Đức Phật cho rằng từ bi là
trạng thái tâm thức tốt đẹp nhất ở thế gian này,
và khuyến cáo học trò mình, tất cả mọi Phật tử dù là
đi, đứng, hay nằm, ngồi, đều an trú niệm của
mình ở lòng từ, lòng bi không hạn lượng
đó.
Trong kinh tạng Pali,
đức Phật thường hay khuyến cáo các Tỳ kheo đệ
tử hãy chăm tập bốn Vô lượng tâm, tức
là các tâm từ, bi, hỷ, xả, mở rộng không hạn chế cho tất cả các
loài hữu tình ở khắp bốn phương, dù nhỏ hay lớn, thấy
được hay không thấy được, đều bao quát trong
bốn tâm từ, bi, hỷ, xả rộng lớn vô biên
đó.
Mãi gần
đây, phương Tây mới lập ra môn học mới gọi là
"Đạo đức học Môi trường” (Environmental
Ethics), đặt vấn đề bảo vệ cây cỏ, nước, không khí và các loài vật
Đó là một bước
đáng khen của khoa học Tây phương tiếp cận
thuyết từ bi rộng lớn của đạo Phật. Nhà Phật học Nhật Bản Hajime
Nakamura viết:
"Theo
đạo Phật, người chỉ là một loài hữu
tình, không có quyền khai thác bừa bãi không có hạn chế các loài
động vật thực vật, cũng là một bộ phận
của thiên nhiên" (Hajime Nakamura - Encyclopedia of Bioethics-Tập I. Free
Press. New York. Tr.371).
Nhà Phật học Nakamura viết
tiếp: "Một trong những đặc sắc nổi bật của tư
tưởng Phật giáo là một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, một nếp
sống an lạc trong một cảnh trí thiên nhiên tươi
đẹp, thanh tịnh, đầy thẩm mỹ và
đạo vị”. (Sách đã dẫn, tr. 371).
Chắc quý vị có thể thắc mắc là
làm sao kết hợp được thuyết từ bi của đạo
Phật với yêu cầu của khoa học nông nghiệp hiện
đại, dùng hàng loạt thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ, phân hóa học để bảo vệ mùa
màng, tăng sản lượng nông nghiệp v.v...
Đúng là khoa học nông nghiệp hiện
đại có những thành tựu nhất
định trong việc bảo vệ mùa màng, diệt
trừ sâu cắn lúa và cỏ dại, và tăng năng suất
và sản lượng ngũ cốc một cách đáng kể.
Nhưng, chúng ta cũng không
được quên hậu quả tai hại lâu dài của
việc lạm dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.
Đất, nước, bị ô nhiễm trên một diện
tích rộng lớn, đất đai màu mỡ trước
kia ngày càng bị cằn cỗi, thành phần hóa học và sinh vật trong
đất bị mất cân đối. Nước sông nước biển cũng
bị ô nhiễm nghiêm trọng, thậm chí tại một số vùng, nhiều sông, hồ
ao không còn có thể nuôi sống cá, tôm, cua và bất cứ một loài thủy sản nào
khác? Mãi gần đây, các nhà khoa học
nông nghiệp mới bắt đầu tỉnh ngộ và
gióng tiếng chuông báo động, yêu cầu
trở lại dùng phân sinh vật, cấm không dùng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ
trên quy mô lớn. Nói chung khoa học nông nghiệp phương Tây
đang có xu hướng rõ rệt, bảo vệ duy
trì cân bằng sinh thái trong đất và
nước, cây cỏ, nhằm tạo ra một năng suất ổn
định, cung cấp một số lượng nông phẩm có thể ít hơn, nhưng chất lượng dinh
dưỡng cao hơn.
Một thắc mắc thứ hai quý vị có
thể nêu lên về giới sát sinh là ăn thịt cá,
có mâu thuẫn với thuyết từ bi của đạo Phật hay không?
Quý vị
đều biết rõ là trong thời
đức Phật tại thế, đức Phật không có yêu
cầu tu sĩ không được ăn thịt, cá. Thí chủ
cúng dường gì thì ăn nấy, dù là
thịt, cá, trứng đều có thể dùng không
phân biệt. Hiện nay, ở các nước theo Phật giáo Nam tông, như Campuchia,
Lào, Thái Lan, Sri Lanka Tăng sĩ vẫn theo
truyền thống đó của đạo Phật, nhưng họ chỉ ăn mỗi ngày một bữa, nếu
quá ngọ thì họ không ăn nữa. Trái lại, ở các
nước theo Phật giáo Bắc tông như Việt Nam, Trung Quốc có một số lớn Tăng
sĩ ăn trường trai, nhưng ăn nhiều bữa. Ở các xứ như Tây Tạng, Mông Cổ, tuy
là theo Phật giáo Bắc tông, nhưng Tăng
sĩ ở đấy vẫn ăn mặn. Một bộ phận lớn của Tăng sĩ Nhật Bản và Triều
Tiên cũng ăn mặn.
Tại sao như vậy?
Đức Phật là một giáo chủ rất thực tế
Ngài biết rằng, trên thế giới có những vùng, trong năm
có nhiều tháng tuyết bao phủ khắp nơi, cây cỏ không mọc được, thì Tăng
sĩ ăn chay thế nào được?
Vì vậy
đạo Phật đề ra thuyết thịt trong sạch. Thịt
có thể ăn được, nếu mình không chứng kiến, không nghe biết con vật
bị giết thịt, cũng biết rõ, con vật đã
không bị giết thịt để cho mình
ăn. Thịt như vậy gọi là thịt trong
sạch và có thể ăn được.
Tất nhiên, ở những nơi nào, với
người nào có điều kiện ăn chay và cảm
thấy ăn chay ngon, có lợi thật sự cho sức
khỏe, thì nên ăn chay. Vấn đề này
không nên áp đặt mà nên tùy theo hoàn
cảnh và sở thích từng người mà giải quyết hợp lý. Theo
đạo Phật, không phải ăn chay là sẽ
được giải thoát, cũng không phải ăn mặn thì
sẽ phải luân hồi sanh tử. Vấn đề là ở
lòng tham hay không tham. Có người ăn thịt mà
không tham, lại có người ăn chay mà
tham. Tham ăn, cũng như tham sắc, danh, tiền,
ngủ nghỉ đều dẫn tới luân hồi sanh tử. Không tham thì
được giải thoát, trước mắt là giải
thoát khỏi ràng buộc với những điều mình
ham thích. Thân tâm nhờ đó mà
được nhẹ nhàng, thoải mái.
Mặc dù quý vị không
ăn chay trường, chỉ ăn chay trong những ngày
nhất định, nhưng quý vị hãy bồi dưỡng
cho mình và con cháu mình lòng thương yêu đối
với loài vật, nhất là những động vật
đáng thương, đáng quý, lại có ích như con chó, con mèo, con bò, con
ngựa v.v...
Quý vị và con cháu, bạn bè quý
vị hãy học cho được, tu tập cho
được tâm trạng từ bi, mà trong kinh Từ
Bi, đức Phật đề cao như là tâm trạng
tốt nhất trong cõi thế này.
Nếu tâm trạng ấy,
được duy trì và bồi dưỡng trong mỗi
giây phút của đời sống quý vị thì có
thể đảm bảo chắc chắn hạnh phúc đời này
và đời sau sẽ đến với quý vị không tách rời
quý vị, không khác gì bóng đi theo hình,
âm vang không rời tiếng, bánh xe lăn theo
bước chân con bò kéo xe:
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo". (Pháp Cú 1)
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình". (Pháp Cú 2)
Tâm ý thanh tịnh, trong kinh
Pháp Cú, chính là tâm từ, tâm bi mà đức Phật
ca ngợi như là cái tâm trạng tốt đẹp
nhất trên thế gian này.
Có lần,
đức Phật thuyết pháp cho ông Cấp Cô Độc
(Anathapinika) về công đức của bố thí. Đức Phật nói:
"Bố thí, cúng dường
đức Phật và Tăng
chúng thì có công đức rất lớn. Nhưng
có công đức lớn hơn là xây một tu viện cho Tăng
chúng. Có công đức lớn hơn xây dựng tu viện là thọ Tam quy: quy y
Phật, Pháp, Tăng. Có công đức hơn thọ Tam quy
là giữ năm giới. Có công đức hơn giữ
năm giới là giữ tâm niệm từ bi, dù chỉ là giây phút. Nhưng có công
đức hơn tất cả là quan sát sâu sắc
đạo lý vô thường của sự vật”. (Tăng
Chi IV, tr. 264-265)
Trong
đoạn văn trên, chúng ta thấy rất rõ là
đức Phật hết sức coi trọng việc tu tập lòng
từ, lòng bi và giữ năm giới. Nếu làm
như trong kinh Từ Bi, nếu cả đời chúng ta đi,
đứng, nằm, ngồi, chúng ta cũng đều giữ một niệm từ bi, thật sự thương xót
mọi người, mọi loài, thì công đức của
chúng ta sẽ là vô lượng vô biên. Mà lòng từ, ở mức thấp nhất chính
là không sát sanh, không giết hại, và không khuyến khích giết hại.
Còn mặt tích cực của giới không
sát sinh là gì? Xưa nay, chúng ta thường hiểu một cách hạn hẹp mặt tích
cực của giới không sát sinh là phóng sanh, là vào những ngày lễ hội lớn,
tổ chức mua cá đem thả lại xuống sông, mua
chim nuôi ở lồng rồi thả cho bay đi tự do...
Chúng tôi không phản
đối gì những cử chỉ tốt
đẹp, có giá trị biểu trưng như vậy. Nhưng
chúng tôi muốn đề nghị một nhận thức rộng rãi hơn về thế nào là mặt
tích cực của giới sát sinh. Đó là quý
trọng, bảo vệ, làm phong phú thêm, nâng cao chất lượng của sự sống ở mọi
cấp, trong tất cả mọi hình thức. Nếu hiểu như thế thì tham gia các phong
trào chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, chống bạo loạn và bạo hành,
khuyến khích hòa hợp với đối thoại trong phạm
vi quốc tế, khu vực, quốc gia, địa phương đều là thể hiện mặt tích
cực của giới không sát sinh; cũng như tham gia cuộc vận
động bảo vệ môi sinh trong phạm vi quốc tế,
khu vực, quốc giạ, địa phương, cho tới quận, phường, khu phố...
Bởi lẽ bảo vệ môi trường sống, cũng tức là bảo vệ sự sống nâng cao
chất lượng sống. Chúng tôi hiểu môi trường sống không chỉ hạn chế ở không
khí, đất và nước, mà còn bao gồm cả
lối sống, tập quán sống, vệ sinh hay phản vệ sinh,
đầu độc xã hội hay là làm lành mạnh
hóa xã hội của cá nhân chúng ta từng gia đình
chúng ta. Chúng tôi rất mong cho mỗi chùa, Thiền viện Phật giáo, thậm chí
cho tới mỗi gia đình Phật tử
đều sẽ là những trung tâm lớn hay nhỏ
của đạo đức Phật giáo, được thể hiện trong
nếp sống hằng ngày, là những trung tâm của lòng từ, bi, hỷ, xả,
những trung tâm đoàn kết và hòa hợp,
những trung tâm của một lối sống giản dị, lành mạnh và
đức hạnh. Đó chính là bảo vệ sự sống
và nâng cao chất lượng sống. Đó chính là
mặt tích cực của giới sát sinh.
Văn
minh Phật giáo phải tạo ra những mẫu người biết sống hài hòa với
mọi người, quan tâm tớimọi người, thông cảm sâu sắc và chân tình với niềm
vui cũng như nỗi khổ của mọi người.
II. Giới không lấy của không
cho.
Thuộc phạm vi giới này, không
phải chỉ là những hành vi trộm cắp lộ liễu, mà còn gồm cả những hành vi
như buôn lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng
trong buôn bán để kiếm những món lời bất chính, lạm dụng hay chiếm dụng
của công v.v...
Ở các nước công nghiệp phát
triển và một số các nước khác, việc khai thác bừa bãi tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là loại tài nguyên
không thể phục hồi được, như quặng kim loại,
dầu mỏ hay là khó phục hồi như rừng gỗ, loài
động vật hiếm phải được kết tội như là
những hành vi chiếm đoạt tài sản của
hậu thế.
Thánh Gandhi nói: "Ăn
một miếng không cần ăn tức là chiếm
đoạt phần ăn đó của người khác".
Trên tinh thần đó, người Phật tử nên
tránh và phê phán những cuộc ăn nhậu, tiệc tùng
lãng phí, những bữa ăn đáng lẽ để cho 20
người ăn, nhưng chỉ có ba, bốn người ăn mà thôi.
Đó là khoe khoang,
đó là lãng phí,
đó là thiếu lòng trắc ẩn
đối với những người nghèo, người
đói, ở trong nước cũng như trên thế
giới. Chúng ta nên nhớ rằng, ăn một miếng
không cần ăn, thì miếng ăn đó sẽ trở
thành thuốc độc, đầu độc cơ thể, sinh
ra lắm chứng bệnh. Đó là loại bệnh của người
ăn no: bệnh đường ruột, bệnh dạ dày,
các loại bệnh tiêu hóa, bệnh huyết áp, bệnh béo bệu và bao nhiêu thứ bệnh
khác nữa.
Mặt tích cực của giới không lấy
của không cho là:
a) Sống trung thực, lương
thiện, tuyệt đối không xâm phạm tới tài
sản, của cải của người khác, dù là cây kim, sợi chỉ.
b) Sống biết
đủ, bằng lòng với số tài sản của mình,
có được nhờ lao động của bản thân, không nghĩ
cách làm giàu thêm bằng những lối làm
ăn lừa lọc, không chính đáng, phi đạo đức. Cần chú ý là,
đạo Phật không phản đối làm giàu, nếu
đấy là làm giàu chính
đáng. Đức Phật từng nói với ông Cấp Cô Độc
rằng, người giàu có những niềm vui như là có
được của cải, do lao động của mình tạo
ra, có được của cải để làm việc thiện,
có của cải cho nên không phải nợ nần. Nhưng
đức Phật kết luận là những niềm vui
đó, tuy chính đáng, nhưng vẫn thua xa niềm vui của một người sống thiện,
không hề bị lương tâm khiển trách. (Tăng Chi IV, tr. 264 - 265)
c) Sống mà biết bố thí luôn
luôn và sẵn sàng giúp đỡ người khác trên
mọi mặt. Bố thí có nhiều loại: Tài thí là giúp
đỡ người thiếu thốn bằng của cải vật chất. Đó
là hình thức bố thí phổ thông nhất. Pháp thí là giảng pháp cho
những người chưa được biết Phật pháp. Đó là
loại bố thí được đức Phật ca ngợi là
bậc nhất. Pháp thí là đem điều thiện, điều
phải, điều hay, đẹp mình học được từ
Phật pháp chia xẻ với người khác cùng biết và
được lợi như mình. Có người hiểu một
cách hạn hẹp rằng chỉ có Tăng sĩ mới làm
việc pháp thí. Không phải vây, Tăng sĩ thuyết
pháp là một hình thức của pháp thí. Nếu có một vị nào
đó trong giảng tòa này,
đem nội dung bài giảng của chúng tôi
ngày hôm nay phổ biến lại cho gia đình,
con cái bạn bè, thân hữu, như vậy thưa quý vị, cũng là pháp thí. Dùng mọi
hình thức để phổ biến Phật pháp, đó là
pháp thí. Thuyết pháp hằng giờ như chúng tôi ngày hôm nay là pháp thí
đã đành,
giảng giải lại cho một người khác nghe chỉ một lời Phật dạy mà thôi cũng
là pháp thí.
Ở
đoạn trên, tôi có nhắc lại một lời đức
Phật nói một niệm quán vô thường, công đức còn lớn hơn là cúng
dường Phật và Tăng chúng, lớn hơn cả xây chùa
và tu viện, hơn cả thọ Tam quy, ngũ giới v.v...
Vì vậy chúng tôi khuyến cáo các
vị ít nhất cũng tìm hiểu đạo lý vô thường, là
một trong Ba pháp ấn của đạo Phật, và
giảng giải cho mọi người biết về đạo lý vô
thường đó. Công đức của các vị thực là lớn lao vô cùng.
Vì sao? Vì chỉ khi nào hiểu
được đạo lý vô thường, thì mới dứt bỏ
được lòng tham, lòng sân, lòng si, mở
được cửa vào cảnh giới Niết Bàn an
lạc. Cảnh giới Niết Bàn là cảnh giới không tham, không sân, không si. Mà
muốn không tham, sân và si thì phải hiểu sâu sắc
đạo lý vô thường.
Hình thức bố thí thứ ba là vô
úy thí. Bảo vệ, che chở, an ủi những người bất hạnh, gặp nạn, thân cô, thế
cô đó là vô úy thí, tức là bố thí sự
không sợ hãi.
Tùy hỉ thí là chia xẻ niềm vui
của người khác. Mặt trái của tùy hỷ thí là lòng ganh ghét,
đố kỵ, không có lòng hoan hỷ
đối với sự thành
đạt của người khác. Trong Bốn vô lượng tâm
được nói tới trong kinh tạng Pali, có tâm hỷ. Đó chính là hạnh tùy
hỷ, sẵn sàng chia xả niềm vui của tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Lòng
hỷ (tùy hỷ) bao giờ cũng đi kèm với
lòng từ. Bởi vì lòng từ chính là lòng sẵn sàng
đem lại niềm vui cho người khác. Mà
chia xẻ niềm vui cũng tức là cung cấp niềm vui,
đem lại niềm vui.
Trong sách Phật còn nói tới một
hình thức bố thí nữa, gọi là cung kính thí, tức là thái
độ khiêm tốn, bảy tỏ lòng kính trọng
đối với mọi người, dù là người kém
tuổi mình, không có địa vị xã hội bằng
mình. Thái độ kiêu căng
ngạo mạn là một thái độ không thể chấp
nhận được trong đạo Phật. Vì dưới con mắt
đức Phật, mọi Chúng sinh đều có Phật tính,
đều có khả năng thành Phật, cho nên
đều bình đẳng. Hơn nữa, mình có
kính trọng người ta, thì người ta mới kính trọng mình.
Đó là thái
độ có đi có lại trong cuộc sống, là
quy luật tự nhiên.
III. Giới không tà dâm
Con người hay từ cực
đoan này nhảy sang một cực
đoan khác. Có người cười nhạo đồ đệ của Khổng
Tử là "nam nữ thọ thọ bất thân" nhưng con người hiện
đại lại lún sâu vào một cực
đoan khác tức là cuộc sống tình dục
không hạn chế, mà những ảnh hưởng tiêu cực đã
bộc lộ phổ biến: gia đình tan nát, tỉ
lệ ly dị cao, dẫn tới tình cảnh trẻ con sống bơ vơ, thiếu tình cảm, không
được giáo dục, cho nên tỷ lệ thanh
thiếu niên phạm tội ngày càng nhiều; số thanh niên nghiệp ngập, hút sách,
mua bán dâm bừa bãi ngày càng đông. Một trong
hậu quả tai hại nhất của lối sống tình dục bừa bãi là bệnh Sida, mà
sự xuất hiện và lan tràn mau chóng là mối lo chung cho cả nhân loại, bởi
vì đó là một chứng bệnh hiện nay xem
như là không chữa trị được.
Trong một bối cảnh xã hội và
thế giới như vậy, tầm quan trọng của giới thứ ba, giới không tà dâm của
đạo Phật càng nổi bật lên, như một nhu
cầu bức xúc hàng đầu.
Chúng ta cần nhớ rằng, nhân
loại từ tình trạng dã man chuyển sang tình trạng văn
minh là nhờ có thiết chế gia đình.
Tình thương của người mẹ đối với con cái đóng
vai trò lớn trong sự ổn định thiết chế
gia đình. Con người cảm thấy được an
ủi, bớt cô độc, được bước đầu giáo dục về tình thương
đồng loại, trong cánh tay ôm ấp của người mẹ,
trong tiếng ru con của người mẹ. Thế nhưng nếp sống tình dục bừa
bãi của con người hiện đại đã phá hoại
thiết chế gia đình
đó của con người, khiến cho con người tuy
không phải quay lại cuộc sống man dã, thì cũng sống phi
đạo đức, mất hết tính người. Đó là
điều đáng sợ, nhưng phải nói ra, không nói
không được. Chỉ có loài vật mới quan hệ tình dục bừa bãi. Nhưng con
người cũng bắt đầu quan hệ tình dục
bừa bãi như vậy, lại còn phô trương trên màn ảnh một cách công khai, không
chút xấu hổ e thẹn.
Đó chính là cái vòng lẩn
quẩn của con người gọi là văn minh, gọi là
hiện đại. Cảm thấy sống làm người là
khổ, thì lại đâm đầu xuống sống không
ra con người nữa để rồi cảm thấy đau khổ hơn.
Nhưng đạo Phật đã vạch cho con người chúng ta một lối thoát ra khỏi
cuộc sống đau khổ hiện tại, là lối
sống đạo đức, hướng thượng theo năm giới,
mười thiện, lối sống tránh cả hai cực đoan: đam mê dục vọng tầm
thường, cũng như sống ép xác khổ hạnh.
Đối với người xuất gia, đạo
Phật yêu cầu một cuộc sống Phạm hạnh, từ bỏ mọi hình thức dâm dục.
Đây không phải là khổ hạnh.
Đây là yêu cầu tối thiểu của một cuộc
sống thật sự giải thoát, hướng tới sự giác ngộ hoàn thiện. Nhưng
đối với người Phật tử tại gia, đạo Phật không
đặt yêu cầu cao như vậy. Đạo Phật chỉ
yêu cầu họ có quan hệ tình dục chính
đáng, với người chồng, người vợ chính thức của mình. Quan hệ vợ
chồng là quan hệ vừa có tình, vừa có nghĩa, là trụ cột của mọi quan hệ
khác trong gia đình, như quan hệ cha
mẹ và con cái, quan hệ anh, chị em, và rộng hơn nữa là quan hệ họ hàng
thân thuộc. Trụ cột mà vững vàng, lành mạnh thì mọi quan hệ khác trong gia
đình cũng sẽ vững vàng và lành mạnh
theo. Mà quan hệ gia đình ổn
định, lành mạnh, lại là cơ sở của một
xã hội ổn định và lành mạnh.
Giữ
đúng giới “không tà dâm", người chồng,
người vợ, người cha, người mẹ đóng vai trò
rất lớn, có thể nói là quyết định trong sự
nghiệp làm lành mạnh, và ổn định xã
hội, cũng như giáo dục và bồi dưỡng thế hệ tương lai.
