Sự Có Mặt Lẫn Lộn Giữa Các
Thiện Nhân, Aùc Nhân và Thiện Quả, Aùc Quả.
Ðời sống của con người không phải chỉ thuần khổ,
thuần lạc, hay thuần phi khổ phi lạc, mà xen kẽ cả ba loại cảm thọ trên.
Cũng vậy, các hành động của con người thường vẫn lẫn lộn giữa thiện
ác và phi thiện ác, các quả báo vì thế cũng xen kẽ các nghiệp
quả đã tạo tác.
Có người có phước báo giàu sang mà lại thiếu nhan
sắc và trí tuệ. Có người có trí tuệ lại thiếu nhan sắc và giàu
sang... Có người có tài trí thì lại đa truân, có kẻ ít tài trí lại bình
an... Có người đa tham, có kẻ đa sân... Có người lắm rủi ro, có kẻ
nhiều may mắn.. Có giai đoạn của cuộc đời thì khó khăn, có giai đoạn
lại hanh thông... Có người nhiều lợi dưỡng thì lại thiếu danh
tiếng...
Tất cả những gì đang xãy đến với con người trong
hiện tại, không phải hoàn toàn do nghiệp nhân của các đời quá khứ.
Một số hậu quả do nghiệp nhân trong hiện tại gọi là nghiệp
mới.
Thế Tôn dạy: "Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
ý là nghiệp cũ. Các hành động của thân, khẩu, ý trong hiện
tại là nghiệp mới". (Tương Ưng IV, Phẩm Mới và Cũ, tr. 141)
Ở đây, chúng ta có thể rút ra được nhiều
kết luận cần thiết. Tất cả cái gọi là các nghiệp tạo ra trong
quá khứ đã nằm gọn trong chiếc thân ngũ uẩn này, nghĩa là trong sáu
căn, sáu trần và sáu thức. Tất cả các nghiệp quả cũng nằm gọn trong
sáu căn, sáu trần và sáu thức. Do xúc của căn, trần và thức mà cảm thọ
khổ, lạc, phi khổ phi lạc phát sinh. Con người có thể chọn lựa các
xúc mình muốn. Trường hợp không chọn lựa được, hay chọn lựa không
như ý về đối tượng xúc, thì bấy giờ con người vẫn làm chủ được
tư duy, được tâm lý để ngăn ngừa ái thủ. Làm chủ tâm lý, ngăn
ngừa ái thủ là không chịu hậu quả của quả báo nội tâm, và không tạo thêm
nghiệp nhân khổ mới để dẫn đến quả báo khổ trong tương lai.
Ðây là chỗ khởi hành của con người để đi vào hạnh phúc và giải
thoát qua giáo lý nhân quả của Phật giáo.
Khổ đau và hạnh phúc như thế, theo Phật giáo,
không phải là chuyện ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống, hay từ lòng đất
vọt ra; cũng không phải do sự thưởng phạt của bất cứ một quyền lực
nào. Hạnh phúc và khổ đau cũng là do duyên sinh, điều mà ngay trong
hiện tại con người có thể hiểu được và có thể tạo dựng cho
chính mình. Qua nghĩa Duyên sinh đó, nếu con người giác ngộ Vô ngã tính
của chính nhân quả và của chính Năm uẩn, nghĩa là có khổ, lạc, nhưng không
có ai khổ, ai lạc, thì lập tức có thể đi ngay vào giải thoát, đi ra
liền khỏi vòng ràng buộc của các nghiệp quả.
Nghiệp quả của các chúng sinh khác cũng thế, ở
ngay trong thân tướng của chúng sinh và cảnh giới của chúng sinh thác thai.
Ðiều tối trọng và tối diệu là làm sao giác ngộ rằng không có
mặt một ngã tướng nào trong mọi cảnh giới ấy. Giác ngộ được điều
đó thì cảnh giới sinh tử sẽ sụp đổ sớm hay muộn.
Con người có may mắn và hạnh phúc lớn nhất là có
nhân duyên để biết về Vô ngã pháp, nhưng vẫn còn một điều
bí mật nằm ở điều quyết định rời xa ái, thủ, nằm ở chính mình.
Mọi chuyện không có gì là bí mật, kể cả nhân quả, nếu con
người đoạn tuyệt tham ái. Nhưng cho đến khi nào con người còn nằm
mơ màng trong giấc mơ ái, thủ thì cho đến khi ấy sương mù tiếp tục
buông xuống che mờ khắp thực tại nhân quả này.
Cho đến khi nào chúng ta còn xem mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý này là mình, là tự ngã của mình thì nghiệp cũ còn
có mặt ở đó, ở khắp thế giới hiện tượng này. Cho đến khi nào
ta ổn định không xem mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này là mình thì
bấy giờ nghiệp quả không còn liên hệ gì với mình nữa, mà cả
nghiệp mới cũng không tạo tác thêm.
