Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Con đường Niết Bàn (I)
"Con
đường Trung Đạo này dẫn đến trạng thái vắng lặng, sự
thành tựu, sự giác ngộ và Niết Bàn." Kinh Chuyển Pháp
Luân.
---o0o---
Con
đường Niết Bàn là Trung Đạo (Majjhima Patipada) tránh xa hai
cực đoan là lối sống khổ hạnh, làm giảm suy năng lực trí
thức, và lối sống lợi dưỡng, làm chậm trễ tiến bộ
tinh thần.
Trung Đạo gồm tám chi: Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh
Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
Hai chi trên là Trí Tuệ (panna), ba chi
kế là Giới Luật (sila) và ba chi cuối cùng là Định (samadhi):
Chánh Ngữ |
Giới |
Chánh Tinh Tấn |
Định |
Chánh Kiến |
Tuệ |
Theo đúng thứ tự của lịch trình
tiến hóa tinh thần, Giới, Định và Tuệ là ba giai đoạn trên
đường dẫn đến Niết Bàn. Ba giai đoạn này được cụ
thể trong kệ ngôn sau đây:
"Chấm dứt mọi
hành động bất thiện,
Phát triển những hành động thiện,
Thanh lọc tâm,
Đó là lời dạy của tất cả chư Phật" -- Pháp Cú
Ta gặt hái những gì chính ta đã
gieo. Điều bất thiện đem lại đau khổ. Điều thiện, hạnh
phúc. Đau khổ và hạnh phúc của ta là ảnh hưởng trực
tiếp của những hành động thiện và bất thiện của chúng
ta. Người có Chánh Kiến nhận thức rõ ràng định luật nhân
quả - tức hành động và phản ứng của hành động - và
tận dụng mọi khả năng để tránh xa điều ác, phát triển
việc lành.
Làm như vậy, vì lợi ích riêng của
mình và sự an lành của người khác, người có tránh kiến
nhận thấy có bổn phận làm cho đời sống mình là một phước
lành, cho mình, và cho tất cả những người khác.
Biết rằng đời sống thật vô cùng
quí báu đối với mọi chúng sanh, và không ai có quyền hủy
hoại sự sống của kẻ khác, người có Chánh Kiến nới
rộng tâm Bi và tâm Từ của mình đến tất cả, dầu là
những con vật bé nhỏ, và tránh xa mọi hành động sát hại
hoặc gây thương tích cho bất cứ người hay thú.
Không có luật lệ nào bắt chúng
sanh này phải làm mồi cho chúng sanh khác. Tuy nhiên người
mạnh vẫn giết kẻ yếu để lấy thịt bày tiệc tùng. Đó
là bản năng của loài thú. Đối với thú, hành động tương
tự còn có chỗ tha thứ vì chúng không có ý thức được
việc của mình làm, nhưng với ai có đầy đủ lý trí mà còn
cố tình làm vậy thì thật là đáng trách. Dầu để ngon
miệng, hay để giải khuây, không có lý do nào ta tự cho phép,
hoặc nhờ tay người khác giết một chúng sanh. Nếu sát hại
thú vật là sai lầm thì giết người còn đáng ghê tởm đến
bậc nào - dầu giết từng cá nhân hay giết từng đoàn,
từng nhóm, dầu dùng những phương tiện tàn bạo hay những
phương pháp gọi là văn minh tân tiến và nhân đạo, dầu
giết để đem lại hòa bình, giết vì mục tiêu tôn giáo, hay
vì mục tiêu nào có vẻ đẹp đẽ nào khác.
Liêm khiết, chân thật và chánh
trực cũng là đặc tính của người có Chánh Kiến. Người có
Chánh Kiến tránh xa mọi trộm cắp, dầu là sự trộm cắp
hiển nhiên, lộ liễu, hay trộm cắp vi tế, kín đáo, ẩn núp
dưới một lớp gì khác. Người có Chánh Kiến cũng tránh xa
mọi hành động tà dâm làm giảm suy giá trị con người. Người
có Chánh Kiến tránh vọng ngữ, không nói thô lỗ đâm thọc
và nhảm nhí, mà chỉ dùng lời lẽ chân thật, nhã nhặn,
hiền hòa và bổ ích. Có nhiều loại thuốc và rượu làm tâm
trí xao lãng và lu mờ. Người có Chánh Kiến cũng tránh xa các
loại rượu mạnh, cố gắng trau giồi và mở mang trí tuệ.