IV. Giới không nói dối
Tức là giới cấm vọng ngữ.
Đối với đạo Phật, nói dối tai hại trên
nhiều mặt. Thứ nhất, nói dối ảnh hưởng tiêu cực
đến sự ổn định xã hội. Nói dối phá
hoại sự ổn định đó. Con người chỉ có thể sống
chung với nhau trong một bầu không khí tin cậy lẫn nhau, tin cậy rằng
trong giao tiếp, mọi người đều nói thật. Nếu mọi người đều nói dối, thì
đó là dấu hiệu của xã hội giải thể và
tan rã.
Thứ hai, trên bình diện cá
nhân, nói dối có tác dụng tai hại là phản ứng dây chuyền. Nghĩa là, lời
nói dối này kéo theo lời nói dối khác rồi một lời nói dối khác nữa, còn
nghiêm trọng hơn, cho tới khi bản thân mình cũng bị bao bọc bởi tấm màn
dối trá do mình tạo ra. Một con người như thế ngày càng tách rời ra
đích giải thoát và giác ngộ, ngày càng
sa đọa vào vòng tội lỗi, khó gỡ ra
được. Một người đã sống không thật với
người khác, và với bản thân mình, thì sẽ không bao giờ tìm tới sự thật,
chứ đừng nói chứng ngộ sự thật.
Trong kinh "Giáo giới La-hầu-la
tại rừng Am-bà-la" (Trung Bộ kinh II, tr. 122),
đức Phật để lại trong chậu một ít nước và
bảo La-hầu-la rằng:
"Này La-hầu-la, ông có thấy một
ít nước còn lại trong chậu không?"
"Thưa có, bạch Thế Tôn" .
"Cũng ít vậy, này La-hầu-la, là
đức hạnh Sa-môn của những người nào
biết mà vẫn nói dối, nói dối mà không có xấu hổ".
Rồi
đức Phật hắt chút ít nước trong chậu đi, lại
úp chậu lại rồi lật ngữa chậu ra và nói:
"Này La-hầu-la, ông có thấy
chậu nước này trống không hay không?"
"Thưa có, bạch Thế Tôn".
"Cũng trống không như vậy, này
La-hầu-la là hạnh Sa-môn của người biết mà nói dối, không xấu hổ".
Rồi ở một
đoạn sau của kinh, đức Phật lại khẳng định:
"Này La-hầu-la,
đối với ai biết mà nói dối, không có
xấu hổ, thời Ta nói rằng, người ấy không có việc gì ác mà không làm. Do
vậy, này La-hầu-la, Ta quyết không nói dối, dù là nói
để mà chơi. Như vậy, này La-hầu-la,
ông phải học tập".
Rất mong quý vị, về gia
đình, cũng dạy dỗ con cháu mình như
vậy, nghĩa là tuyệt đối không nói dối, dù
là nói để mà chơi. Hiện nay, người ta
nói dối với nhau một cách quá dễ dàng. Trong nhà, người mẹ muốn dỗ con
nín, không khóc, cũng nói dối. Cha mẹ, muốn
đi chơi với nhau một mình, không cho con
đi theo cũng nói dối.
Chủ nhà mời khách
ăn cơm, cũng là mời
để mời, chứ không muốn mời. Khách tuy chưa ăn
cơm ở nhà, nhưng để từ chối một lời
mời không thật của chủ nhà cũng nói dối: "Xin lỗi, tôi
đã vô phép rồi".
Người ta gọi
đó là nói dối theo phép lịch sự. Thế
nhưng, thưa quý vị, phép lịch sự, theo đúng
nghĩa của nó chính là không nói dối. Nhất là cha mẹ
đối với con cái còn nhỏ, lại càng
không nên nói dối. Bởi vì, không nên coi thường trẻ con. Chúng nó biết
hết. Một ngày, chính chúng nó sẽ nói dối lại với cha mẹ, với bạn bè, như
chúng ta đã nói dối với chúng.
Cho nên, thà
để cho chúng khóc cũng không sao, khóc một
chút cũng như tập thể thao càng khỏe phổi. Tất nhiên, có những
trường hợp, chúng ta không thể nói sự thật
được. Nhưng không nói sự thật được thì hãy im lặng, chứ
đừng có nói dối. Nói dối cũng như ăn vặt, sẽ
quen mồm và gây tác hại không nhỏ.
Người Phật tử không những không
được nói dối, mà còn không
được nói lời chia rẽ, gây hiện tượng mất đoàn
kết. Trái lại, người Phật tử bao giờ cũng nói lời hòa hợp,
để đoàn kết lại những người vốn bị
chia rẽ, và tăng cường đoàn kết hơn
nữa, đối với những người vốn đã hòa
hợp.