Tại đây chúng ta có thể kết luận nghiệp
(cũ và mới) từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý này khởi lên nếu có
mặt ái, thủ; và nghiệp cũng từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
diệt đi, nếu không có tham ái và chấp thủ.
Chính nghiệp tạo ra nghiệp nhân và đưa đến
nghiệp quả. Khi nghiệp bị đoạn diệt, thì nghiệp nhân và
nghiệp quả cũng đoạn diệt. Bấy giờ vấn đề nhân quả đề cập
ở trên không còn được đặt ra.
Nhân Quả: Vấn Ðề Ðạo Ðức,
Luân Lý của Phật Giáo.
Nhân quả, như vừa được trình bày, thuộc pháp hữu-vi,
thuộc phạm trù sinh diệt mà không phải thuộc pháp vô-vi, giải thoát.
Giáo lý nhân quả dạy con người lánh xa các
nghiệp ác và làm các nghiệp lành. Giáo lý này tự thân ít nhấn
mạnh vào giải thoát, nên mang ý nghĩa đạo đức, luân lý của đạo
Phật nhiều hơn.
Với những người chưa phát tâm làm các điều
thiện tích cực, thì cái khuynh hướng tránh xa khổ đau của con người
khiến họ tránh xa các ác nghiệp, nếu họ tin nhân quả.
Ðiều này cũng đóng góp vào công cuộc loại trừ các hiện tượng xã
hội xấu, tiêu cực.
Nhân quả nghiêm chỉnh đặt ra vấn đề trách
nhiệm cá nhân của con người, bởi con người là chủ nhân của nghiệp,
vừa là kẻ thừa tự của nghiệp, như Thế Tôn đã dạy.
Không có trách nhiệm cá nhân thì nhân quả không
được thành lập. Cũng vậy, không có trách nhiệm cá nhân thì luật pháp
xã hội cũng không được thành lập, hay nếu được thành lập thì cũng
không có cơ sở để thi hành. Ðời không có luật pháp thì sẽ đại loạn.
Ở lãnh vực giáo dục cũng thế, con người
trưởng thành được định nghĩa như là con người có trách nhiệm cao đối
với tự thân và xã hội.
Giáo lý nhân quả, do đó, một mặt vừa chỉ rõ con
đường sinh tử của con người để tránh, vừa khích lệ con người hành
thiện, mặt khác dạy con người ý thức trách nhiệm, sống không
ỷ lại, không chạy trốn, không đổ lỗi, không cầu xin. Ðây là tinh
thần giáo dục rất lành mạnh và tích cực trong việc giáo dục một con
người tốt ở cả hai mặt cá nhân và xã hội.
Trên cơ sở nhân quả này, nghĩa là trên căn bản
thiện, quan niệm đạo đức, luân lý của Phật giáo xuất hiện.
Thiện của Phật giáo được hiểu như là những gì đem lại lợi ích cho
mình và người trong hiện tại và tương lai, theo hướng ly tham, ly sân, ly
si, không ganh ghét, không đố kkhông gây tổn hại. Trên căn bản thiện
này, các yêu cầu xã hội như công bằng, nhân đạo, chí công vô tư, liêm,
chánh, kiệm cần được phát triển tốt đẹp. Các hiện tượng tham
nhũng, trộm, cắp, v.v... sẽ bị dập tắt.
Con người chịu trách nhiệm đời sống tâm thức của
mình nên tự nguyện lánh xa mọi điều xấu, chứ không phải vì sợ
hình phạt, chỉ trích, hoặc vì khen thưởng... Cơ sở triết lý ly tham,
ly sân, ly si, ly ác, ly hại ở trên vững chắc hơn cơ sở hình phạt của pháp
luật, bởi vì con người khôn ngoan có thể chạy trốn (hay qua mặt) pháp
luật và dư luật, nhưng người ta không thể chạy trốn lương tâm và
nghiệp quả của mình.
Khía cạnh tích cực của thiện là ban bố lợi ích và
an vui cho tha nhân, tập thể qua ngỏ đường tài thí và pháp thí. Tại
đây, chúng ta có thêm một bài học kinh nghiệm về hạnh phúc: ngoài
hạnh phúc của thủ, còn có hạnh phúc của xả cao hơn. Sống vì hạnh phúc của
tha nhân và tập thể là một lối sống hạnh phúc cao thượng, rất hạnh phúc
cho chính mình.
Nền đạo đức, luân lý Phật giáo như thế
không xây dựng các tín điều, không xây dựng trên các tư duy thuần
lý, cũng không "ra lệnh", mà được xây dựng trên giá trị
tiêu chuẩn của an lạc, hạnh phúc và giải thoát của con người, rất người.
Nếu luân lý này không ra lệnh, không trừng phạt mà trả con người
về chính nó để tự chịu trách nhiệm về hai mặt nhận thức và
hành động.
Một nền luân lý như vậy là đầy màu sắc tích
cực, đầy trí tuệ, đầy tính người và rất là nhân bản.
Ý Nghĩa Tương Ðối Trong Việc
Tìm Hiểu Luật Nhân Quả.
Người ta chỉ có thể hiểu rõ nhân quả khi nào
người ta hiểu rõ quả dị thục của nghiệp. Nhưng về quả dị thục
thì Thế Tôn đã dạy là con người không thể tư duy được, nếu
nỗ lực tư duy về nó thì có thể đi đến điên loạn.
Tăng Chi Bộ Kinh I, Phẩm Bốn Pháp chép:
"Có bốn phạm trù không thể tư duy: Phật giới,
Thế giới tâm, Thiền định của người tu Thiền, và quả dị thục của
nghiệp".
Do đó, chúng ta không thể chờ đợi bất cứ một
khảo luận nào về nhân quả có thể trình bày rõ ràng, hợp lý,
giải quyết được mọi nghi vấn. Thực sự, nhân quả cũng tương đối
như tính tương đối của các pháp hữu vi, chịu biến hoại, vô thường
đoạn diệt. Cho đến khi một người đoạn trừ hết lậu hoặc thì
chân nghĩa của nhân quả sẽ xuất hiện một lần với chân tướng của các
pháp.
Phạm Vi của Nhân Quả.
Như đã được đề cập, thế giới hiện
tượng là thế giới của tương quan nên nó là sự biểu hiện của
các quá trình nhân quả. Ở đâu mà có mặt ái, thủ thì ở đấy có mặt
của nghiệp, có mặt của nhân quả. Ở đâu không có ái, thủ thì ở
đấy không có mặt sự tạo tác nghiệp mới, ở đâu không có mặt của
nghiệp hay chỉ còn ảnh hưởng của nghiệp cũ để lại, thì ở đó
nhân quả chỉ còn ảnh hưởng ở ngoại giới, hoặc không còn có mặt nữa.
Ở quả vị Tu-đà-hoàn (Sơ quả Thánh), nghiệp
mới không được tiếp tục tạo tác, chỉ còn lại dục, sân và năm thượng
phần kiết sử. Ở quả vị A-na-hàm, chỉ còn năm thượng phần kiết
sử. Ở quả vị A-la-hán, hết thảy lậu hoặc đã được đoạn tận,
nghiệp hoàn toàn được đoạn tận, có thể chỉ còn vài ảnh hưởng của
nghiệp nhân quá khứ rơi rớt trên tấm thân sắc uẩn.
Tóm lại, nhân quả có vị trí rất trọng yếu
trong việc giải thích các sự khác biệt của con người, rất trọng
yếu trong việc thiết lập nền tảng đạo đức của Phật giáo và
chỉ có mặt trong thế giới của ý niệm, của các ngã tướng.
Tại đây, có một ý nghĩa được dùng đặc biệt
của từ ngữ nhân quả mà chúng ta cần phải xác định.
Khi nói: Nhân giải thoát thì quả giải thoát, như
thế, chữ nhân và quả ở đây chỉ là lối mượn từ để diễn đạt, chữ
nhân ấy không phải là nghiệp nhân, và quả ấy cũng không phải là
nghiệp quả. Nghiệp như đã định nghĩa từ đầu là hành động có tác
ý (thiện, ác, phi thiện - phi ác), còn giải thoát là giải thoát
nghiệp. Các hành động vô ký của một bậc Thánh giải thoát hoàn toàn
các lậu hoặc ngay trên cõi đời này, là các hành động duy tác (kriyà) mà
không phải là nghiệp (kamma, karma).
Thỉnh thoảng, chúng ta gặp một vài đoạn kinh ghi lời
dạy của Thế Tôn rằng: "Vô tham, vô sân, vô si, vô thủ trước là
nhân, mà giải thoát là quả...", lối dùng từ nhân và quả ở đây cũng
thế, chỉ là mượn từ để diễn đạt. Vả lại, lời dạy trên còn mang
một ý nghĩa khác nữa là, cứ tu tập khởi niệm, trú niệm vô tham,
vô sân, vô si, thì dần dần tập khí của nghiệp cũ sẽ tiêu, và sự giải
thoát tâm thức hoàn toàn sẽ thực sự đến. Nói là giải thoát đến
cũng chỉ là cách nói; thực ra, tự thân của tâm vô tham, vô sân, vô si đã
là giải thoát rồi.
Ðấy là lãnh vực giới hạn của nhân quả và nghiệp
của Phật giáo trong phần khảo sát nầy.