Năm quy tắc sơ đẳng ấy - nhằm
kiểm soát cả hành động và lời nói - rất cần thiết cho
những ai bước chân vào con đường dẫn đến Niết Bàn.
Phạm những giới ấy tạo trở ngại cho tiến bộ tinh thần.
Đã vững vàng tiến một bước hướng
đến mục tiêu, bây giờ hành giả cố gắng thu thúc lục căn.
Để chế ngự sự thèm thuồng vật thực và để cho tâm và
thân được nhẹ nhàng khoan khoái, trong mỗi tháng nhịn ăn
một ngày là tốt. Đời sống phải giản dị và thanh đạm.
Sống xa hoa dẫn con người trở lên nô lệ của tham vọng. Nên
ở độc thân, vì tất cả năng lực nhờ đó mà bảo tồn
trọn vẹn, để có thể xử dụng trong việc trau giồi tinh
thần và đạo đức, cho mình và cho người khác. Cũng nhờ đó,
ta có thể tách rời ra khỏi những dây trói buộc của xã
hội, những trở ngại cho mức tiến đạo đức. Hầu hết
tất cả những vị giáo chủ đều có một cuộc sống khiêm
tốn, độc thân giản dị, tự ý nghèo nàn, và tự kiểm soát
chặt chẽ.
Trong khi tiến bộ từ từ và vững
chắc, hành giả càng kiểm soát hành động, lời nói và thu
thúc lục căn càng chặt chẽ hơn. Nghiệp lực của người hành
giả tinh tấn bấy giờ thúc đẩy đương sự từ khước
những lạc thú trần gian và chấp nhận đời tu sĩ. Những ý
như sau phát sinh:
"Đời sống tại
gia là sào huyệt củra tranh chấp,
Dẫy đầy những vất vả, những nhu cầu,
Nhưng đời sống của bậc xuất gia,
Tự do và cao cả như trời rộng mênh mông."
Nhận thấy rằng xa hoa vật chất là
ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật
sự, hành giả tự nguyện bỏ tất cả sự nghiệp vật chất
trên đời để khoác lên mình tấm y vàng và cố ghép mình vào
nếp sống hòan toàn trong sạch.
Tuy nhiên không phải vì sắc tướng
bề ngoài mà chính sự thanh lọc bên trong đời sống gương
mẫu, làm cho con người trở nên trong sạch. Sự đổi thay
từ trong ra ngoài, chớ không phải từ ngoài trở vô trong. Không
tuyệt đối cần thiết phải rút và ẩn dật nơi hẻo lánh
vắng vẻ và sống đời tu sĩ mới chứng ngộ được Niết Bàn.
Đời sống tỳ khưu chắc chắn giúp sự tiến bộ tinh thần
được thành đạt mau chóng và dễ dàng hơn, nhưng người cư
sĩ vẫn có thể đắc quả Thánh.
Trước tất cả những quyến rũ
của đời sống tại gia, người tu sĩ mà đắc được Quả A
La Hán chắc chắn đáng được tán dương hơn vị tỳ khưu, cũng
đắc Quả A La Hán, giữa khung cảnh tĩnh mịch an nhàn, không
có gì làm cho tâm giao động.
Nhắc đến một vị đại thần đắc
Quả A La Hán lúc ngồi trên lưng voi, trong một cái bành sang
trọng, Đức Phật ghi nhận:
"Dầu trang sức
lộng lẫy, nếu người kia đi trong sự thanh bình an lạc,
Nếu giữ tâm yên lặng thu thúc, vững chắc và trong sạch,
Và nếu người kia tự chế ngự, không làm tổn thương bất
luận chúng sanh nào,
Người ấy là Bà La Môn, là sa môn, là tỳ khưu." (Kinh Pháp
Cú, câu 142).
Có rất nhiều trường hợp người
tu sĩ sống tại gia cũng chứng ngộ Niết Bàn. Vị thiện tín
giàu lòng quảng đại và tâm đạo nhiệt thành của Đức
Phật, Anathapindika (Cấp Cô Độc) là một vị Tu Đà Huờn (Sotapanna).
Mahanama dòng Thích Ca là một vị Tư Đà Hàm (Sakadagami). Người
thợ lò gốm Ghatikara đắc quả A Na Hàm (Anagami) và Đức Vua
Suddhodana (Tịnh Phạn) nhập diệt với Đạo Quả A La Hán.
Một vị Tỳ khưu phải giữ bốn
loại Giới Luật Cao Thượng:
1) Patimokkha Sila - Giới
luật căn bản
2) Indriyasamvara Sila - Giới luật có liên quan đến công trình
thu thúc lục căn
3) Ajivaparisuddhi Sila - Giới luật có liên quan đến đời
sống trong sạch
4) Paccayasannissita Sila - Giới luật có liên quan đến sử
dụng "tứ vật dụng", những vật cần thiết cho đời
sống.
Bốn loại giới luật ấy gọi chung
là Sila Visuddhi (Tứ Thanh Tịnh Giới, sự trong sạch của
giới hạnh), là tầng đầu tiên trong bảy tầng trong sạch,
Thanh Tịnh Đạo, dẫn đến Niết Bàn.
Giới tử đã thọ lễ xuất gia và
thọ trì Upasampada (Cụ Túc Giới ) được gọi là Bhikkhu (Tỳ
khưu). Tu sĩ hành khất có lẽ là gần nhất của danh từ
"Bhikkhu", không phải trong ý nghĩa người đi xin, mà
trong nghĩa đời sống bằng vật thực được tặng, bằng lòng
quảng đại, bằng tâm trong sạch bố trí của người khác.
Một vị tỳ khưu không có lời thề
phải sống bằng đời sống xuất gia cho đến chết. Giới
tử tự nguyện để xin ghép mình vào giới luật để sống
đời sống trong sạch, đời sống thiêng liêng cao thượng
của vị tỳ khưu cho đến ngày, nếu muốn, cũng tự ý, bước
chân ra khỏi Giáo Hội mà không bị một sự bị ràng buộc nào.
Nhưng ngày nào còn đắp trên mình
bộ y vàng, vị tỳ khưu phải giữ trọn 220 giới chánh [1] và
nhiều giới phụ khác. Bốn trọng giới có liên quan đến đời
sống độc thân, đến sự trộm cắp, sát nhân và khoác loác
khoe khoang rằng mình đã đạt đến một mức cao thượng mà
thật ra mình không có, phải được gìn giữ trang nghiêm. Vị
nào phạm một trong bốn trọng giới kể trên phải chịu
tội Parajika (Bất Cộng Trụ) và đương nhiên không còn là
tỳ khưu nữa. Nếu muốn, vị ấy có thể xuất gia Samanera (Sadi)
trở lại.
Ngoài bốn trọng tội ấy, nếu vị
tỳ khưu phạm nhầm giới nào khác, phải tùy nặng nhẹ mà sám
hối chịu tội.
Những đặc điểm chánh của một
vị tỳ khưu là trong sạch, hoàn toàn độc thân, tự ý sống
nghèo nàn, khiêm tốn, đơn giản, vị tha phục vụ, tự kiểm
soát, nhẫn nại, bi mẫn và thanh tao nhã nhặn.
Đời sống của một tỳ khưu, hay nói
cách khác, sự từ bỏ những thú vui và những tham vọng của
thế gian, chỉ là một phương tiện hữu hiệu để thành
tựu quả Niết Bàn. Sự xuất gia tự nó không phải là cứu
cánh.
Chú thích:
[1] Ngoài ra, còn bảy điều diệt tránh
(adhikaranasmatha dhamma), cộng lại là 227.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com