Ba
mươi
bảy
pháp
dẫn
đến
giác
ngộ
(bodhipakkhiya
dhamma)
quan
trọng
vì
2
lý
do.
Thứ
nhứt,
theo
truyền
thống,
chúng
được
đức
Phật
trước
khi
nhập
Ðại
Niết
bàn,
ca
ngợi
là
phương
tiện
chính
để
được
giác
ngộ.
Thứ
hai,
các
yếu
tố
này
hình
thành
phần
cơ
sở
căn
bản
của
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma),
ở
chỗ
là
chúng
thuộc
vào
loại
giáo
lý,
giống
như
giáo
lý
về
ngủ
uẩn,
bao
gồm
các
nội
dung
Vi
diệu
pháp
của
Kinh
Tạng. Trong
chương
30,
chúng
ta
đã
nói
về
các
đặc
tính
của
Vi
diệu
pháp
và
sự
liên
hệ
giữa
Luận
tạng
Vi
diệu
pháp
và
các
nội
dung
thuộc
về
Kinh
tạng.
Các
phẩm
trợ
đạo
dẫn
đến
giác
ngộ
thuộc
về
Luận
tạng
Vi
diệu
pháp
nhưng
lại
tìm
thấy
trong
các
kinh
giảng.
Vì
thế
chúng
thuộc
về
giai
đoạn
nguyên
thủy
của
triết
học
Vi
diệu
pháp. Ba
mươi
bảy
phẩm
trợ
đạo
chắc
chắn
thuộc
về
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma).
Tất
cả
5
đặc
tính
của
tài
liệu
Vi
diệu
pháp
đều
áp
dụng
vào
các
phẩm
trợ
đạo:
1.
định
nghĩa
từng
phẩm,
2.
sự
liên
hệ
các
phẩm
với
nhau,
3.
phân
tích
các
phẩm,
4.
phân
loại
các
phẩm,
và
5.
sắp
xếp
chúng
theo
số
thứ
tự
(xem
Chương
30). Ba
mươi
bảy
phẩm
trở
đạo
được
xếp
loại
theo
7
nhóm:
Tứ
niệm
xứ,
Tứ
chánh
cần,
Tứ
như
ý
túc,
Ngũ
căn,
Ngũ
lực,
Thất
giác
chi,
Bát
chánh
đạo
(4,4,4,5,5,6,7).
Vì
chúng
ta
đã
xét
pháp
Tứ
chánh
cần
và
thuyết
Bát
chính
đạo
trong
các
chương
5,
6,
7,
nên
tôi
chỉ
tập
trung
vào
5
nhóm
còn
lại. Trang
342.
Ðức
Phật
đã
gọi
‘niệm’
(mindfulness)
là
cách
diệt
trừ
tất
cả
các
phiền
não.
Phật
cũng
đã
nói
rằng
cái
tâm
(mind)
là
gốc
rễ
của
tất
cả
đức
hạnh.
Vì
thế,
sự
tu
tập
quan
trọng
nhất
là
rèn
luyện
cái
tâm
(niệm).
Người
ta
có
thể
hiểu
sự
quan
trọng
của
‘tâm
niệm’
là
do
nó
xuất
hiện
5
lần
trong
7
nhóm
của
37
phẩm
trợ
đạo.
Ðặc
biệt,
nhóm
thứ
nhất
Tứ
Niệm
Xứ
(Satipatthana
Sutta)
đều
sử
dụng
4
loại
niệm.
Tất
cả
điều
này
chứng
tỏ
sự
quan
trọng
của
‘tâm
niệm’. Trong
những
năm
vừa
qua,
pháp
Tứ
Niệm
Xứ
của
Nam
truyền
đã
có
sự
hồi
sinh
lớn
lao,
đặc
biệt
ở
Miến
điện,
và
Bắc
truyền,
nơi
mà
sự
quan
trọng
của
nó
là
việc
thực
tập
thiền
định
hiện
nay
đã
được
đánh
giá
rất
cao.
Một
trong
những
lý
do
pháp
Tứ
Niệm
Xứ
đã
chiếm
một
vị
trí
quan
trọng
như
vậy
trong
thiền
định
Phật
giáo
là
vì
chúng
giúp
ta
nhận
ra
được
3
đặc
tính
phổ
biến
là
vô
thường,
khổ
não,
vô
ngã.
Muốn
biết
Pháp
này
hiệu
quả
và
rõ
ràng
như
thế
nào
thì
ta
nên
xét
kỹ
từng
chặng
sau
đây:
1.
niệm
thân,
2.
niệm
thọ,
3.
niệm
tâm,
4.
niệm
pháp. Loại
niệm
thân
toàn
diện
hơn
cả
loại
40
thiền
định
hỗ
trợ,
loại
xảy
ra
một
trong
10
lần
nhớ
lại
nhưng
chỉ
giới
hạn
vào
thân
thể.
Niệm
thân
của
Tứ
niệm
xứ
không
chỉ
chú
tâm
vào
thân
mà
còn
chú
tâm
về
hít
vào,
thở
ra,
vào
các
thành
phần
của
sắc,
thân
thể
tan
rả,
v.v... Trang
343.
Niệm
thọ
dụ
cho
các
cảm
tính
của
kinh
nghiệm
cá
nhân,
các
cảm
giác
vui
thú,
không
vui
thú
và
bình
thản. Niệm
thức
(các
kinh
Việt
gọi
là
niệm
tâm),
hay
đúng
hơn
là
niệm
về
tư
tưởng,
nói
đến
sự
quán
tưởng
việc
sinh
và
diệt
của
tư
tưởng. Niệm
pháp
(đối
tượng
tinh
thần)
dụ
cho
các
nội
dung
của
tâm
thức,
đặc
biệt
các
quan
niệm
như
vô
thường
và
những
đại
loại
khác. Với
thân,
ta
hết
lòng
quán
tưởng
mặt
vật
chất
của
kinh
nghiệm
cá
nhân
(sắc),
và
với
ba
chặng
niệm
còn
lại,
ta
hết
lòng
quán
tưởng
ba
mặt
tinh
thần
của
kinh
nghiệm
cá
nhân
(thọ,
tưởng,
hành,
thức).
Sự
áp
dụng
đầy
đủ
về
niệm
sẽ
đem
đến
kết
quả
là
bỏ
hẳn
được
3
quan
điểm
sai
lầm:
thường,
vui
sướng
và
ngã,
tức
đạt
được
sự
hiểu
biết
của
3
đặc
tính
phổ
biến:
vô
thường,
khổ
não,
vô
ngã.
Tùy
theo
các
tông
phái
khác
nhau
của
thiền
định
Phật
giáo
mà
ta
có
các
lối
giải
thích
khác
nhau
nhưng
nói
chung,
các
lối
giải
thích
đó
nên
được
chúng
ta
chấp
nhận. Chúng
ta
hãy
xét
‘bốn
con
đường
dẫn
đến
quyền
năng’
(tứ
như
ý
túc,
iddhipada):
1.
muốn
hay
dục
(lòng
muốn
được
thần
thông),
2.
năng
lượng
hay
tinh
tấn
(lòng
thệ
nguyện
tu
rốt
ráo)
3.
tâm
hay
tư
tưởng
(giữ
gìn
tư
tưởng
tinh
tấn)
và
4.
lý
giải
(tham
cứu
đạo
lý,
tư
duy
như
ý
túc).
Bốn
pháp
này
cũng
được
tìm
thấy
trong
24
mô
thức
của
tính
tương
hợp
(xem
chương
39),
ở
đó
chúng
được
gọi
là
‘các
điều
kiện
ưu
thế’
(adhipati).
Cả
hai
‘con
đường
dẫn
đến
quyền
năng’
và
các
‘điều
kiện
ưu
thế’
rõ
ràng
ngụ
ý
đến
sức
mạnh
của
tâm
thức
đối
với
kinh
nghiệm. Một
thí
dụ
giản
dị
là
khả
năng
kiểm
soát
các
cử
chỉ
và
lời
ăn
tiếng
nói
của
mình.
Ðiều
này
cũng
đúng
nếu
áp
dụng
cho
việc
phát
triển
đầy
đủ
về
tâm
(thức),
dục
vọng,
năng
lực
và
lý
trí
để
kiểm
soát
được
các
hiện
tượng
vật
chất.
Khi
các
‘pháp
ưu
thế’
được
tăng
cường
để
vun
trồng
5
yếu
tố
định
(tầm,
sát,
hỷ,
lạc,
tịnh)
đặc
biệt
là
tịnh,
lúc
đạt
được
giai
đoạn
thứ
năm
của
các
định
sắc
giới--chúng
trở
thành
‘con
đường
dẫn
đến
quyền
năng’
(tứ
như
ý
túc). Trang
344.
Nhờ
tăng
cường,
các
‘pháp
ưu
thế’
dẫn
đến
các
loại
kiến
thức
cao
cấp
thế
gian
và
kiến
thức
siêu
thế
gian.
Có
5
loại
kiến
thức
cao
cấp
thế
gian:
khả
năng
lơ
lửng
trên
không
gian,
đi
bộ
trên
nước,
độn
thổ,
đọc
tư
tưởng
của
người
khác,
và
nhớ
lại
các
cuộc
đời
trước
đây
của
mình.
Kiên
thức
siêu
thế
gian
là
kiến
thức
tiêu
diệt
được
các
nhiễm
ô
(asava),
vô
minh,
v.v...Ðó
là
lý
do
4
‘nhân
duyên
ưu
thế’
có
thể
là
thế
gian
hay
siêu
thế.
Nếu
là
thế
gian
thì
ta
có
5
loại
kiến
thức
cao
cấp
thế
gian,
nếu
là
siêu
thế,
hay
niết
bàn,
kết
quả
là
ta
thấm
nhuần
lý
Tứ
Ðiệu
Ðế
và
tiêu
diệt
được
các
món
hữu
lậu. Giống
như
nhóm
Tứ
Như
Ý
Túc,
nhóm
5
Khả
năng
Kiểm
soát
(tức
Ngũ
Căn
Pháp)
(indriya)--tín,
tấn,
niệm,
định,
huệ--cũng
được
tìm
thấy
trong
24
mô
thức
của
tính
tương
duyên.
Trong
quyển
Các
Liên
Hệ
Nhân
Quả
(Patthana),
Ngũ
Căn
Pháp
được
định
nghĩa
là
những
‘pháp
vượt
trội’.
Có
một
sự
rất
gần
gũi
giữa
nhóm
Ngũ
Căn
Pháp
và
nhóm
Tứ
Như
Ý
Túc,
đó
là
sự
có
mặt
hỗ
tương
của
chúng
trong
tính
tương
duyên
và
sự
tương
đồng
của
chúng
về
phương
diện
kiểm
soát,
chi
phối
hay
làm
chủ. Ngũ
Căn
Pháp
được
gọi
là
‘kiểm
soát,
điều
chỉnh,
kiểm
tra’
vì
chúng
được
cho
là
kiểm
soát
hay
khống
chế
các
đối
nghịch:
‘tín’
khống
chế
nghi
hoặc;
‘tấn’
kiểm
soát
giải
đãi;
‘niệm’
(nhớ
biết,
chú
tâm)
chi
phối
phóng
dật;
‘định’
làm
chủ
sự
tán
tâm;
và
‘huệ’
điều
chỉnh
mê
lầm.
Giống
như
Tứ
Như
Ý
Túc,
Ngũ
Căn
Pháp
chỉ
có
thể
thực
sự
điều
chỉnh
các
đối
nghich
của
chúng
khi
chúng
được
tăng
cường
bởi
các
yếu
tố
‘định’
(absorption).
Chẳng
hạn,
tín
(niềm
tin)
chỉ
hiệu
quả
khi
có
sự
hiện
diện
của
các
yếu
tố
định
‘hỉ,
lạc,
tịnh’;
và
‘huệ’
chỉ
có
thể
vận
hành
hiệu
quả
khi
nó
được
tăng
cường
3
yếu
tố
định
‘tầm,
sát,
tịnh’.
Nhóm
‘Năm
yếu
tố
định’
củng
cố
và
tăng
cường
nhóm
Ngũ
Căn
Pháp
để
cho
nhóm
sau
hoạt
động
hiệu
quả,
chuyển
hướng
về
sự
giác
ngộ
(chuyển
thức
thành
trí).
Một
cách
hỗ
tương,
Ngũ
Căn
Pháp
cũng
củng
cố
5
yếu
tố
định.
Chẳng
hạn,
‘định’
củng
cố
‘hỉ,
lạc’.
Nói
chung
sự
liên
hệ
giữa
2
nhóm
này
có
tính
cách
hỗ
trợ
và
tăng
cường
tương
tác
nhau. Trang
345.
Một
mặt
Ngũ
Căn
Pháp
không
thể
thiếu
được
trong
việc
đem
lại
kết
quả
chuyển
hóa
các
tâm
thức
‘nghi
ngờ,
thẫn
thờ,
buông
lung,
tán
tâm
và
si
độn’
thành
những
tâm
thức
sáng
suốt
hơn,
mặt
khác
chúng
phải
được
điều
chỉnh
sao
cho
cân
bằng.
Ðiều
đó
có
nghĩa
là
chính
trong
5
yếu
tố
đó
phải
được
phân
chia
đều
với
nhau.
Chẳng
hạn,
lòng
tin
và
trí
huệ
là
cặp
tương
đối
tưong
tác:
nếu
lòng
tin
mạnh
hơn
trí
huệ,
điều
này
sẽ
làm
tệ
hơn
khả
năng
phân
tích
và
các
mặt
tìm
hiểu
tri
thức;
và
nếu
trí
huệ
mạnh
hơn
lòng
tin,
nó
sẽ
làm
giảm
đi
sự
tự
tin
đến
độ
không
biết
chắc
chắn
và
thiếu
sự
sốt
sắng
cần
thiết
để
thực
hành.
Giống
như
vậy,
nếu
năng
lượng
(tinh
tấn)
mạnh
hơn
định
tâm,
nó
sẽ
dẫn
đến
sự
loạn
động,
và
nếu
định
tâm
mạnh
hơn
năng
lượng,
nó
sẽ
dẫn
đến
sự
uể
oải
và
giải
đãi. Vì
thế,
‘tín,
tấn,
định,
huệ’
phải
được
phát
triển
và
duy
trì
thật
cân
bằng,
và
cái
giúp
ta
làm
được
chuyện
này
là
‘niệm’
(sati,
mindfulness).
Niệm
là
chi
canh
gác
báo
động
bảo
đảm
sự
liên
hệ
cân
bằng
thích
đáng
hỗ
tương
giữa
tín
và
huệ,
tấn
và
định. Trang
346.
Nhóm
kế
tiếp
của
các
phẩm
trợ
đạo
là
Ngũ
Lực
(bala):
tín,
tấn,
niệm,
định,
huệ,
giống
với
Ngũ
Căn
cả
về
số
lẫn
về
chữ.
Năm
yếu
tố
này
được
gọi
là
lực
(sức
mạnh)
vì
ở
giai
đoạn
này
‘tín
tấn
niệm
định
huệ’
trở
nên
vững
chắc,
đều
đặn
và
mạnh
mẽ
hơn. Phật
đã
cho
biết
rằng
Ngũ
Căn
và
Ngũ
Lực
là
hai
mặt
của
một
vật,
giống
như
một
hòn
đảo
ở
giữa
sông
dẫn
ta
đến
được
bến
bờ
phía
đông
và
bờ
phía
tây,
dù
rằng
2
phần
của
con
sông
là
một
và
giống
nhau.
Ngũ
Căn
là
những
khả
năng
tiềm
ẩn
phải
được
tăng
cường
và
phát
triển
qua
sự
kết
hợp
của
chúng
với
Năm
yếu
tố
Ðịnh.
Khi
chúng
trở
nên
vững
chắc
và
đều
đặn
nhờ
sự
tăng
cường,
chúng
mới
có
thể
được
gọi
là
lực
(Căn
+
Ðịnh=
Lực). Chúng
ta
có
thể
thêm
rằng
Ngũ
Lực
trở
nên
không
thối
chuyển
một
cách
tuyệt
đối
chỉ
trong
trường
hợp
Tứ
thánh
(xem
chương
35).
Khi
trở
thành
Tu
đà
hoàn,
chẳng
hạn,
tín
trở
nên
một
sức
mạnh
không
thể
lay
chuyển
được
vì
cái
cùm
nghi
ngờ
được
tháo
gở. Mặc
dầu
chỉ
có
Ngũ
Căn
và
Ngũ
Lực
được
liệt
kê
trong
37
phẩm
trợ
đạo,
nhưng
trong
cách
phân
loại
của
Vi
diệu
pháp
mở
rộng
về
Ngũ
Căn
và
Ngũ
Lực,
ta
có
thêm
ba
khả
năng
‘tâm
thức,
hỉ
lạc
vă
sinh
lực’
được
thêm
vào
5
khả
năng
đã
kể,
và
thêm
2
khả
năng
nữa
‘xấu
hổ
về
đạo
đức
(tàm),
và
khiếp
sợ
về
đạo
đức
(quí),
mà
chúng
có
tên
chung
là
‘những
người
bảo
vệ
thế
gian’
(thần
hộ
mệnh).
Xấu
hổ
về
mặt
đạo
đức
và
khiếp
sợ
về
mặt
đạo
đức
được
cắt
nghĩa
là
sự
ngay
thẳng
chính
trực
và
nỗi
sợ
hãi
bị
khiển
trách
riêng
của
mỗi
người
trong
chúng
ta.
Chúng
được
gọi
là
‘những
người
bảo
vệ
thế
gian’
vì,
khi
được
phát
triển
đến
một
mức
độ
tài
năng
(lực),
chúng
trở
thành
những
kẻ
bảo
vệ
cho
các
hành
động
thiện
lành. Trang
347.
Nhóm
cuối
cùng
chúng
ta
xét
ở
đây
là
Thất
Giác
Chi
(bojjhanga
hay
samhodhyanga):
‘niệm,
trạch,
tấn,
hỉ,
khinh,
định,
xả’. Niệm
lại
xuất
hiện
một
lần
nữa.
Nó
là
một
trong
những
nhân
tố
chánh
và
dẫn
đầu
toàn
nhóm,
vì
chính
với
niệm
mà
con
đường
dẫn
đến
giác
ngộ
bắt
đàu.
Qua
sự
nhận
biết
tình
trạng
tiến
bộ
của
mình
mà
con
đường
đạo
được
bắt
đầu.
Sự
tiến
bộ
này
được
hỗ
trợ
qua
việc
‘điều
tra
rõ
ràng
các
pháp’
(Trạch
pháp). Tinh
tấn
(năng
lượng,
nghị
lực)
có
ở
đây,
như
đã
có
trong
‘Bốn
con
đường
dẫn
đến
quyền
năng’
(Tứ
Như
Ý
Túc),
‘Năm
khả
năng
điều
khiển’
(Ngũ
Ðiều
Căn)
và
‘Năm
sức
mạnh’
(Ngũ
Lực).
‘Tấn’
cần
thiết
để
hỗ
trợ
cho
sự
tiến
bộ
khi
ta
đang
trên
con
đường
tâm
linh.
Thường
thì
các
cố
gắng
của
ta
rời
rạc
không
đều
đặn;
ta
tỏ
ra
rất
cố
gắng
một
thời
gian
ngắn
rồi
lại
rơi
vào
tình
trạng
cũ
và
lần
này
dài
hơn.
Nếu
muốn
sự
tiến
bộ
không
bị
gãy
đổ
thì
nó
phải
đều
đặn.
‘Tấn’
phải
đóng
góp
vào
sự
tiến
bộ
đều
đặn
đó
một
cách
liên
tục
trên
con
đường
đang
theo. Nhân
tố
thứ
tư
cũng
là
một
trong
năm
nhân
tố
của
định,
đó
là
‘hỉ’.
Nó
là
niềm
hạnh
phúc
dâng
tràn,
tuy
đúng
ra
nó
có
thể
được
hiểu
chỉ
là
‘quan
tâm,
sở
thích’
hơn
là
‘hân
hoan’
hay
nỗi
‘sung
sướng
vô
ngần’. Khinh
(nhẹ
và
sạch)
là
sự
thanh
tịnh
của
tâm,
có
được
là
do
việc
diệt
trừ
các
phiền
não
vô
minh,
ác
cảm
và
vướng
mắc
(si,
sân
và
tham). Ðịnh
đồng
nghĩa
với
nhất
điểm
tụ,
là
một
trong
Ngũ
Ðịnh. Xả
(bình
tâm)
là
sự
diệt
trừ
khuynh
hướng
của
cái
tâm
thơ
thẩn,
lang
thang.
Giống
như
trong
nhiều
từ
ngữ
của
Vi
diệu
pháp,
‘xả’
có
giá
trị
với
một
số
trình
độ.
Ở
trình
độ
cảm
thọ,
nó
có
thể
là
vô
ký.
Ở
trình
độ
tu
tập
thiền
Tứ
Vô
Lượng
Tâm
tức
Từ
Bi
Hỉ
Xả
(brahmavihara),
xả
là
tính
điềm
đạm
đối
với
các
giống
hữu
tình:
không
vướng
mắc
với
người
thân,
không
ác
cảm
với
kẻ
thù.
Với
sự
phân
tích
kinh
nghiệm
cá
nhân
theo
thuyết
ngũ
uẩn,
xả
là
sự
vô
tư,
trung
lập
với
8
điều
kiện
thế
gian
(tức
Bát
Phong:
lạc-khổ,
lợi-suy,
xưng-cơ,
dự-hủy;
sướng-khổ,
được-mất,
khen-chê,
vinh-nhục.
Xin
xem
lại
Chương
12,
đoạn
cuối).
Ở
đây,
trong
nội
dung
của
Thất
Giác
Chi,
xả
là
cái
tâm
hợp
nhất
và
không
lay
chuyển
được.
Cái
tâm
đó
hoàn
toàn
không
còn
khuynh
hướng
theo
thói
quen
‘‘tâm
viên
ý
mã’’
nữa. Ba
Mươi
Bảy
Phẩm
Trợ
Ðạo
được
hệ
thống
hóa,
duy
trì
và
được
dạy
bởi
nhiều
thế
hệ
minh
sư
chỉ
với
một
lý
do:
người
ta
thấy
chúng
hữu
ích
và
lợi
lạc
cho
việc
phát
triển
cái
tâm
của
con
người
và
đặc
biệt
giúp
ta
tinh
tấn
trên
con
đường
đi
đến
chánh
giác.
Dù
bạn
chọn
cách
tu
tập
Thiền
Tứ
niệm
xứ
hay
pháp
Tứ
chánh
cần,
Tứ
như
ý
túc
hay
Ngũ
điều
căn,
Ngũ
lực
hay
Thất
giác
chi
hoặc
Bát
chánh
đạo
(Con
đường
Tám
bước),
việc
làm
quen
với
37
Pháp
Giác
ngộ
hay
37
Phẩm
Trợ
đạo
đều
được
sự
giúp
đỡ
một
cách
thực
tế
và
tức
khắc
cho
sự
tiến
bộ
của
bạn
đối
với
mục
tiêu
đã
chọn.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002