Động cơ xấu nói chia rẽ có thể
là lòng hận thù, ganh tị đối với sự thành
công của người khác, là tâm ác muốn gây đau
khổ cho người mà mình không ưa, muốn cho những người khác xung
đột nhau, mâu thuẫn nhau, hiểu lầm nhau.
Khi lời nói xấu, nói chia rẽ
đồng thời cũng là lời nói dối, thì hai
tội nói dối và nói chia rẽ cộng lại tạo ra nghiệp ác nghiêm trọng, có thể
quyết định người phạm giới tái sinh vào
cõi ác, cõi khổ.
Mặt tích cực của giới không nói
chia rẽ là nói lời hòa hợp, xuất phát từ động
cơ lòng từ, lòng bi. Theo sách Phật, người nói lời hòa hợp thường
có nhiều bạn trung thành với mình, ở đời này
cũng như ở đời sau.
Người Phật tử, không những
không nói dối, nói chia rẽ, mà cũng không
được nói lời ác độc, khó nghe, làm đau
lòng người khác. Kích bác người khác với lời chua cay, chửi rủa,
mắng nhiếc người hay là chế nhạo người với lời thâm
độc đều là những
điều ác về lời nói mà người Phật tử
nhất định không phạm, dù là mình có bị
trái ý, không bằng lòng. Trong mọi trường hợp, người Phật tử phải biết
kiên nhẫn, lại biết thông cảm với những yếu kém của người khác. Người Phật
tử biết nói đúng thời, đúng lúc, nói lời có
ích, tránh nói nhảm nhí, nói lời vô nghĩa. Đối với người xuất gia, đức
Phật thường dặn là chỉ nên nói những lời
đúng sự thật, có lợi lạc đối với người nghe,
những lời có liên hệ đến Pháp và
Luật của đạo Phật, những lời hướng tới giác
ngộ và giải thoát. Lời nói của vị tu sĩ phải có giá trị như là vàng
bạc, châu báu đem tặng người nghe, mà
lại tặng đúng lúc, đúng thời. Người Phật tử
tại gia có học Phật cũng nên tranh thủ nói với mọi người những lời
nói có ích, có đạo lý, những lời nói khiêm
tốn, lịch sự, dễ nghe, dễ thấm vào lòng người. Người Phật tử có học Phật
cũng phải tranh thủ nói pháp, dù là với một người, hai người cho
đến số đông người.
V. Giới không uống rượu và các
chất say khác
Tác hại của rượu thì ai cũng
biết, nhưng ai cũng uống. Ngay ở nước ta cũng vậy. Uống rượu uống bia trở
thành một cái mốt, một thứ thời thượng, không thể thiếu trong tất cả bữa
tiệc nhỏ hay lớn, dù là tiệc gia đình.
Trên báo chí, tỷ lệ tai nạn
giao thông, các vụ tội phạm do say rượu cũng tăng
lên tới mức báo động. Thanh thiếu niên
ở nước ta uống rượu và hút thuốc lá rất nhiều, xem
đó như là một dấu hiệu của tuổi lớn và
lõi đời.
Các cuộc thí nghiệm khoa học
cho thấy rượu làm nóng cơ thể, chứ không cung cấp
được chất dinh dưỡng nào cho cơ thể.
Phần lớn rượu hay bia uống vào đều bốc thành
hơi. Chúng ta đứng gần người uống rượu
như bị hơi rượu phà vào mặt. Điều này
chứng tỏ rượu hay bia uống vào bị đốt cháy
trong cơ thể rồi bốc thành hơi tỏa ra ngoài, không có lợi ích gì
cho việc nuôi dưỡng và tái sinh các tế bào.
Mặc dù rượu uống với liều lượng
ít có khả năng kích thích thần kinh, và
có thể dùng làm thuốc, thế nhưng nếu uống nhiều, uống hằng ngày thì lợi
bất cập hại, tuy rằng không uống đến mức độ
say. Một tờ tạp chí Y học của Anh cho biết, người uống bia hằng ngày
có nguy cơ bị ung thư đường ruột gấp
12 lần người không uống bia. Phụ nữ có thai mà uống rượu, thì dễ bị
đẻ non và
đau màng óc. Uống rượu cũng gây tác hại dến tế bào óc, dù là
đối với người lớn.
Vì tất cả những lý do trên, cho
nên đạo Phật xem giới cấm rượu là một
trong năm giới cơ bản.
Trong kinh Sigalovadasutta,
Phật tuyên bố nghiện rượu là một trong sáu nguyên nhân làm cho tan cửa nát
nhà.
Đức Phật nói: "Này
Gia chủ, đam mê các loại rượu có sáu
nguy hiểm. Tài sản bị tổn thất, hay gây tranh cãi, mắc nhiều bệnh tật,
danh dự thương tổn, quần áo hở hang để lộ âm
tàng, trí lực bị tổn hại. Này Gia chủ, nghiện các loại rượu có sáu
nguy hiểm như vậy". (Trường Bộ, Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt)
Trong kinh Phật, có chuyện
thanh niên nhà giàu Mahadhanasettin phung phí một số tài sản rất lớn trong
việc rượu chè, đến nỗi khi về già phải
ăn mày để
kiếm sống qua bữa. Tệ nghiện rượu, say rượu là
đầu mối của bao nhiêu thảm họa gia
đình: Vợ chồng cãi nhau,
đánh nhau, con cái hư hỏng. Người say rượu
không còn biết phải trái, có thể phạm
đủ mọi tội ác, kể cả giết người.
Người Phật tử, ngay từ tuổi
nhỏ, phải được giáo dục về sự cần thiết tự
chăm sóc lo sức khỏe của bản thân mình, và giữ gìn tâm hồn trong
sạch và lành mạnh, để kịp thời ứng phó với
mọi biến thiên và cảnh ngộ bất trắc của cuộc sống. Người Phật tử
cần nhận thức rõ phung phí sức khỏe, làm mê muội tinh thần bằng lối sống
buông thả và trác táng là một tội lỗi nhiều khi phải trả giá
đắt bằng cả cuộc đời của mình.
Như vậy, trong bài thuyết pháp
nhân ngày lễ Phật đản hôm nay, chúng tôi đã
trình bày khá chi tiết nội dung của năm giới
nhà Phật, nên được nhận thức dưới con
mắt của con người hiện đại như thế nào.
Nước Việt Nam chúng ta chuyển
mình trong thời đại đổi mới và mở cửa
này, cuộc sống đạo đức có xuống cấp thật,
trong mấy chục năm lại đây, nhưng không đến nỗi tồi tệ. Văn minh vật chất
phương Tây tuy có xâm nhập vào nước ta và có ảnh hưởng tiêu cực
đến một bộ phận của nhân dân ta, nhất là
đối với từng lớp thanh thiếu niên,
nhưng vẫn gặp phải sự đối kháng mạnh mẽ của
giáo dục gia đình, tôn giáo, trường học,
được chính quyền hỗ trợ. Cho nên tình
hình của đạo đức xã hội ta không
đến nỗi quá bi quan, như một vài người
lo lắng.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận
thức rõ trách nhiệm của chúng ta, những người cha, người mẹ, các bậc
đàn anh, trước tình hình
đang biến chuyển mau lẹ. Hướng biến chuyển có
thể tốt hay xấu là tùy ở nỗ lực của chúng ta. Phương hướng hoạt
động của chúng ta có thể là:
– Mỗi người tự thực hiện nếp
sống hiền thiện, tuân giữ năm giới của người
Phật.
– Ra sức xây dựng kinh tế gia
đình bằng các sinh hoạt chính
đáng, tham gia xây dựng kinh tế của đất nước,
phúc lợi của nhân dân.
– Tham gia các phong trào văn
hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo,
từ thiện, chống bất công, tiêu cực có thể dẫn
đến bất ổn xã hội, suy thoái đạo đức.
– Tuyên truyền
đề cao mọi giá trị đạo đức truyền thống,
trong đó có đạo đức Phật giáo, như việc chúng tôi làm hôm nay trên
giảng tòa này, như việc quý vị sẽ làm ở gia đình,
với bài giảng này của chúng tôi.
Qua thời gian khoảng một giờ,
chúng tôi đã cố gắng trình bày cho
toàn thể quý vị định nghĩa năm giới theo lời
đức Phật dạy, nêu rõ những lợi ích cho giữ năm
giới này đem lại cho những ai thành
tâm thực hành.
Chúng tôi cũng cố gắng phân
tích cả hai mặt tích cực và tiêu cực của mỗi giới và sự áp dụng của từng
giới trong đời sống cá nhân của từng người,
của từng gia đình, quốc gia và xã hội.
Điều quan hệ là chúng ta
cố gắng đem áp dụng năm giới này của
đức Phật vào
đời sống cá nhân của mình, của gia
đình. Có áp dụng như vậy, chúng ta mới
xây dựng một xã hội văn mình và lành
mạnh, thực sự hạnh phúc và an lạc.
(Bài giảng nhân dịp Đại lễ
Phật đản 2537-1993 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục