.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(4)
Bất Tùy Phân Biệt
Trên phương diện tự do tư
tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên
đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh
tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức
uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình
rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc,
cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của
mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không
ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn
trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách
quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!
Sách có câu: "Năm người mười ý! ".
Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn
đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một
ngày sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý
kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau
để bênh vực ý kiến chủ quan "nhứt định là đúng không
sai" của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực,
nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu
như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn
ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ
để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã
tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay
trong các chi phí kiện tụng.
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau
triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong
nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn
bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai
ghét, nay ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây
xích trói buộc con người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn
sóng cao ngất trời vùi dập con người trong sinh tử triền miên. Biển
khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như
những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, cao
ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách
có câu: "Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba".
Tuy nhiên, đạo Phật không dừng ở chỗ thế gian
thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo Phật chỉ dạy
cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc đời
sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc
đời ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan,
chán nản, yếm thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải
thoát, chứ không dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc
nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế tưởng
tượng, cầu nguyện van xin.
Ðạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi
là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ và giải
thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực,
một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn.
Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là "Bất Tùy
Phân Biệt". Pháp môn này được Ðức Phật chỉ dạy trong
bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà còn dành cho tất
cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và khổ
đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não
đó.
* * *
Trước hết, từ ngữ "bất tùy" có nghĩa là:
không theo. Còn hai chữ "phân biệt", tùy theo chỗ dùng, được
tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua,
phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến,
đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy,
"bất tùy phân biệt" có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an
lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư
tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu óc
kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực
con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào
của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như
ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn
của mỗi người.
Ở đây, xin nói ngay, "bất tùy phân
biệt" không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân
biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại
tiểu. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể
phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay
giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay
nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận
muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn
thế nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản
đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới
gọi là "bất tùy phân biệt" được.
Chúng ta hiểu biết rõ ràng thế nào là chánh
tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không hề cố chấp
vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì
tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ,
xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa
phương, tôn giáo, không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa
chúng ta đến phiền não và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta
thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chịu phản quan
tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay không?
Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là
chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.
Ðối với một sự việc nào đó, chúng ta thường
không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt già trẻ,
lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân
sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi
đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không
đúng lẽ phải, không đúng sự thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng
ta luôn luôn bênh vực, sao cũng cho là đúng! Còn với tất cả những người
khác, thế nào cũng cho là sai. Với người đồng đạo hay cùng tổ chức,
chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái gì cũng đúng! Nhưng với
người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì cũng sai, tất cả
đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch "phủ bênh phủ, huyện
bênh huyện", thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân
biệt của con người vậy.
Mục đích tối thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng
ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài những hình
tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, tất cả
mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một
điều thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều
muôn đời giống nhau, một điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là
máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng
không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều
như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều
giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:"Ly nhứt
thiết tướng thị danh thực tướng". Nghĩa là khi xa lìa tất cả
mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm
phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể
nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản
thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi là "con người chân thật".
Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được "con người chân
thật" của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham
lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có
thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám
mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.
Thế nào là "con người chân thật"? Ðó là
con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải thoát
mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân
hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức.
Ðó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm. Ðó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có
hiện nay. Ðó cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ
vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng
xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ
điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với
"con người chân thật" thì khi đó mới thực sự có được an lạc và
hạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi.
"Con người chân thật" chính là con người không có tâm phân
biệt. Nói cách khác, con người có tâm "bất tùy phân
biệt" chính là "con người chân thật" vậy.
Tâm phân biệt, cố chấp, thị phi, phải quấy, đúng
sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy?
Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối
đâu. Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ
già yếu cho đến lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc
khác là khi thấy cha mẹ già thì họ cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại
rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh leo trở xuống được, con cháu vui
mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm rằng cha mẹ còn
khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời.
Cũng vậy, hiện nay vấn đề phá thai là nhân
đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp bệnh nhân nan
y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của
họ hay không? Ðâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp
luật, hợp lệ nhất? Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ
đúng một phần thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác, như vậy
mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân lý.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:"Tri
kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết
bàn". Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự
hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là
đúng, là độc nhứt vô nhị, sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền
não. Nếu không cố chấp như vậy, nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới
niết bàn cực lạc không nghi. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu Pháp Tứ
Y, Ðức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có: Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y
ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.
1) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y
pháp bất y nhân". Nghĩa là chúng ta nên xét theo sự việc
chứ không xét theo con người. Thí dụ như một người ăn hiền ở lành
đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không phân biệt, không
chấp cứ người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên đàng mà
cũng phe đảng như vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho
giới tu sĩ. Ðó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo
lời Ðức Phật đã dạy, không phân biệt là Phật Tử, hay không phải là
Phật Tử.
Tâm phân biệt người này thế này, người kia
thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Con người
phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo.
Nếu là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên
thiên đàng. Còn số đông đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì
có chỗ dành sẵn dưới địa ngục! Hởi ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái
trong những con người có tâm phân biệt như thế! Chúng ta thường hay
chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy, những gì người tự nhận
đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời dạy đó,
những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin
bừa bãi, tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là
đức tin! Như vậy, chúng ta đã "y nhân", dù là thượng đế, chứ
không "y pháp", dù là chân lý. Bởi vậy, cho nên ở Âu Mỹ
hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều
người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo gì cả.
Ở những nơi đó, con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực
hành Chánh Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt
được cảnh giới an lạc và hạnh phúc đó, một cách bất tùy phân biệt!
Như vậy chính là "y pháp bất y nhân".
2) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y
nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là đừng chấp những lời nói, ngôn
ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ không phiền não
và khổ đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao dạo này anh chị mất
uy tín quá vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm mục đích
chọc tức chúng ta mà thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ
đi như không nghe thấy, bởi vì chúng ta hiểu tường tận thế nào là
"vô ngã", không thấy có "bản ngã", nên không thu nhận câu
đó vào trong tâm trí. Như vậy chúng ta sẽ không thấy phiền não và khổ
đau. Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi
có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng
ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh
phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu
nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc
là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng
cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí,
nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ,
chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ,
bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm
gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau
cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!
Người ta đưa lửa tới đốt, nếu chúng ta không
đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ chỉ đốt "hư
không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không
thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía
chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi.
Còn nếu chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga,
biện bạch, cũng giống như chúng ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm
lên, hà hơi tiếp sức, gây cảm hứng, tạo duyên cớ cho họ làm tới mà
thôi. Lúc Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy
rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện gì xảy ra cả.
Người đó thấy Ðức Phật cứ tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này
ông Cồ Ðàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Ðức Phật từ tốn nói bài kệ
như sau: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua
đều xả hết. Giấc ngủ được an lành" .
Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô
nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố
kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói tim, khỏi uống
thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và khổ
đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ
nhà gói quà biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ
món quà đó lại. Cũng vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen,
tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon
ngủ yên.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Ðức Lục Tổ Huệ Năng có
dạy: "Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa".
Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng,
chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc trăn
trở, nằm đếm một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là
"y nghĩa bất y ngữ".
3) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y
trí bất y thức". Nghĩa là chúng ta nên xét sự việc theo
trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức, tình cảm thiên lệch
của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ
nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài
văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người
đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay
xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy
cảm tình của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn
nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay không mà thôi. Khi đói
lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no đủ quá rồi thì sơn hào hải
vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay phê phán cũng không
có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ, tâng bốc để
thủ lợi, hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết
trước đây nữa mà thôi.
Người nào hiểu được như vậy, thực tập đúng
pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân biệt dẫn
dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau,
người đó đạt được "trí tuệ bát nhã". Nói cách khác, trí
tuệ bát nhã là trí tuệ phát sanh do tâm "bất tùy phân
biệt", do công phu trì giới, tu tập thiền định mà hiện ra. Trí
tuệ bát nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học tập
trong học đường mà đạt được, thể hiện qua các bằng cấp cao
thấp. Trí tuệ bát nhã là trí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con
người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất xứ,
học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng
lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ
đạt được "trí tuệ bát nhã". Như vậy chính là "y
trí bất y thức".
4) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y
liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa". Nghĩa là chúng ta chỉ nên
căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa, những điều nào rõ ràng,
minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những
chuyện không có căn cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe một
câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này
tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy. Hoặc những tin đồn dĩa
bay xuất hiện, thần thánh hiện ra nơi này nơi khác, có người thi
triển thần thông phép lạ chữa hết bệnh nan y, không thể
kiểm chứng được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại, những câu
chuyện như vậy không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ
làm loạn tâm chúng ta mà thôi.
Ðối với những chuyện thị phi trên thế gian này,
chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có
điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết luận,
nhứt định không đúng vậy. Ðối với những sách gọi là kinh Phật, chúng
ta cũng cần nên dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm
trợ đạo, để giúp con người tiến bước trên con đường giác ngộ và
giải thoát. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy lý nhân quả,
lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu hữu, để giúp con người
thoát ly phiền não và khổ đau. Những cuốn sách có nội dung: cúng sao giải
hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần, cầu
nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn
đất đai, đều không phải là kinh điển ghi lời Ðức Phật dạy. Vấn
đề này còn có phần tế nhị, bởi vì Ðức Phật thuyết pháp tùy
theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh điển có quyền có thực, có
hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao thấp, tùy theo công
phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.
* * *
Tóm lại, để kết thúc bài này, chúng tôi ghi
lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá:
Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa là:"Nếu không một phen sương thấm
lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm". Sau khi trải qua một mùa đông
lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời tiết nhân duyên để nở rộ
và tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng ta cần phải trải
qua những thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn
nhục, nhẫn mà không thấy nhục. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự
lành". Hiểu đạo rồi, chúng ta có thể nói: "Một sự nhịn muôn
vạn sự lành". Con người chỉ học được và nếm được chút hương
vị từ bi sau khi trải qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi nào bắt
đầu thấy được giữa tuyết trắng và bùn nhơ không khác, không có cái
gì xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con người bắt đầu biết nhìn sự
vật với tâm bất tùy phân biệt, cũng là lúc con người hiểu được và
hành được tâm đại bi. Người có tâm đại bi tức là không có tâm phân
biệt, không có tả không có hữu, không có bạn không có thù, không có
thân không có sơ, không có thị không có phi, không có thương không có
ghét. Tuy nhiên tâm đại bi không phải là vô tri, mà chính là sức mạnh mầu
nhiệm đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời.
Hiểu được rõ ràng thế nào là "vô
ngã", thế nào là "con người chân thật", chúng ta mới tìm
được an lạc và hạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần
phải trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những
lời dạy của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này.
Không phân biệt tôn giáo, không phân biệt sắc tộc, bất cứ người nào
thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp
dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó sẽ sống một cuộc đời an lạc và
hạnh phúc với "con người chân thật" của chính mình vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục