông
đã
chỉ
dạy
trọn
vẹn
cách
đạt
được
mục
tiêu
Phật
quả
bằng
cách
luyện
tập
và
hoàn
thành
Hạnh
Bồ
tát
trong
nhiều
câu
chuyện
của
những
lần
hiện
hữu
của
ông
trước
đây. Trang
126.
Tùy
theo
khả
năng
và
nguyện
vọng
riêng
của
từng
người,
Phật
chấp
nhận
cho
việc
tự
thích
nghi
giáo
lý
của
ông.
Trong
khi
không
rời
bỏ
các
công
hạnh
chính
yếu
về
giới
đức
và
trí
huệ,
Phật
đã
cho
phép
rất
nhiều
cơ
hội
để
mỗi
cá
nhân
được
biểu
lộ
và
hoàn
thành.
Ông
khuyến
khích
sự
tham
vấn
tự
do
trong
hàng
thế
tục
và
tính
dân
chủ
trong
cộng
đồng
tu
viện.
Ðiều
này
được
thấy
rõ
ràng
trong
giáo
lý
của
ông.
Chẳng
hạn,
có
một
giáo
thuyết
nỗi
tiếng
được
nói
rõ
bằng
lời
khi
Phật
khuyên
người
Kalamas.
Ông
nói
rằng
người
ta
không
nên
tùy
thuộc
vào
các
phương
tiện
thứ
hai
để
kiểm
tra
tính
chất
xác
thực
của
các
sự
vật,
mà
phải
thử
nghiệm
sự
xác
thực
đó
trong
ánh
sáng
kinh
nghiệm
cá
nhân
riêng
của
người
đó
và
chỉ
khi
đó
mới
chấp
nhận
chúng
là
sự
thật. Cũng
với
một
ý
nghĩa
tương
tự,
ông
nói
rằng
người
ta
nên
chứng
nghiệm
sự
thật
dưới
ánh
sáng
của
các
tiêu
chuẩn
quán
sát,
lý
luận
và
tính
tự
thích
nghi,
cùng
một
cách
của
người
khôn
ngoan
thử
nghiệm
sự
thuần
chất
của
vàng
bằng
cách
cắt,
chà
và
nun
nóng
nó.
Một
lần
nữa,
về
cuối
cuộc
đời
sự
nghiệp
của
ông,
Phật
đã
bảo
các
môn
đệ
hãy
tự
thắp
đuốc
lên,
tự
soi
sáng
đường
đi
với
lý
lẽ
riêng
của
mình.
Những
lời
cuối
cùng
của
ông
là,
‘‘Các
vật
kết
hợp
nhau
bị
thay
đổi
là
chuyện
thường,
vậy
hãy
tìm
ra
câu
trả
lời
cho
sự
giải
thoát
của
bạn
bằng
sự
cần
mẫn.’’ Trang
127.
Ðức
Phật
cũng
khuyến
khích
sự
tự
lực
đối
với
những
cộng
đồng
tu
sĩ
có
liên
quan
tới
kỷ
luật
tu
viện.
Ông
đã
bảo
Ananda
rằng,
sau
khi
ông
tịch
diệt,
các
thành
viên
Giáo
hội
Tăng
già
được
tự
ý
hủy
bỏ
một
số
luật
nếu
giới
luật
tu
viện
thấy
cần
thay
đổi.
Một
điều
có
ý
nghĩa
nữa
là
Phật
cũng
từ
chối
chỉ
định
người
kế
thừa
để
tiếp
tục
lãnh
đạo
cộng
đồng
Phật
giáo
sau
khi
ông
chết.
Tất
cả
những
sự
kiện
này
đã
chứng
tỏ
có
một
không
khí
đặc
biệt
hiện
hữu
trong
cộng
đồng
Phật
giáo
tối
cổ
thời
đó:
một
không
khí
vấn
đáp
tự
do,
dân
chủ
và
độc
lập. Sau
ngày
Phật
tịch,
những
điều
dạy
của
ông
được
bảo
tồn
theo
cung
cách
truyền
miệng,
được
truyền
thừa
từ
thế
hệ
này
qua
thế
hệ
khác,
duy
trì
trong
trí
nhớ
tập
thể
của
họ.
Biết
đọc
biết
viết
là
một
đặc
ân
của
thành
phần
tinh
hoa
của
Ấn
độ
lúc
đó.
Thêm
một
dấu
hiệu
hiếm
thấy
về
dân
chủ
trong
truyền
thống
Phật
giáo
là
các
hình
thức
dạy
dỗ
có
tính
cách
văn
chương
bị
bỏ
quên
từ
lâu.
Nhiều
người
không
biết
chữ,
vì
thế
truyền
miệng
là
phương
tiện
bảo
tồn
và
phổ
biến
Pháp
Phật.
Trong
500
năm
giáo
lý
được
bảo
tồn
bằng
lời
nói,
một
số
hội
nghị
kết
tập
được
tổ
chức,
hệ
thống
hóa
và
quyết
định
các
văn
bản
giáo
huấn
kinh
điển
được
mọi
người
chấp
thuận
và
kỷ
luật
tu
viện
(Luật:
Vinaya).
Chắc
chắn
đã
có
3
và
có
thể
hơn
6
lần
kết
tập
trong
thời
kỳ
này
tại
nhiều
nơi
khác
nhau
trên
Ấn
độ.
Kết
quả
là
có
sự
xuất
hiện
của
rất
nhiều
trường
phái
mà
các
kinh
điển
và
các
giới
luật
được
thay
đổi
khác
nhau
nhiều
hơn
hay
ít
hơn. Hội
nghị
Kết
tập
lần
thứ
nhứt
chắc
chắn
đã
được
tổ
chức
lập
tức
sau
khi
đức
Phật
tịch
diệt
tại
Rajagriha
thủ
đô
nước
Magadha.
Ở
đó,
hội
nghị
đã
được
yêu
cầu
là
có
nên
tiến
hành
bải
bỏ
các
giới
luật
ít
quan
trọng
hơn
không,
như
Phật
đã
căn
dặn
ngài
A
nan
(Ananda)
là
Giáo
Hội
Tăng
già
có
thể
làm
như
vậy
nếu
thấy
cần.
Rủi
thay,
Ananda
đã
quên
hỏi
Phật
là
giới
luật
nào
là
giới
luật
kém
quan
trọng
hơn.
Ðiều
không
chắc
chắn
này
dẫn
đến
việc
vị
Trưởng
lão
chủ
tọa,
ngài
Ðại
Ca
Diếp
(Maha
Kashyapa)
đề
nghị
rằng
lần
kết
tập
này
giữ
lại
toàn
bộ
các
giới
luật
mà
không
có
sự
sửa
đổi
nào.
Sự
kiện
rất
có
ý
nghĩa
này
cho
thấy
rằng
vấn
đề
giới
luật
đã
được
bàn
cải
trong
Hội
nghị
Kết
tập
lần
thứ
nhứt.
Việc
này
cũng
được
xem
là
vấn
đề
chánh
trong
Hội
nghị
Kết
tập
lần
thứ
hai. Trang
128.
Theo
các
điều
ghi
lại
của
Hội
đồng
Kết
tập
lần
I,
ta
được
biết
câu
chuyện
của
một
vị
sư
có
tên
là
Purana.
Ông
đến
Rajagriha
lúc
Hội
nghị
sắp
kết
thúc
các
cuộc
bàn
cãi.
Các
nhà
tổ
chức
mời
ông
tham
dự
vào
những
giai
đoạn
cuối
của
Hội
nghị
nhưng
ông
từ
chối,
nói
rằng
ông
thích
nhớ
nghĩ
đến
lời
dạy
của
đức
Phật
hơn
vì
ông
đã
được
nghe
đến
nó
từ
chính
đức
Phật.
Sự
kiện
có
ý
nghĩa
này
cho
thấy
là
thời
ấy
cũng
đã
có
những
người
thích
duy
trì
một
truyền
thống
độc
lập
để
ghi
nhớ
Phật
Pháp
mà
chính
họ
đã
được
nghe
từ
đức
Phật.
Cả
hai
giai
đoạn
này
cho
thấy
mức
độ
tự
do
tư
tưởng
đã
có
từ
thời
của
cộng
đồng
Phật
giáo
cổ
đại. Bây
giờ
chúng
ta
hãy
nhìn
vào
tài
liệu
của
Hội
đồng
Kết
tập
lần
II
được
tổ
chức
khoảng
100
năm
sau
đó.
Tại
Hội
nghị
này,
vấn
đề
bao
trùm
cuộc
tranh
luận
là
Luật
(Vinaya).
Một
số
tu
sĩ
đã
dùng
một
vài
lối
thực
hành
mà
các
vị
tu
sĩ
trưởng
lão
cho
rằng
đi
quá
giới
luật
của
tu
viện.
Ðã
có
10
lối
thực
hành,
như
mang
muối
trong
sừng
rỗng
được
xem
như
phạm
luật
cấm
tích
trữ
đồ
ăn;
xin
phép
được
hành
động
sau
khi
hành
động
rồi;
chấp
nhận
vàng
bạc
được
xem
là
phạm
vào
luật
cấm
tích
tụ
tài
sản.
Các
vị
tu
sĩ
phạm
lỗi
bị
tuyên
bố
là
vi
phạm
giới
luật
và
bị
khiển
trách.
Một
lần
nữa
lập
trường
bảo
thủ
của
Ca
Diếp
(Kashyapa)
được
các
vị
Trưởng
Lão
tại
Hội
nghị
chấp
nhận,
và
quả
thật
các
giới
luật
trong
tu
viện
vẫn
được
giữ
gần
như
không
thay
đổi
trong
mấy
thế
kỷ,
dù
đã
có
nhiều
sự
biến
đổi
thực
sự
trong
việc
tu
tập. Trang
129.
Rõ
ràng
là
có
sự
đễ
dàng
hơn
về
giới
luật.
Những
năm
sau
kỳ
Kết
tập
lần
II
đã
cho
thấy
sự
phát
triển
của
nhiều
trường
phái
riêng
biệt
như
phái
Ðại
chúng
bộ
(Maha
Sanghikas),
phái
mà
một
số
người
xem
như
là
gốc
của
Ðại
thừa,
của
phái
Ðộc
tử
bộ
(Vatsiputriyas)
và
các
phái
khác.
Kết
quả
là,
vào
thời
kỳ
Hội
nghị
Kết
tập
lần
III,
được
tổ
chức
vào
thời
vua
Ashoka,
thế
kỷ
thứ
3
trước
Tây
lịch,
đã
có
ít
nhất
18
trường
phái,
mỗi
trường
phái
đều
có
giáo
thuyết
và
giới
luật
riêng
của
họ. Hai
trường
phái
nổi
bật
trong
cuộc
bàn
thảo
tại
kỳ
Kết
tập
lần
III
là
trường
phái
thuộc
thuyết
phân
tích
tức
Phân
bộ
(Vibhaivavadins)
và
trường
phái
thuộc
thuyết
đa
nguyên
thực
tế
tức
Nhất
thiết
hữu
bộ
(Sarvastivadins).
Hội
nghị
đã
quyết
định
theo
trường
phái
thứ
nhứt
và
chính
các
quan
điểm
của
trường
phái
này
đã
được
đem
đi
Sri
Lanka
(đi
về
phía
Nam
tức
Nam
truyền)
bởi
các
sứ
giả
của
vua
Ashoka,
mà
người
hướng
dẫn
là
con
trai
ông,
tức
Mahendra.
Ở
nơi
đó,
mọi
người
biết
đến
nó
là
Phật
giáo
Nguyên
thỉ
(Theravada).
Còn
những
người
thừa
kế
của
nhóm
Nhất
thiết
hữu
bộ
(Sarvastivada),
tức
nhóm
đa
nguyên
thực
tế,
hầu
hết
di
dân
đến
Kashmir
ở
miền
tây
bắc
Ấn
độ.
Trường
phái
này
trở
nên
phổ
biến
nhờ
vào
con
đường
của
các
bậc
theo
hạnh
Bồ
tát. Tại
một
Hội
nghị
khác
nữa,
được
tổ
chức
trong
thời
đại
vua
Kanishka
trong
thế
kỷ
thứ
I,
2
trường
phái
quan
trọng
hơn
đã
nổi
lên
là
phái
Kinh
lượng
bộ
(Vaibhashikas)
và
Thuyết
độ
bộ
(Sautrantikas).
Hai
phái
này
có
lập
trường
khác
nhau
về
tính
chất
xác
thật
của
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
tức
Kinh
điển
Phật
giáo
về
Thuyết
Phân
tích.
Nhóm
kinh
lượng
bộ
cho
rằng
Vi
diệu
Pháp
được
dạy
bởi
đức
Phật,
còn
nhóm
Thuyết
độ
bộ
cho
rằng
không. Vào
lúc
này,
theo
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
cho
chúng
ta
biết,
một
số
Hội
nghị
đã
được
triệu
tập
để
biên
soạn
các
kinh
điển
của
truyền
thống
Bắc
truyền
(Ðại
thừa),
lúc
ấy
đã
được
đồn
rằng
là
rất
nhiều.
Ở
miền
bắc
và
tây
nam
Ấn
độ
cũng
như
tại
Nalanda
nước
Magadha,
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
đã
được
truyền
dạy.
Người
ta
tin
rằng
nhiều
văn
bản
quan
trọng
của
Bắc
truyền
đã
được
kể
lại
bởi
đức
Phật
Di
Lặc
(Maitreya)
và
các
chư
Bồ
tát
thế
gian
hoặc
được
bảo
tồn
bởi
các
ác
thần
dưới
âm
ty
cho
đến
khi
được
các
vị
đại
sư
Bắc
truyền
khám
phá
ra,
như
Bồ
tát
Long
thọ
(Nagarjuna)
chẳng
hạn. Trang
130.
Sự
xuất
hiện
của
tất
cả
những
trường
phái,
mà
mỗi
trường
phái
đều
có
riêng
văn
bản
của
họ
về
giáo
pháp
của
đức
Phật,
rõ
ràng
chứng
tỏ
sự
đa
dạng
rộng
rãi
của
Phật
giáo
có
từ
lúc
Tây
lịch
bắt
đầu.
Mặc
dầu
có
khác
nhau
về
vấn
đề
tính
chất
xác
thực
của
các
bản
văn
và
giáo
lý,
nhưng
các
trường
phái
Phật
giáo
vẫn
tiếp
tục
thừa
nhận
chung
là
Phật
tử.
Một
ngoại
lệ
đặc
biệt
cho
việc
này
là
phái
Ðộc
tử
bộ
(Vatsiputriyas).
Nhóm
này
vì
dính
chặt
với
quan
niệm
‘cá
tính
chủ
yếu’
đã
bị
các
trường
phái
khác
cho
là
dị
giáo. Sự
thành
hình
các
kinh
điển
ở
Ấn
độ
và
Tích
lan
hiện
còn
tồn
tại
bằng
chữ
viết
cho
tất
các
trường
phái,
được
các
học
giả
đồng
chấp
nhận
là
thuộc
về
thời
kỳ
khá
trể.
Giáo
pháp
Bắc
truyền,
cũng
như
giáo
pháp
của
các
trường
phái
khác,
bao
gồm
Nam
truyền,
đã
bắt
đâu
xuất
hiện
dưới
hình
thức
chữ
viết
hơn
500
năm
sau
thời
của
đức
Phật.
Chúng
ta
biết
chắc
chắn
rằng
kinh
điển
Nam
truyền,
được
ghi
lại
bằng
tiếng
Pali,
một
ngôn
ngữ
bản
địa
thời
cổ
Ấn
độ,
đã
được
biên
soạn
vào
giữa
thế
kỷ
thứ
I
trước
Tây
lịch.
Các
kinh
Bắc
truyền
tối
cổ,
như
Kinh
Diệu
Pháp
Liên
Hoa
và
Kinh
Bát
Nhã
Ba
la
mật
đã
được
cho
là
xuất
hiện
không
quá
thế
kỷ
thứ
I
Tây
lịch.
Nói
tóm
lại,
các
kinh
điển
bằng
chữ
viết
của
phái
Nam
truyền
và
Bắc
truyền
có
khoảng
cùng
một
thời
gian. Sau
lần
nhập
diệt
của
đức
Phật,
quan
điểm
của
các
vị
trưởng
lão
đã
chi
phối
đời
sống
Phật
giáo.
Nhưng
vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
nhứt
Tây
lịch,
sự
bất
mãn
về
lý
tưởng
A
la
hán
(mục
tiêu
của
vị
này
là
hoàn
thành
tự
do
cá
nhân)
đã
lớn
mạnh
rõ
rệt
trong
các
cộng
đồng
lương
cũng
như
giáo.
Những
người
theo
Phật
giáo
phải
chọn
giữa
hai
lý
tưởng
khác
nhau--A
la
hán
quả
hay
Phật
quả. Trang
131.
Trong
khi
vị
A
la
hán
tương
lai
chú
trọng
vào
việc
được
tự
do
cho
vị
ấy
thì
Bồ
tát
hay
Phật
tương
lai
buộc
phải
hoàn
thành
Giác
ngộ
nhân
danh
tất
cả
chúng
sanh. Cái
cốt
lõi
của
ý
niệm
cho
cuộc
đời
tôn
giáo
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
là
lòng
từ
bi
với
tất
cả
sinh
vật.
Quả
thật
với
ý
nghĩa
này
chúng
ta
mới
hiểu
sự
ưa
thích
càng
lúc
càng
tăng
của
phái
Bắc
truyền.
Ta
sẽ
ít
ngạc
nhiên
nếu
có
nhiều
vị
Phật
tử
thuần
thành
chọn
theo
gương
của
Phật,
người
có
lòng
từ
bi
và
trí
huệ
vô
hạn,
chứ
không
theo
các
vị
đại
đệ
tử
nổi
tiếng
của
Ngài,
như
các
vị
trưởng
lão
và
A
la
hán,
những
người
mà
gần
hết
cuộc
đời
sống
khổ
hạnh
và
biệt
lập.
Nói
tóm
lại,
phái
Bắc
truyền,
với
một
triết
lý
sâu
xa,
lòng
từ
bi
phổ
biến
và
việc
sử
dụng
khéo
léo
sự
phong
phú
của
các
phương
tiện,
đã
nhanh
chóng
trở
nên
hấp
dẫn
đối
với
nhưỡng
người
ủng
hộ
nhiệt
tình
không
chỉ
ở
Ấn
độ,
mà
còn
ở
những
miền
đất
mới
của
Phật
giáo
thuộc
miền
Trung
Á
. Trang
131.
Tôi
xin
kết
luận
Chương
này
bằng
cách
bỏ
ra
chút
ít
thời
gian
để
so
sánh
một
vài
ý
kiến
từ
kinh
điển
Nam
truyền
với
vài
đặc
điểm
Bắc
truyền
xuất
hiện
trong
các
bản
văn
Ðại
thừa
như
Kinh
Pháp
Hoa,
Kinh
Bát
nhã
Ba
la
mật
và
Kinh
Lăng
già.
Người
ta
thường
quên
rằng
là
không
chỉ
có
nhiều
bài
Kinh
Luận
gần
như
giống
nhau
thuộc
cả
hai
loại
kinh
sách,
mà
còn
có
các
dấu
vết
Bắc
truyền
trong
kinh
sách
Nam
truyền
như
tính
chất
siêu
thế
gian
của
đức
Phật,
như
các
học
thuyết
về
tánh
không--cùng
bản
chất
sáng
tạo
và
minh
bạch
của
cái
tâm. Chẳng
hạn,
trong
kinh
sách
Nam
truyền,
ta
thấy
đức
Phật
hay
nói
đến
ông
không
bằng
cái
tên
riêng
mà
bằng
tên
Như
Lai
(Tathagata),
hay
Như
Như
(không
do
đâu
lại,
cũng
không
đi
đâu)
hay
Thật
Tướng
(thường
trụ,
chẳng
biến
đổi).
Tuy
thế,
đức
Phật
được
cho
là
có
quyền
lực
tỏa
ra
giúp
mở
mang
trí
tuệ
các
sinh
vật.
Những
đoạn
văn
này
chứa
đựng
trong
kinh
sách
Nam
truyền,
gợi
lên
tính
siêu
việt,
siêu
thế
gian
và
không
tài
nào
nhận
ra
của
đức
Phật,
một
ý
tưởng
rất
quan
trọng
đối
với
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Cũng
theo
kinh
sách
Nam
truyền,
đức
Phật
ca
tụng
tánh
không
với
những
từ
ngữ
cao
nhất,
gọi
nó
là
sâu
sắc
và
ở
ngoài
thế
giới.
Ông
nói
rằng
sắc,
thọ
và
những
cái
tiếp
theo
là
huyễn,
bào.
Các
hiện
tượng
tự
chúng
là
vô
tướng.
Chúng
là
những
lừa
bẫy
không
thật.
Ðây
là
một
đề
mục
đã
được
nói
và
nói
một
cách
tường
tận
trong
văn
chương
Bắc
truyền
Tâm
kinh
Bát
nhã
Ba
la
mật. Trang132.
Một
lần
nữa,
theo
kinh
sách
Nam
truyền,
đức
Phật
nói
rằng
vô
minh
và
tưởng
tượng
có
trách
nhiệm
cho
sự
xuất
hiện
của
thế
giới.
Ðể
chứng
minh
điểm
này,
Phật
ám
chỉ
đến
chuyện
ngụ
ngôn
của
Vị
Á
thánh
Vepachitta
người
bị
buộc
ràng
hay
được
tháo
gỡ
tùy
tình
trạng
tư
tưởng
(thức)
của
vị
ấy.
Tuy
vậy,
tính
chất
độc
đáo
mới
mẻ
của
thức
(consciousness)
chiếu
sáng
như
nữ
trang,
tự
bản
chất
là
thuần
nhất
và
không
nhiễm
ô.
Những
ý
tưởng
này
được
phát
triển
trong
các
kinh
Bắc
truyền
như
Kinh
Lăng
già
chẳng
hạn.
Chúng
chính
là
nền
móng
căn
bản
của
quan
điểm
Bắc
truyền
về
cái
bản
tâm
. Vì
thế
các
nguồn
gốc
của
phái
Bắc
truyền
có
thể
được
tìm
thấy
trong
những
giai
đoạn
cổ
đại
nhất
của
Phật
giáo
và
trong
sự
nghiệp
riêng
của
đức
Phật.
Năm
trăm
năm
sau
lần
nhập
diệt
của
Phật,
ta
đã
chứng
kiến
được
sự
phát
sinh
các
tông
phái
cũng
như
các
lời
giải
thích
khác
nhau.
Dù
có
khác
đi,
tất
cả
cũng
đều
dựa
vào
giáo
pháp
nguyên
thủy,
sâu
xa
và
được
chuyển
biến
vô
hạn
của
đức
Phật.
Vào
thế
kỷ
thứ
nhứt
Tây
lịch,
sự
thành
lập
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
gần
như
hoàn
tất.
Hầu
hêt
các
kinh
điển
chính
của
họ
đều
hình
thành.
Chúng
ta
sẽ
thảo
luận
ba
Kinh
chánh
trong
rừng
kinh
điển
vào
những
chương
sắp
tới.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002