Nhìn Lại Một Số Lời Phát
Biểu về Nhân Quả của Phật Giáo.
Có tài liệu nói về nhân quả của Phật giáo
chép rằng:
"Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ
giải thị,
Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị".
(Muốn biết nhân đời trước, thì nhìn vào
kết quả thọ báo hiện tại;
muốn biết kết quả thọ báo của đời sau, thì nhìn vào những tạo
tác của hiện tại).
Nhận định trên nói lên rất giới hạn ý nghĩa của
nhân quả Phật giáo, người học Phật cần phải thận trọng, đừng xem
lời nói ấy như là một định thức mẫu mực. Nó chỉ trình bày đúng một phần
biểu hiện của nhân quả mà thôi. Bởi vì:
- Nghiệp nhân chưa hẳn đưa đến quả dị thục.
- Những gì thọ báo trong hiện tại, nói chính
xác là chỉ có thân Năm uẩn, là kết quả của nghiệp cũ trong quá khứ;
các cảm thọ, tri kiến khác còn do nghiệp mới trong hiện tại tạo
ra. Tương tự như thế, đối với một đời sống khác của tương lai. Nhận
định nói trên đã đánh mất cái tác dụng của các nghiệp nhân tức thời
trong hiện tại, những nghiệp nhân này gây ảnh hưởng tối quan
trọng, chúng có thể chấm dứt được cả dòng sinh tử. Chính khi dạy
về nhân quả, Thế Tôn chú trọng nhiều nhất cho việc tạo ra
nghiệp mới trong hiện tại, chú trọng ở điểm đoạn diệt
nghiệp hơn là tạo tác nghiệp thiện. Ðây là mục đích giải
quyết của đời sống Phạm hạnh.
Một lần ngoại đạo phát biểu: "Người này làm
nghiệp như thế nào, thì người ấy cảm thọ quả như vậy". Ðức
Thế Tôn đã bác bỏ quan điểm đó, Ngài dạy: "Người này làm
nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, thì người ấy
cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". (Tăng Chi I, tr. 284).
Trong tài liệu văn học Việt Nam có một số
quan điểm phê bình văn học cho rằng cụ Nguyễn Du trong Ðoạn Trường
Tân Thanh chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, và lẫn lộn nhân quả với
các thuyết Thiên mệnh và Tiền định.
Trong thời gian Kiều luân lạc, cụ Nguyễn Du viết:
"Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao".
Khi Kiều vừa hết kiếp đoạn trường, thì cụ
viết:
"Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là dây oan".
Cho đến đây, Kiều mới bình tĩnh hơn để
nhận định cuộc đời. "Trời" ấy là ý nghĩa của nghiệp cũ,
"ta" ấy là ý nghĩa của nghiệp mới. Chỉ có hai câu thơ sau
mới liên hệ gần với giáo lý nhân quả của Phật giáo.
Phải phát biểu là nhân quả của Phật giáo hoàn
toàn không phải là thuyết Thiên mệnh, Số mệnh hay Tiền định.
Nó không phải là một quyết định thuyết (déterminisme).
Lại có một quan điểm không phải Phật giáo
truyền thống cho rằng, ngoài nghiệp thiện ác, còn có nghiệp vô
ký, kết quả của hành động vô ký (vô ký mà không phải là duy
tác). Quan điểm này không được Nikàya, Ðại Tỳ-bà-sa và Duy Thức Pháp
Tướng tông chấp nhận. Như đã định nghĩa từ đầu, nghiệp là hành động
có tác ý. Nhân quả luôn luôn liên hệ đến nghiệp. Chính do vì
có nghiệp cảm mới có động cơ chính vẽ thành tiến trình của nhân
quả.
-oOo-
Qua các phần được trình bày ở trên, chúng ta thấy
rằng không thể nào có được một công thức nhứt định nào về nhân
quả. Không thể nào lập được một bảng liệt kê đối chiếu giữa
các loại nhân và quả, bởi vì nhân và quả đều là Duyên sinh, mang ý
nghĩa bất định như các pháp hữu vi khác. Phương trời hiện tại và
tương lai của quả dị thục luôn luôn mở rộng, nó cũng có thể được
chấm dứt với sự chấm dứt sinh tử của một bậc A-la-hán, bậc đã trừ hết
lậu hoặc. Phương trời quả dị thục ấy mở rộng, bởi vì nó tùy thuộc vào
việc vận dụng khả năng giải thoát hầu như vô tận trong hiện tại của
con người.
Ðối với bất cứ một pháp hữu vi nào, chúng ta chỉ có
thể hiểu rõ ngọn nguồn của nó khi chúng ta đã đoạn tận tham ái,
chấp thủ hay vô minh./.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục | Bài
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục