Ngài
Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi
là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh
kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ
là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Đường
Tăng tức là một vị Tăng đời
Đường. Đời nhà Đường thì có
nhiều vị Tăng đi cầu kinh nhưng chỉ có
ngài là đặc biệt nhất, nổi nhất, cho
nên nhiều khi họ nói Đường Tăng đó
là chỉ cho ngài Huyền Trang. Còn Tam tạng
Pháp sư là gồm Kinh tạng, Luật tạng và
Luận tạng. Vì ngài là vị thông hiểu
cả Tang tạng kinh, Luật, Luận nên gọi
là Tam tạng Pháp sư.
Tiểu
sử của ngài có nhiều người viết
khắp nơi trên thế giới. Riêng Việt Nam
có 4, 5 người viết như Hòa thượng
Thích Minh Châu 1 bản, đạo hữu Võ Đình
Cường 1 bản, Trần Hà cũng có 1 bài,
ông Nguyễn Hiến Lê cũng có 1 bài...
Trong tiểu sử đầy đủ nói về ngài
thì có tập của Hòa thượng Thích Minh
Châu hay là của đạo hữu Võ Đình
Cường. Nhưng nói tóm tắt thì có bài
của Trần Hà và của nhà học giả
Nguyễn Hiến Lê. Trong số này theo tôi
thì bài của Nguyễn Hiến Lê là súc
tích nhất và có nhiều ý, nhiều cảm
tưởng thâm thúy với ngài - một lịch
sử rất đặc biệt. Ông Nguyễn Hiến Lê
là một học giả nổi tiếng của miền Nam
trước đây.
Trong
bài này tôi dựa vào bản của Nguyễn
Hiến Lê để tóm tắt. Ông Nguyễn Hiến
Lê trong bài viết ông đặt đề:
"Huyền Trang và công cuộc thỉnh kinh
vô tiền khoáng hậu của nhân loại".
Với
phụ đề như vậy chúng ta biết Huyền
Trang là người như thế nào và vĩ đại
ra sao rồi? Một cuộc thỉnh kinh vô tiền
khoáng hậu của nhân loại - của nhân
loại chứ không phải của riêng nước
Trung Hoa - mà cuộc thỉnh kinh ấy vô tiền
khoáng hậu, tức trước không hề có
và sau ngài cũng không hề có được,
không ai làm một cuộc thỉnh kinh như ngài
đã làm. Trước và sau không ai làm
được như vậy nên gọi là vô tiền
khoáng hậu. Nội câu phụ đề của ông
Nguyễn Hiến Lê đặt vào đó, chúng ta
thấy cái vĩ đại cao thượng như thế
nào của ngài Huyền Trang rồi:
"Huyền
Trang (tiếng Pháp là Hiuan-tsang) không
phải là một triết nhân, chẳng phát huy
được thêm cái gì cho đạo, ông cũng
không phải là một văn hào hay một nhà
khoa học, lại càng không phải là một
nhà thám hiểm như Christophe Colomb, Magellan,
ông chỉ là một Pháp sư đi hành hương
ở đất Phật; vậy mà sự nghiệp của
ông đối với đạo Phật quan trọng hơn
sự nghiệp của Chu Hi đối với đạo
Khổng, ông lại tặng dân tộc Trung Hoa
bảy mươi lăm bộ sách, gồm trên ngàn
quyển, làm giàu cho Hoa ngữ được trên
vạn tiếng; và lưu lại cho nhân loại vô
số tài liệu rất quí về phong tục, khí
hậu, sông núi, cỏ cây, di tích của
những miền hoang vu, huyền bí ở Trung bộ
Á Châu, nhất là Ấn Độ, những tài
liệu mà các nhà thám hiểm phương Tây
tới sau ông đều phải khen là rất đích
xác, rất quí báu. Thử hỏi, trong lịch
sử nhân loại có vị danh nhân thứ hai
nào như ông không? Nội một việc dân
tộc Trung Hoa thần kỳ hóa cuộc đi thỉnh
Kinh của ông, truyền miệng cho nhau sao
chép lại thành một bộ tiểu thuyết
tức bộ Tây Du Ký - cũng là một cái
vinh dự mà từ xưa đến nay chưa ai
được nhận nữa! Nhất là đọc xong
tiểu sử của ông ta mới thấy tấm
gương của ông để lại cho ta soi không
có một chút vết. Các vĩ nhân khác,
trừ vài vị Thánh, còn có thể có chỗ
cho ta không phục, còn ông thì suốt
đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hiếu
học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và
hy sinh. Tôi muốn có một bức chân dung
của ông quá!"
Câu
mở đầu của nhà học giả Nguyễn Hiến
Lê ca ngợi ngài Huyền Trang như vậy,
chúng ta thấy và tưởng tượng cái
tiểu sử của ngài làm sao nói cho hết
được. Một nhà học giả người ngoại
đạo chứ không phải trong đạo, lẽ tất
nhiên câu nói của họ ở đây có một
nhận xét rất khách quan, chứ không vì
tín ngưỡng người trong Đạo nói với
người trong Đạo. Nội chữ ông dùng
trên đủ thấy ông kính phục và ca
ngợi ngài hết lời. "Đọc xong tiểu
sử của ông ta mới thấy tấm gương
của ông để lại cho chúng ta soi không
có một chút vết. Các vĩ nhân khác,
trừ vài vị Thánh còn có chỗ cho ta
không phục. Còn ông thì suốt đời thanh
đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, lễ
độ, khiêm tốn, trong sạch và hy
sinh".
Bao
nhiêu chuyện hay, bao nhiêu từ ngữ tốt
đẹp đều gồm trong lời ca ngợi trên
hết - có đủ nơi ngài hết. Christophe
Colomb là nhà thám hiểm tìm ra Châu Mỹ,
Magellan là người đi chu du khắp thế
giới. Ông nêu lên hai người ấy để
so sánh qua việc của ngài, không phải
là nhà thám hiểm, không phải là nhà
văn hào, không phải là nhà khoa học
cũng không phải là triết nhân. Thế
nhưng, công lao của ngài đối với đạo
Phật, đối với Trung Hoa, và đối với
nhân loại cũng lớn lao lắm.
"Ông
sinh năm 602 sau công nguyên, năm thứ 14
đời Tỳ Văn Đế [*] tại huyện Câu Thị
(Lộ Châu: hiện là huyện Yêm Sa, tỉnh
Hà Nam), trong một gia đình vọng tộc.
Tằng tổ là Trần Khâm được phong
tước Khai quốc quân công đời Bắc
Ngụy; tổ phụ là Trần hương làm Quốc
sử bác sĩ đời Bắc Tề, thân phụ là
Trần Tuệ làm chức quan huyện ở Giang
Lăng đời Tỳ, sau thấy Tùy Dạng Đế
là một hôn quân, chán nản, từ quan
về nhà dạy học. Ông tên thật là
Trần Vỹ, đứng hàng con út. Người anh
thứ hai, Trần Tố, làm Hòa thượng
chùa Tịnh Độ (Lạc Dương). Như vậy gia
đình ông là một gia đình nhà Nho, phát
ở thời Nam Bắc Triều, mà thời đó
là một thời rất thịnh của đạo Phật
ở Trung Quốc.
[*]
Ông Trần Hà trong bài Trần Huyền Trang
và chuyến thỉnh kinh lịch sử (Bách khoa
số 57) ngày 15-5-59 nơi Huyền Trang
sinh năm 596 (năm thứ 16 đời Tỳ Văn
Đế). Tôi theo René Groussel trong cuốn
Surles traces de Bouddha (Plon-1948), tr. 22 Từ
Hải không cho biết năm sinh và năm tịch
của Huyền Trang nhưng có nói năm Trinh
Quán thứ nhất (Trinh Quán là niên hiệu
của Đường Thái Tông), tức 627 Tây
lịch, Huyền Trang 26 tuổi (tuổi tính theo
phương Đông), vậy hợp với thuyết của
Groussel: Huyền Trang sinh năm 602. Vả lại,
Nếu Huyền Trang sinh năm đó là năm
thứ 8 của đời Tý Văn Đế, chứ
không phải là năm thứ 16.
Đạo
Phật bắt đầu vào Trung Quốc có lẽ
từ đời Tần, đến đời Hán ảnh
hưởng còn ít; qua đời Đông Tấn và
Nam Bắc Triều, nhân xã hội Trung Hoa hủ
bại, loạn lạc liên miên, dân chúng
khổ sở, không tìm được nỗi an ủi
ở đạo Phật mới có ở đạo Nho, nên
quay về đạo Lão, nhất là đạo Phật,
mà đạo Phật mới có cơ sở phát
triển mạnh mẽ. Sử chép đời Bắc
Triều đã có non 900 chùa Phật và tại
Lạc Dương, Tăng ni ở các nước họp
nhau lại có trên 3.000 người. Từ vua
quan đến dân chúng, ai cũng sùng bái
đạo Phật. Tăng ni được hưởng nhiều
quyền lợi: khỏi phải đi lính, được
miễn thuế, sưu dịch; cho nên càng loạn
lạc, càng nghèo khổ, dân chúng lại
càng chạy vào ẩn náu dưới cửa
Phật. Người có của cũng xin đầu
Phật, để đất đai khỏi phải đóng
thuế, thành thử đạo Phật bành
trướng rất mau; đến đời Bắc Ngụy,
nhà chùa chiếm được một phần ba tổng
số diện tích đất đai trong nước.
Cuối
đời Nam Bắc Triều, nhà Châu thấy nguy
cơ cho triều đình, chủ trương diệt đạo
Phật, bắt 3 triệu tăng ni hồi tục và ra
lệnh phá rất nhiều chùa chiền. Nhưng
đến cuối thế kỷ thứ 6, đạo Phật
lại phục hưng, rồi nhân chính sách bạo
tàn của Tùy Dạng Đế làm cho dân
chúng lầm than, điêu đứng (ba lần
chiến tranh với Cao Ly, động viên đến
hơn một triệu tráng đinh nhưng thua; một
lần xuống Giang Nam ngắm quỳnh hoa nở,
mà bắt hơn một triệu dân để đào kinh
từ Lạc Dương đến Giang Đô), chùa
chiền lại mọc lên rất nhiều, mở rộng
cửa đón những kẻ chán ngán thời
cuộc hoặc trốn xâu lậu thuế.
Thân
phụ Huyền Trang là một trong những
người chán ngán đó. Ông không quy y,
vẫn giữ đạo Nho, nhưng ham đọc kinh của
đạo Lão và đạo Phật".
Lúc
8 tuổi ngài thích nghi lễ, rất nghiêm
cẩn, có lễ độ, tính tình ngay thẳng,
không thích nhảy nhót, không ngơ ngác y
như các em bé khác. Lúc cha ngài đem
Hiếu kinh giảng cho ngài nghe, đến đoạn
ông Tăng Tử khi nghe giảng bèn đứng
dậy nghe thầy giảng kinh. Thấy ông Tăng
Tử như vậy, khi ngài đang ngồi nghe cha
giảng kinh, ngài cũng đứng dậy sửa
áo. Cha ngài ngạc nhiên hỏi tại sao đang
ngồi nghe như vậy mà đứng dậy là
nghĩa làm sao? Ngài thưa: Tăng Tử nghe
thầy giảng mà còn đứng nghiêm trang
thay huống chi con nghe cha dạy mà con không
đứng dậy là vô lễ. Thế cho biết lúc
8 tuổi ngài đã như vậy rồi. Từ đó
chúng ta biết tinh thần của ngài ra sao
rồi.
"Huyền
Trang, hồi tám tuổi đã thích lễ nghi,
tính tình nghiêm cẩn. Ít năm sau, một
người anh là Tố quy y, Huyền Trang
được nghe anh thỉnh thoảng giảng đạo
Phật cho nghe, ham mê cũng muốn theo anh.
Năm 13 tuổi, ông lại chùa Tịnh Độ ở
Lạc Dương xin quy y. Mới đầu, nhà chùa
còn do dự, chê ông nhỏ tuổi quá, sau
thấy ông thành tâm và thông minh lạ
thường, nên chấp thuận." [*]
[*]
Theo Nguyễn Huy Khánh, tác giả cuốn khảo
luận tiểu thuyết Trung Hoa thì lần đó
chùa Tịnh Độ được lệnh triều đình
chọn 27 vị Hòa thượng. Muốn là Hòa
thượng phải qua một kỳ sát hạch về
trình độ học vấn và tư cách đạo
đức (quy chế đó có từ đời Tý
hết đời Minh mới bãi bỏ). Số người
ứng thi có đến mấy trăm. Huyền Trang
cũng ghi tên, nhưng vì nhỏ tuổi không
được phép dự. Tuy vậy, cậu bé thông
minh ấy vẫn không nản lòng, cứ núp
gần công môn mà nghe lỏm. Một bữa
Trịnh Thiện Quả người triều đình
phái tới thấy cậu bé đứng rình
nghe biết là người có chí, lại thấy
hình dung tuấn tú thêm đối đáp như
lưu, hỏi: "Người muốn xuất gia để
làm gì?" Thưa: "ý muốn, xa
nối Phật Như Lai, gần sáng như
Pháp". Thiện Quả bèn đặc cách cho
làm Tăng (khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa
tr. 149, Khai Trí 1950).
Lúc
bấy giờ ở ngôi chùa Tịnh Độ được
phép của nhà vua tuyển chọn thêm 27 vị
tăng. Trong khi đó người xin vô làm
Tăng có cả 100. Người đại diện Triều
đình đến tuyển chọn tên là Trịnh
Thiện Quả. Ngài Huyền Trang tuổi nhỏ
nên không được đưa vào danh sách
tuyển chọn. Nhưng Ngài cứ đứng lấp
ló ngoài cửa lắng nghe. Trịnh Thiện Quả
thấy vậy liền hỏi về tuổi tác, quê
quán, sở thích... Đặc biệt khi hỏi vì
sao ngài muốn đi xuất gia? Ngài trả
lời: Tôi xin xuất gia là xa thì nối
Phật, Như Lai, gần thì làm sáng như Pháp
(Viên thiệu Như Lai, cận quan như pháp).
Câu này có ý nói: Tôi xuất gia ý
nhìn về xa, về trước, về đức Phật,
tôi muốn nối dõi giòng giống của
Phật. Nhìn về gần trong hiện tại tôi
muốn làm sáng giáo pháp đang di truyền
của ngài vậy. Xuất gia là vì mục đích
đó. Trong khi tuổi đang còn nhỏ, chỗ
Triều đình tuyển Tăng, vì tuổi nhỏ
không được tuyển, cũng không chịu về
nhà cứ đứng thơ thẩn lấp ló để
mà nghe ngóng, ham thích cái chuyện xuất
gia đó, cho nên khi trả lời câu nói
đó thì ông Trịnh Thiện Quả đặc cách
cho ngài được vào làm Tăng".
"Ông
học hết các kinh của Tiểu thừa, Đại
thừa rồi đến kinh Niết-bàn, giáo lý
rất cao siêu; học đến quên ăn quên
ngủ".
Kinh
Niết-bàn là kinh cao nhất: Phật nói lên
câu: Tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh. Các Kinh khác có Kinh nói có Kinh
không. Tất cả chúng sanh đều có Phật
tính, trong Kinh Niết-bàn chú trọng đưa
lên cái đạo lý ai cũng có Phật tính.
Đó là một đạo lý cao siêu nhất. Bây
giờ chúng ta nghe lâu ngày quá quen rồi
nên coi thường, chứ người mới nghe,
nghe đó lạ tai lắm, lạ vô cùng, vì họ
lý luận: Phật là Phật, chúng sanh là
chúng sanh. Phật là cao thượng, là siêu
việt, còn chúng sanh là thấp hèn, là
ô uế, là mê muội, chớ sao chúng sanh
lại có Phật tính. Câu đó chỉ trong
đạo Phật mới có chứ các đạo giáo
khác không làm sao mà có. Câu đó
được nói ra, được nhấn mạnh ở
trong Kinh Đại bát Niết-bàn. Cho nên Kinh
Đại bát Niết-bàn có ý nghĩa cao sâu
là vậy. Trước khi đi Tây vực, chính
ngài đã học nhiều kinh sách rồi, bởi
trước ngài, ngài sinh năm 1602, trước
ngài ở Trung quốc năm 1607 đã có ngài
Ma-đằng đến Trung Quốc dịch kinh Tứ
thập nhị chương. Từ đó trở về sau
trải qua 4, 5 thế kỷ có nhiều vị tăng
ở Ấn Độ và các nước khác đến
dịch kinh cũng nhiều rồi nên ngài cũng
đã học các kinh dịch đó, cả Tiểu
thừa, Đại thừa ở Trung Quốc.
"Hồi
đó là cuối đời Tỳ, đầu đời
Đường, trong nước loạn lạc. Khi đô
thành một ổ đạo tặc, mà miền Hồ nam
thành cái hang mãnh thú, đường phố
Lạc Dương đầy thây người.
Phải
lánh đi nơi khác, Huyền Trang bàn với
anh qua Thành Đô (Tứ Xuyên), ngụ chùa
Không Túc trong 2, 3 năm, tiếp tục học
hết kinh của các giáo phái.
Năm
20 tuổi, nội loạn đã chấm dứt, ông
về Trường An, kinh đô nhà Đường.
Trường An là đất Phật đầu tiên ở
Trung Hoa. Từ 5 thế kỷ trước, những vị
tu hành ở Ấn Độ qua cất chùa tại
đó và dịch những kinh tiểu thừa, Đại
thừa từ Phạn ngữ qua Hoa ngữ. Công
việc dịch thuật đó có thể chia làm hai
thời kỳ:
-
Từ Đông Hán đến Tây Tấn (khoảng 230
năm) dịch chưa có hệ thống gì cả.
-
Từ Đông Tấn đến đầu đời Đường
(khoảng 270 năm) đã thấy những dịch
phẩm có giá trị như bộ Pháp Hoa, bộ
Đại phẩm..., tuy có thú vị về văn
chương, nhưng chưa thật sát nghĩa. Dịch
giả đại biểu cho thời ấy là một
người Tây vực tên là Cưu-ma-la-thập.
Ở
Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết
những kinh đã dịch, tìm những Hòa
thượng có danh tiếng để học đạo,
nhưng ông nhận thấy rằng họ cũng thờ
đức Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của
họ khác nhau xa quá, có khi phản nhau
nữa. Có bao nhiêu tôn phái là có bấy
nhiêu chủ trương, làm cho ông hoang mang,
không nhận được đâu là đạo chính
truyền".
Bởi
vì khi đạo Phật truyền qua Trung Hoa rồi
thì có ngài cũng nghiên cứu và trong
quá trình nghiên cứu cũng có sự hiểu
biết riêng của mình. Chính vì thế nên
nhận định cũng khác nhau, nên mới lập
ra các tông phái, hệ phái như Tịnh Độ
tông, Luật tông, Pháp tướng tông,
Chân ngôn tông, Cu xá, Duy thức... mỗi
tông phái đều có kiến giải riêng. Vị
này hiểu câu Kinh Phật như thế này nên
chủ xướng ra như thế này, vị khác
hiểu như thế kia nên xướng ra như thế
kia, cho nên khi đọc, ngài thấy như vị
này nói vầy, vị khác nói khác, có vẻ
hoang mang không biết đâu là chánh đạo.
"Bất
mãn, ông xin phép anh đi học đạo ở
khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên
Đông (đông đô tỉnh Tứ Xuyên), qua Hồ
Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng
tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi
vấn, đã không tin được các vị Hòa
thượng mà ngay trong những bản dịch kinh
Phật ông cũng thấy nhiều chỗ lờ mờ
mâu thuẫn, hoặc dịch sai. Vậy muốn hiểu
rõ đạo thì chỉ còn một cách là đến
nơi phát tích của đạo Phật, tức Ấn
Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên
cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất.
Ý "Tây du" của ông phát sinh
từ đó."
Từ
đó chúng ta biết rằng, ngài cố tìm
cách đi tìm học đạo ở Ấn Độ.
Trước khi qua Ấn Độ, ngài đã cố
công đi tìm các vị Hòa thượng,
trưởng lão về các bộ kinh còn lại.
Nhưng các Hòa thượng đôi khi trả lời
không đồng nhất, thậm chí có khi mâu
thuẫn nhau. Trong các kinh được dịch có
nhiều chỗ tối nghĩa, có đoạn dịch sai
nên Ngài quyết chí phải tìm đến tận
gốc - nơi sản sinh Phật giáo để tìm
hiểu cho tận ngọn ngành. Ngài tin rằng
đó là sự cầu học một cách chắc
chắn từ nơi gốc thì mới bảo đảm
hơn. Từ tấm gương cầu học tận gốc
của Ngài, thiết nghĩ chúng ta cũng nên
học tập như Ngài vậy.
Ngày
nay, các Phật tử khi đọc các kinh sách
của các Thiền sư, thức giả trước
tác dịch thuật bằng tiếng Việt, đó là
điều quí. Nhưng quí hơn là phải đi vào
các văn bản gốc của các kinh đã
được in ấn, để từ đó chúng ta
đối chiếu các bản dịch hay trước tác
ấy đúng tới mức nào. Khi đọc kinh
sách Phật giáo, các Phật tử cũng
phải có nhận thức vững vàng về giáo
lý, điều nào sai chưa đúng lắm thì có
thể tìm hiểu nơi các vị đã hiểu biết
để tránh sự thắc mắc, hoặc giả là
nên cầu học nơi các vị đã có trình
độ Phật học vững vàng thì chắc chắn
các Phật tử sẽ nhận ra được chỗ
đúng sai trong các kinh sách Phật học
đã được trước tác in ấn trước
đó. Các Phật tử nên trầm tĩnh suy tư
về giáo lý của đức Phật, đừng vội
phê phán. Dĩ nhiên, phải thận trọng
trong khi đọc là tốt nhất, đừng
tưởng rằng sách nào viết về Phật
cũng đúng và tin theo hết.
Đó
là thái độ cẩn trọng, trọng Pháp,
nên ngài Huyền Trang mới có tinh thần
đi tìm học từ bản gốc ở Ấn Độ là
vậy. Đó cũng là cách giải đáp
những nghi vấn, thắc mắc mà bấy lâu
nay ngài đang phân vân không biết đâu
là đúng đâu là sai, và nếu đúng thì
đúng tới mức nào, nên Ngài quyết
chí đi cầu pháp ở Tây phương là vậy.
"Năm
Trinh Quán nguyên niên, năm đầu triều
vua Đường Thái Tôn (62 sau Công
nguyên)."
Có
nhiều thuyết nói năm Trinh quán nguyên
niên, có năm Trinh quán nhị niên, có
năm Trinh quán tam niên, xê xích trong một
hai năm.
"Huyền
Trang cùng với vài vị Hòa thượng nữa
dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn du
học. Truyện Tây Du Ký chép rằng
Đường Thái Tôn sai Tam Tạng [*] đi thỉnh
kinh, lại cho làm ngự đệ, cho lấy họ
nhà Đường, có lẽ để nịnh triều
đình mà quy công cho nhà vua, chứ sự
thật thì khác hẳn; vua Thái Tôn không
cho phép, vì nước mới được bình trị,
vương quyền chưa được vững, mà sự
ngoại giao với các dân tộc ở phía
Tây, tại Trung bộ Á Châu lại chưa
được tốt đẹp".
[*]
Xem lại trang Tam Tạng vốn có nghĩa là ba
kho kinh Phật: Kinh tạng, Luật lạng, Luận
tạng; đây chỉ pháp danh Huyền Trang.
Theo
truyền thuyết, có nhiều người nói như
trong truyện Tây Du, Ngài Huyền Trang đi
thỉnh kinh là do lịnh của vua Đường Thái
Tông. Nếu nói như vậy thì sai lầm,
không những không sai đi mà cấm không
cho đi nữa là khác. Bởi vì lúc đó
vua Đường mới dành được ngôi nơi
triều nhà Tùy, cho nên việc bình địch
trong nước chưa yên. Sự giao dịch với
bên ngoài vua đều cấm hết. Nội bất
xuất ngoại bất nhập. Ngài Huyền Trang
tự tìm trốn đi chứ không phải vua sai
đi.
"Đợi
mãi không được phép, các vị Hòa
thượng cùng dâng biểu với ông ngã
lòng bỏ đi. Ông kiên nhẫn ở lại
Trường An, học hết tiếng Ấn Độ. Đêm
ngày ông cầu nguyện các vị Bồ-tát cho
ông đủ sáng suốt và nghị lực thực
hành nổi chương trình tây du của ông,
mà ông biết là rất khó khăn, phải qua
nhiều nơi hiểm trở, hoang vu, trộm
cướp."
Đơn
phát 627 mà đến 629 cũng chưa có.
"Một
đêm năm 629, ông nằm mộng thấy một
ngọn linh sơn ở giữa biển, bèn nhảy
xuống nước để lội qua thì vừa lúc
đó, một bông sen xuất hiện, đỡ ông,
đưa ông tới chân núi. Núi dựng
đứng, leo không được, ông chưa biết
tính sao thì một ngọn cuồng phong bí mật
nâng bổng ông lên tới ngọn núi.
Đứng trên núi nhìn chung quanh thấy cảnh
bao la, rực rỡ. Ông thích quá, tỉnh
dậy."
Vì
sự thành tâm cầu nguyện rất chí thành
cao độ và rất chính đáng, cho nên có
sự cảm ứng là ngài nằm mộng thấy
một ngọn linh sơn ở giữa biển. Sướng
quá ngài nhảy ào xuống chứ không
biết có lội được hay không! Trong khi
nhảy như vậy có một bông sen đỡ lên
đưa đến chân núi thì núi quá cao
không biết làm sao mà leo. Khi ấy có
một ngọn gió cuồng phong nâng lên chóp
núi. Khi đứng trên chóp núi nhìn tứ
bề chung quanh mênh mông bát ngát không
có gì. Ngài rất sung sướng và tưởng
tượng rằng việc đi thỉnh Kinh của mình
đã có cảm ứng.
"Từ
đó ông càng quyết tin rằng thế nào
cũng thành công và chính lòng quyết
tín, mộ đạo đó đã giúp ông thắng
mọi gian nan sau này. Ít bữa sau, nhân
miền chung quanh Trường An bị nạn mưa đá
mất mùa, triều đình xuống chiếu cho
phép dân ở kinh đô được đi nơi
khác làm ăn, ông theo nhóm người di
cư, tiến về phương Tây, mở đầu cuộc
du hành vạn lý.
Năm
đó (629), ông 28 tuổi (tính theo phương
Đông), đến năm 44 tuổi mới trở về,
tính ra xa quê luôn trong 16 năm.
Tuổi
đó là tuổi hăng hái, tin tưởng, mà
bẩm tính ông lại nghiêm cẩn, ôn hòa,
nên ông rất được nhiều người mến
trọng. "Nước da hơi sạm, mắt sáng.
Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi sáng
rực rỡ. Giọng nói trong trẻo, rõ
ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du
dương, ai nghe cũng mê..." Nhìn ông,
người ta nhận ngay thấy sự dung hòa
của đạo Phật và đạo Khổng - lòng
từ bi, đại độ của đạo Phật, đức
lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông
vừa thương người, vừa cương quyết,
trang nghiêm như đại giang, mà lại bình
tĩnh, rực rỡ như bông sen nổi trên
mặt nước".
Ngài
không những thông minh mà rất đẹp.
Tánh tình rất nghiêm cẩn mà lại hòa
nhã, khiêm tốn. Đó là điều rất
hiếm. Thường thường người thông minh
thì hay kiêu ngạo, kiêu căng khó khiêm
tốn, nhu hòa. Người thông minh thì hay
cãi. Nhưng ở ngài không có chuyện
đó, đó là đức tính của một con
người toàn diện đạo đức, thông minh,
cần cù, nghiêm cẩn, nhu hòa, nhẫn
nhục... đều có nơi Ngài.
"Ta
sẽ chia cuộc hành trình của ông làm 4
giai đoạn:
-
Từ Trường An tới Ngọc Môn Quan, hết
địa phận Trung Quốc.
-
Từ Ngọc Môn Quan tới Kapica biên giới
địa phận Ấn Độ, qua những nước nhỏ
ở Trung bộ Châu Á.
-
Giai đoạn ở Ấn Độ.
-
Giai đoạn trên đường về; như độc
giả sẽ thấy, do một tình cờ mà lúc
về, ông theo một đường khác với lúc
đi, thành thử ghi chép thêm được
nhiều nhận xét về một miền lúc đó
còn bí mật.
Từ
Trường An ông tới Tân Châu (coi trên
bản đồ), Lan Châu, rồi Lương Châu
(hiện là huyện Vũ Uy, Tỉnh Cam Túc) -
tức Hà Tây, cửa ngõ của huyện Vũ
Uy, Trương Dịch, Đôn Hoàng, Tửu Tuyền).
Chắc
độc giả đã quen với tên đó. Vương
Chi Hoán, một thi sĩ thời Thịnh Đường,
được người đương thời tặng cho tên
Thi Thiên Tử nhờ bài Lương Châu từ
tả cảnh rừng núi hoang vu ở miền biên
ải đó:
"...
Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian,
Nhất phiến cỏ thành vạn nhẫn san..."
Tạm
dịch:
Hoàng
Hà treo ngọn giữa mây xanh,
Vạn bậc non cao, một mãnh thành
Ngay
từ đời Đường, mà có lẽ từ
trước nữa, Lương Châu đã là ngã ba
của các con đường mòn đưa những
đoàn thương nhân từ phương Tây hoặc
từ Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các
thương nhân đó gồm rất nhiều giống
người, ngôn ngữ, phong tục khác nhau,
họp chợ ở Lương Châu để trao đổi
hàng hóa, tin tức và chắc chắn cũng
để do thám cho sự canh phòng rất nghiêm
mật. Đô đốc Lý Đại Lượng được
lệnh phong tỏa, không cho người ngoài
vô Trung Quốc và người Trung Quốc lọt
ra ngoài. Huyền Trang phải nấn ná chờ
cơ hội, nhân dịp đó ông thuyết pháp
cho các thương nhân, người ta tạ ơn
ông vật gì thì ông đem cúng vào chùa
hết."
Nhân
lúc tụ tập Ngài thuyết pháp cho các
thương nhân, khi được cúng dường,
Ngài lại cúng cho chùa hết.
"Hơn
một tháng sau nhân lúc lính canh trễ
nải, ông trốn thoát, Lý Đại Lượng
sai vệ binh đuổi bắt; nhờ Pháp sư Tuệ
Uy phái hai môn đệ là Tuệ Lâm và
Đạo Chỉnh đi theo bảo hộ. Huyền Trang
mới thoát được. Họ đêm đi, ngày
trốn, lần mò đến Qua Châu (hiện là
huyện Tây An, tỉnh Cam Túc).
Thứ
sử Qua Châu là Độc Cô Khai theo đạo
Phật, tuy biết lệnh của triều đình,
nhưng làm lơ cho ông, lại chỉ dẫn
đường đi cho ông nữa. Từ Qua Châu,
tiến lên phía Bắc ít chục dặm tới
Ngọc Môn Quan (lúc Đường sơ, thì Ngọc
Môn Quan tương đương như huyện Yên Tây
ngày nay), một cửa ải nằm trên biên
giới và ở bờ sông Hồ Lô (nay là
sông Sớ Lặc), nước chảy xiết, gió
lộng suốt ngày đêm vì lòng sông rất
lạ lùng: Trên hẹp, dưới rộng.
Cảnh
ở đây thật là rợn tóc du khách.
Một thế kỷ sau, nhà Đường đã bình
phục những dân tộc ở phía Tây, vậy
mà các thi sĩ triều Minh Hoàng, chỉ nghĩ
tới miền biên tái hoang vu, hiểm trở
này cũng nổi lên những giọng ai oán,
mà thương cho những chinh phu phải đi thú
ở nơi đó, và cho những người vợ
trẻ của họ ở nhà đăm đăm trông
chồng:
QUAN
SƠN NGUYỆT - Lý Bạch
Minh
nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian,
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn Quan,
Hán há Bạch đăng đạo,
Hồ khuy Thanh hải loan,
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan,
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
Tản
Đà dịch:
Vừng
trăng ra núi Thiên San [1]
Mênh mang nước bể mây ngàn đang soi
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn
[2]
Bạch - đăng quân Hán đóng đồn,
Vùng kia Thanh hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà,
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đến nay than thở ắt là chưa nguôi.
[1]
Cũng có tên là Tuyết San, ở Tân
Cương, nơi đó tháng năm mà vẫn còn
tuyết phủ tuyệt nhiên không có hoa cỏ:
Ngũ nguyệt Thiên sơn tuyết, vô hoa chỉ
hữu hàn. (Tái hạ khúc Lý Bạch)
[2]
Tức Ngọc Môn Quan
"Qua
sông Hồ Lô, ra khỏi Ngọc Môn Quan rồi,
lại phải tránh 5 tòa phong hỏa đài báo
hiệu bằng cách đốt lửa lên khi có
giặc tới để cho người canh ngọn đài
kế đó trông thấy cũng đốt lửa lên,
như vậy truyền tin lần lần cho Ngọc Môn
Quan."
Ngoài
Trung Quốc ra còn đặt 5 phong hỏa đài.
Lúc đó họ báo tin bằng cách đốt
lửa lên, đài thứ 2, 3, 4 đốt lửa
lên tức tin tới Ngọc Môn Quan. Tới
nơi cửa ải sẽ đề phòng.
"Mỗi
đài cách nhau khoảng trăm dặm (mỗi dặm
khoảng 600 thước tây) và đều có lính
canh, đài xây giữa một vùng hoang vu,
thành thử ai muốn kiếm thức ăn,
nước uống phải đến chân phong hỏa
đài, mà sẽ bị giam cầm, tra hỏi."
Đài
canh như vậy mà chỉ có tới chân đài
mới có nước mà thôi. Tới phong hỏa
dài thì bị chận lại.
"Thấy
đường đi khó khăn, Huyền Trang lo lắng.
Ngựa ông bị bịnh, mới chết. Hai người
mà pháp sư Tuệ Uy cho theo ông thì một
người sợ lệnh triều đình truy nã,
đòi lộn về; còn một người ốm yếu
quá, không sao chịu nỗi gian lao trên
đường, ông cũng cho về nốt, thế là
ông lại cô độc. Ông mua một con ngựa
khác, sửa soạn lên đường thì một
người trong miền, tên là Thạch Bàn
Đà xin theo làm đồ đệ".
Thạch-bàn-đà
là một người Hồ (người Trung Á) xin
quy y thọ giới với ngài. Ông này biết
đường nên xin dẫn đường đi.
"Đêm
đó hai thầy trò khởi hành, gặp một
ông già. Nghe Huyền Trang kể mục đích
thỉnh kinh, ông già thán phục, nhưng
khuyên: "Thầy nên trở về đi, không
tới nơi được đâu vì đường về
phương Tây nguy hiểm lắm; nếu gặp
những đám cát di động hoặc những cơn
gió lửa thì không thể nào thoát
được. Đã nhiều đoàn thương nhân bỏ
mạng trên đường rồi".
Ông
không nghe, cứ tiến, đốn cây ngô
đồng bắc cầu qua sông Hồ Lô. Qua bờ
bên kia sông, mệt quá ông chợp mắt
được một lúc thì thấy người đưa
đường tên Tiếu Hồ nằm cách xa ông
khoảng trăm bước, rút kiếm ra, rón
rén tiến lại khi cách ông độ mươi
bước thì ngừng lại, ra vẻ do dự một
chút rồi trở lui".
Ông
già Hồ đi thì đêm đó ông dắt ra một
Tiếu Hồ khác giới thiệu với ngài.
Ngài Huyền Trang cho ông trở lui. Khi qua
một chỗ rộng mệt quá chợp mắt thì
thấy Tiếu Hồ đứng dậy cầm gươm đi
rón rén lần đến bên ngài rồi do dự
rút lui.
"Gần
sáng, tỉnh dậy, ông không nhắc gì đến
việc ban đêm cả, lẳng lặng bảo hắn đi
lấy nước. Hắn miễn cưỡng vâng lời,
nhưng một lát sau thưa: "Con đường
này dài và nguy hiểm. Ở chân phong hỏa
đài thứ năm mới có nước, muốn
kiếm nước thì phải lẻn tới ban đêm,
bị chúng bắn chết mất. Thầy trò mình
trở về thôi". Ông vẫn không nghe
cứ tiến tới. Thình lình hắn rút gươm
ra, bắt ông đi trước. Ông không chịu,
thấy ông can đảm, bình tĩnh lạ thường,
hắn không dám hạ thủ, bỏ ông trốn
mất".
Mới
1 bước đầu mà thấy nguy hiểm như vậy.
Vì sao hắn làm dữ như vậy? là hắn
khuyên ông trở lại không được thì
phản làm sao? Để đi một mình thì lộ ra,
nếu bị bắt thì khai báo ra thì hắn sẽ
bị tai họa lây, cho nên hắn cố làm là
khuyên ông trở về, thứ hai phải giết
ông đi. Cả hai đều không được cho
nên phải bỏ trốn.
"Ông
lại thui thủi một mình trên sa mạc. Gần
tới phong hỏa đài thứ nhất, ông nấp
trong lòng một con kinh khô, đợi đến
tối mới mò ra, kiếm nước uống. Đúng
lúc ông múc nước, hai mũi tên bay vèo
bên tai ông, ông la lên: "Tôi là
Hòa thượng ở Trường An đây, đừng
bắn nữa", rồi ông lại nạp mình cho
lính. Người chỉ huy đài đó là hiệu
úy Vương Tường, một tín đồ đạo
Phật".
Điều
đó chứng tỏ rằng lúc đó đạo Phật
đang lan truyền rộng ở Trung Hoa cho nên
ông Hiệu Úy ở đây cũng theo đạo
Phật. Vương Tường khuyên ông đừng đi
nữa, ông cũng không nghe, nói: "Bần
tăng đau lòng thấy rằng kinh Phật thiếu
sót mà mỗi người hiểu một lối không
biết đâu là đạo chân truyền, nên
đã nguyện qua Ấn Độ học đạo. Nếu
hiệu úy ngăn cản bần tăng thì giết
bần tăng đi, chứ nhất định bần tăng
không chịu trở gót đâu".
Thấy
lòng cương quyết đó, Vương Tường
đành để ông đi, sau khi tặng ông ít
vật thực và viết thư giới thiệu với
người chỉ huy đài thứ nhì. Riêng đài
thứ năm thì họ Vương khuyên ông nên
tránh, vì viên chỉ huy không theo đạo
Phật, mà tính tình hung bạo.
Ông
nghe lời, qua khỏi đài thứ tư rồi đi
về hướng Tây, tiến vào sa mạc Hạ
Diên Tích (tức sa mạc Qua-Bích, Gobi) và
từ đây ông rời xứ sở của tổ
tiên, không biết bao giờ mới trở lại
nữa.
Nhìn
lại một lần cuối cùng phong hỏa đài
thứ tư, ông bùi ngùi, rồi buông cương
cho ngựa bước tới.
Đường
qua sa mạc dài 800 dặm, tức non 500 cây
số, có tên là Sa Hà (con sông cát).
Người xưa đã tả sa mạc đó như vầy:
"Không có loài cầm, không có loài
thú, chẳng có nước mà cũng chẳng có
cỏ. Muốn tìm phương hướng thì các bộ
hành phải nhận bóng của mình và tụng
kinh Phật".
Huyền
Trang chắc đã làm đúng theo câu đó.
Các nhà thám hiểm như Christophe Colomb,
Magellan vượt đại dương, tuy gặp những
cảnh giông tố, hoặc đói khát nhưng
còn có bầu bạn, thủy thủ. Ngay như Alain
Gerbault, tuy một mình lênh đênh trên một
chiếc thuyền buồm đi vòng quanh thế
giới, nhưng cũng không đến nỗi cô
độc vì còn tin tưởng thế giới theo
dõi hành trình của mình mà tới hải
cảng nào cũng có người chờ đón
để hoan hô. Còn Huyền Trang thì thui thủi
trong sa mạc mênh mông, ngày chỉ có ánh
nắng gay gắt của mặt trời, đêm chỉ
có ánh sáng mờ mờ của các vì sao,
cảnh cô độc thật ghê gớm mà đức
mạo hiểm của ông cổ kim chưa ai bì
kịp".
Sa
mạc Gobi này rộng mênh mông, khoảng 800
dặm Anh. Năm trước có chuyến đi Mông
Cổ tôi đã có dịp tới nơi đó. Họ
làm một số nhà cho khách du lịch đến
đó ở lại đôi ba ngày để nhìn cảnh
sa mạc và tận hưởng không khí trong
lành ở đây. Tôi đến đó được hai
đêm. Hôm đó họ đưa chúng tôi đến
thăm một trại nuôi lạc đà. Ngồi trên
xe hơi anh lái xe tìm con đường đi mau
nhất để tới nơi sở nuôi lạc đà,
nhưng anh cũng bị lạc. Khi tìm được
đường anh trở lại chỗ xuất phát
cũng mất cả hàng giờ. Giữa sa mạc
Gobi nhìn ra toàn là cỏ lúp xúp, núi
đá và chân trời mà thôi.
Mênh
mông quá, đi một mình giữa sa mạc,
khiếp quá! Ông Nguyễn Hiến Lê có cái
hay là đem so sánh ngài Huyền Trang với
các nhà thám hiểm khác. Các nhà thám
hiểm khác mặc dù đi trên biển mênh
mông một mình nhưng mà hai bên bờ có
người chầu chực họ, theo dõi họ,
tiếp tế nước cho họ khi họ đến nơi.
Chứ Ngài Huyền Trang đi không ai đưa,
đến không ai đón, đi thì đi lén, may
mắn lắm trên đường đi nếu gặp bạn
bè họ giúp cho một đoạn đường mà
thôi. Trước mắt không biết ai là
người đón vì ai biết ngài là Huyền
Trang đâu? Khi so sánh như vậy, Nguyễn
Hiến Lê đã cho thấy sự kỳ vĩ của
ngài Huyền Trang hơn các nhà thám hiểm
trước trên thế gian.
"Ông
tìm suối nước mà không thấy, chỉ thấy
những đội binh mã nhung phục bằng nỉ
và da thú, cưỡi lạc đà, giáo mác
sáng ngời ẩn rồi hiện, tới rồi lui,
biến đổi kỳ dị ở chân trời. Ông
thúc ngựa lại gần thì mọi vật biến
đâu mất hết. Thì ra đó chỉ là ảo
ảnh trong sa mạc."
Ảo
ảnh thật khiếp, thấy một đội binh
trước mắt, nếu không cương quyết thì
ngài đã đi lui rồi. Nếu cương quyết đi
tới thì toàn là ảo ảnh.
"Khát
quá ông lấy bầu nước ra, nhưng tay ông
lóng cóng mà bầu nặng, rớt xuống cát
nước chảy ra hết. Chán nản ông quay
trở về phía Trung Hoa".
Khát
như vậy, mệt như vậy mà còn một chút
nước, đến khi cầm bầu nước ra thì
nước cũng giọt rơi ra ngoài mất. Trong
cách nói, trong bầu chỉ còn 1 giọt
nước hy vọng nước từ giọt ra vào
trong miệng mình thì gió nó bay tạt đi
mất. Lúc đó là lúc ngài chán nản
nhất muốn trở về Trung Hoa.
"Chỉ
có lúc đó là ông nghi ngờ. Nhưng sau
khi đi được 10 cây số ông lại nghĩ:
"Hồi đầu ta đã thề là không tới
Tây Trúc thì không khi nào trở về quê
hương. Thà đi về phương Tây mà chết
còn hơn là trở về hướng Đông mà
sống". Rồi ông thúc ngựa, hướng
về Tây Bắc mà đi.
Cát
bụi mù mịt, chạm vào da thịt chỗ nào
thì muốn cháy chỗ đó. Ông khát quá,
lưỡi sưng, môi nứt, mắt mờ, sức
kiệt không tiến được nữa. Đã năm
ngày và bốn đêm rồi không có một
giọt nước thấm môi. Ông té xỉu trên
cát, nhưng chưa đến nỗi mê man, còn
hăng hái tụng kinh niệm Phật, tới nửa
đêm thứ năm thì một cơn gió mát
thổi qua, cơ thể tỉnh táo lại như mới
được tắm xong. Ông vỗ về con ngựa,
nó đứng dậy, hí hí mấy tiếng nhỏ
rồi đi. Được khoảng sáu cây số thì
tự nhiên nó đổi hướng, không làm
sao bắt nó theo hướng cũ được nữa.
Ông ngạc nhiên nhưng nghĩ nên để cho
nó theo bản năng của nó, vì chắc có
gì lạ đây. Quả nhiên, đi được một
quảng đường nữa thì ông mừng quýnh:
một đám cỏ xanh hiện ra ở trước
mặt. Vậy ngựa đã biết đánh hơi cỏ
từ xa. Bên đám cỏ là một đầm
nước trong sáng như gương. Nghỉ ngơi cho
hết mệt ông cắt cỏ cho ngựa và múc
đầy bầu nước rồi tiếp tục hành
trình.
Hai
hôm sau ông tới nước I Ngô (nay ở
phía nam Cáp Mật tỉnh Tân Cương). Ông
đã vượt quảng đường khó khăn
nhất, tính ra mất 8, 9 ngày mới qua
được sa mạc.
I
Ngô là một ốc đảo, xưa có quân đội
Trung Hoa đóng, nhưng lúc đó thành một
thuộc địa của Thổ. Huyền Trang ngừng
bước trong một ngôi chùa và gặp ba vị
Hòa thượng Trung Hoa. Họ mừng mừng
tủi tủi chạy ra tiếp đón ông, ôm ông
mà khóc, không ngờ tha phương còn gặp
được người cố quận.
Vua
nước Cao Xương (nay thành Nhã Nhĩ phụ
cận hồ Nhã Nhị ở phía Tây Thố lỗ
phồn tỉnh Tân Cương) ở phía Tây I Ngô,
nghe tin ông tới, sai sứ lại đón. Ông
nhận lời đương đêm tới nơi thì vua
Cao Xương là Khúc văn Thái sai đốt
đuốc rồi thân hành ra khỏi hoàng cung
để nghinh tiếp, còn Vương Phi và đại
thần thì quỳ lạy. Khúc văn Thái rất
mộ đạo nhưng tính tình vẫn là tính tình
hung hãn của một dân tộc kém thông
minh. Ông ta tiếp Huyền Trang rất long
trọng, tôn kính như trò tôn kính thầy,
nhưng nhất định năn nỉ Huyền Trang ở
lại làm chức giáo chủ trong nước,
năn nỉ không được thì dọa nạt. Huyền
Trang dùng lời tha thiết để chối từ
mà không được, phải cương quyết:
-
Bần tăng đến đây không vì danh vọng
mà chỉ vì muốn qua Tây Trúc nghiên cứu
kinh điển tại chỗ để hiểu rõ đạo
Phật rồi về nước giảng lại cho mọi
người. Bệ hạ không nên ngăn cản bần
tăng. Mà ngăn cản cũng không được.
Bệ hạ chỉ có thể giữ một nắm xương
tàn ở lại đây thôi, còn ý chí cùng
tinh thần của bần tăng thì không thể
giữ được.
Khúc
Văn Thái cũng không nghe, lại càng chìu
chuộng hơn trước, đích thân dọn cơm
đứng hầu. Huyền Trang phải dùng đến
chính sách tuyệt thực, ngồi ngay ngắn,
không nhúc nhích luôn ba ngày, không
uống một giọt nước. Qua ngày thứ tư,
Khúc văn Thái thấy hơi thở của ông
suy rồi, vừa tủi vừa sợ, quì xuống
xin lỗi ông, thề trước tượng Phật
là không dám ngăn cản ông nữa, nhưng
xin ông ở lại Cao Xương thêm một tháng
nữa để giảng đạo cho thần dân. Ông
nhận lời ăn uống trở lại.
Khúc
Văn Thái sai dựng một cái lều rộng
mênh mông che được 300 người. Mỗi
ngày, hoàng gia, các vị Hòa thượng và
các quan trong triều tới lều nghe Huyền
Trang giảng kinh.
Khi
Huyền Trang lên đường, Khúc tặng ông
đủ các đồ ngự hàn cùng vật dụng,
vàng bạc, gấm vóc, cùng với 30 con
ngựa và 25 người tùy tùng, đưa ông
24 bức thư giới thiệu với các quốc
vương ở trung bộ Á Châu, lại sai một
viên tướng đưa đường ông nữa.
Để
đáp ơn vua Cao Xương, ông dâng lên một
bức khải:
(...)
Nép thấy Đại vương bẫm thụ cái khí
thuần hòa của nhị nghi trời đất; rủ
áo làm vua, vỗ nuôi dân chúng, phía
đông ví bằng phong đại quốc, phía tây
yên vỗ tục bách nhung (...) Lại hay kính
hiền yêu sĩ, hiếu thiện lưu từ, thương
xót kẻ xa xôi đi lại, ân cần cho tiếp
đãi đến nơi, đã được vào hầu,
nhuần ơn càng hậu tiếp đãi chuyện
trò, phát dương pháp nghĩa. Lại được
nhờ ngài giáng kết làm nghĩa anh em,
dốc một tấm lòng yêu thuận. Và lại
được đưa thư cho hơn hai mươi phiên
cõi Tây vực, với sức ân cần, sai
bảo tiễn tống. Lại thương tôi Tây du
vò võ, đường tuyết lạnh lùng; bèn
xuống lời minh sắc, độ cho bốn chú
tiểu Sa di để làm người hầu hạ. Nào
là pháp nhục mũ bông, đệm cừu giầy
miệt, hơn năm mươi thứ và lỉnh lụa
vàng bạc tiền nong, để khiến cho sung
cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm.
Nép trong thẹn thùng sợ hãi, không
biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng
nước Giao Hà ví ơn kia chẳng ít kém;
cân hòn non Thông Lĩnh, đọ nghĩa nọ
còn nặng hơn.
"Sau
này xin bái yết chúng sư, bẫm vâng
chính pháp, đem về phiên dịch truyền bá
những điều chưa từng nghe. Phá tan cái
rừng rậm rạp của những kẻ tà kiến,
tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những
mối dị đoan (...). May ra cái công nhỏ
ấy, ngõ đáp lại cái ơn sâu kia. Nay
tiền đồ còn xa, không thể lưu ở lâu
được, ngày mai từ biệt, thảm thiết
bùi ngùi; không xiết đội ơn, can dâng
khải lên kính tạ". (Đông Châu dịch
- Nam phong số 142, tháng 9, 1929).
Ngày
khởi hành, cả triều đình, các tăng
lữ và bá tánh đưa ông ra tới cửa
thành Tây. Huyền Trang cảm tấm lòng của
nhà vua, hứa trên đường về sẽ ghé
Cao Xương ở lại ba năm, rồi bùi ngùi
lên ngựa. Nhưng sau này ông không giữ
được lời hứa vì lúc đó, bộ lạc
Khúc Văn Thái đã bị diệt vong (bởi
Đường Thái Tông).
Từ
đây danh tiếng của ông được mọi
người biết cuộc hành trình được dễ
dàng hơn trước nhiều, tới đâu cũng
được đón đưa long trọng. Khúc Văn
Thái đã có công lớn trong chuyến thỉnh
kinh của ông.
Qua
một miền rừng núi hiểm trở nổi
tiếng là có nhiều mỏ bạc, Huyền Trang
tới A Ki Ni (này là Yên Chi tỉnh Tân
Cương), một nơi nghỉ ngơi của các đoàn
thương nhân tá túc một đêm rồi tới
Khố Xa (tức nước Khất Chi, Tân Cương)
rồi tới Bạc Lục Ca (tức Ôn Túc, Tân
Cương). Miền này rất trù phú. Vì lúc
đó tuyết phủ đầy dẫy Thiên Sơn không
thể tiếp tục hành trình ngay được,
Ông phải ở lại đó hai tháng và có
dịp nhận xét, ghi chép phong tục cùng
văn minh của Khố Xa, lưu lại những tài
liệu rất quí cho các nhà khảo cổ sau
này; Vương quốc đó rộng khoảng ngàn
dặm từ Đông qua Tây và sáu trăm dặm
từ Nam chí Bắc. Chu vi kinh đô được 17,
18 dặm. Đất trồng kê đỏ, lúa mạch,
nho, lựu, lê, mận, đào. Có mỏ vàng,
đồng, sắt, chì, thiết. Khí hậu ấm áp,
dân thuần lương. Văn tự phỏng theo của
Ấn Độ. Âm nhạc tiến xa hơn các nước
láng giềng nhiều. Chính nhờ Khố Xa mà
đạo Phật truyền qua Trung Hoa. Vì nằm
trên đường chở lụa từ La Mã qua
Trung Hoa, nên Khố Xa buôn bán rất thịnh,
hạng phú gia bận những đồ gấm vóc
rực rỡ.
Tại
đó, ông gặp một nhà tu hành, học
thức uyên bác, là Mộc Xoa Cúc Đa, đã
qua Ấn Độ nghiên cứu kinh điển trên
hai chục năm. Nhờ sự gặp gỡ đó,
ông biết thêm được nhiều về đạo
Phật và Ấn Độ, nhưng đôi khi cuộc
thảo luận về Phật pháp có giọng hơi
gay gắt vì Mộc Xoa Cúc Đa theo Tiểu thừa
như hầu hết các Hòa thượng Trung bộ
Á Châu, còn ông thì thiên về Đại
thừa. Rốt cuộc, Mộc Xoa Cúc Đa phải
nhận rằng ngay tại Ấn Độ cũng có rất
ít học giả như ông.
Khi
tuyết bắt đầu tan, ông lại tiếp tục
hành trình, tới Ô Hắc Quốc rồi leo
núi Thông Lãnh cao 7.200 thước trong dãy
Thiên Sơn. Ông tả núi đó rất kĩ:
"Nó rất nguy hiểm, ngọn đụng trời.
Từ hồi khai thiên lập địa, tuyết phủ,
đóng lại thành những đống băng quanh
năm không tan. Băng trải thành từng
lớp cứng và rực rỡ, liên tiếp
tới chân trời, lẫn với mây. Nhìn
vào chói mắt. (...). Leo trèo thực khó
khăn, nguy hiểm. Lại thêm lúc nào cũng
có thể có những cơn giông tuyết,
thành thử dưới giầy có hai lớp da,
dù mặc áo cừu cũng vẫn run lên cầm
cập. Muốn ăn hoặc ngủ thì không có
chỗ nào khô để nghỉ chân. Chỉ có
cách là treo nồi lên chỗ nào đó mà
nấu ăn và trải chiếu ra để nằm."
Cho
nên sau này như Hướng đạo treo nồi
lên cây mà nấu là bắt chước từ
đây, vì không có chỗ nào khô hết,
chỉ có treo nồi nơi cây, đó là cách
thức mấy người đi cắm trại bắt
chước. Chuyện đó phát nguyên từ
ngài Huyền Trang.
"Leo
núi đó, đoàn của Huyền Trang chết mất
hơn chục người vì đói lạnh (không kể
một số lớn bò và ngựa), chỉ còn
lại lơ thơ ít người.
Xuống
tới chân núi, ông theo một con sông
rồi tới Nhiệt Hồ (cũng gọi là Hồ
Tây Khắc). "Hồ này chu vi khoảng 1.000
dặm nằm dài từ Đông qua Tây, phía Nam
rộng và phía Bắc hẹp. Bốn bề là núi;
vô số sông chảy vào. Nước màu đen
phơn phớt xanh, vị mặn và chát". Hồ
không bao giờ đóng băng, khí hậu tương
đối ấm áp, nên các vua chúa trong miền
tới đó để trị hàn. Chính ở gần hồ
tại Tô Điệp Thành (nay là tỉnh Phục
Long là nước Cộng hòa Cát Nhĩ Cát Tư
thuộc Nga. Xưa thuộc Tây Độc Quyết), mà
Huyền Trang gặp Điệp Hộ Khắc Hàn của
xứ Đột Quyết.
Khắc
Hàn ở trong một cái lều thêu hoa bằng
vàng rực rỡ chói mắt, tuy là man rợ
mà có vẻ uy nghi đáng kính. Khắc Hàn
vốn là bà con của Khúc Văn Thái nên
tiếp đãi Huyền Trang long trọng, nghe ông
giảng kinh xong, ngưỡng mộ ông lắm,
muốn giữ lại "Bạch sư phụ, sư phụ
đừng nên qua Tây Trúc. Xứ đó nóng
lắm, đông cũng như hè. Tôi ngại rằng
sư phụ mới qua đó thì mặt mũi sẽ
chảy ra như sáp hết. Dân chúng thì đen
thui, đa số lõa lồ, không biết lễ nghi
gì cả, không đáng cho sư phụ tới
thăm".
Sở
dĩ ông này nói dân chúng Ấn Độ lõa
lồ, không phải dân chúng hoàn toàn
lõa lồ hết đâu, vì ở xa ông chỉ
biết một phần mà thôi. Bởi ở Ấn
Độ lúc đó có đạo Kỳ-na-giáo trong
đó có phái tu Lõa thể (họ ở trần
truồng). Ấn Độ bấy giờ cũng có số
đó. Thỉnh thoảng họ cũng đi ra đường
nhưng con số ấy rất ít. Chắc ông này
nghe phái đó nên nói là dân Ấn Độ
lõa lồ, chứ thật ra không phải ai cũng
lõa lồ hết, chỉ có một số ít theo
phái Lõa thể mà thôi.
"Ông
không nghe, Khắc Hàn phải để ông đi.
Ông tiến về phương Tây, tới nước
Xá Thời, qua một bãi sa mạc rộng
khoảng hai trăm rưỡi cây số, cát đỏ,
rồi đến nước Phong Mạc Kiện, một nơi
có thành lũy rất cổ, vì 9 thế kỷ
trước Huyền Trang, A Lịch Sơn Đại Đế
đã qua đó để vô Ấn Độ.
Nơi
đó, một ngã ba trên đường chở lụa
nên có vô số hàng hóa quí giá. Đất
cát lại phì nhiêu, trồng loại cây gì
cũng được. Dân tộc khác hẳn những
miền ông đã qua. Đây bắt đầu là khu
vực ảnh hưởng của Ba Tư, không chịu
ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Tuy còn
vài ngôi chùa nhưng đều hoang tàn vì vua
và dân không theo đạo Phật mà thờ
Thần lửa.
Nhà
vua tiếp Huyền Trang một cách khinh khỉnh,
nhưng sau khi nghe ông thuyết pháp tỏ ý
cảm động, che chở ông. Có lần dân
chúng cầm bó đuốc đánh đuổi ông,
nhà vua hay tin bắt họ, xử tội chặt
chân, chặt tay, ông xin giảm tội cho, và
sau đó dân chúng vừa kính vừa sợ,
xin theo đạo Phật rất đông. Năm sau,
nhà vua lại sai sứ qua Trung Hoa tỏ tinh
thần phục Đường Thái Tông. Lúc đó
Thái Tông mới biết công của ông đối
với triều đình.
Từ
Phong Mạc Kiện, Huyền Trang tiến về phía
Nam, khoảng ba bốn trăm dặm, tới Thiết
Môn Sơn, một nơi vô cùng hiểm trở,
rất lợi cho sử dụng võ. "Nó là
một con đường hẻm thuộc địa phận A
Phú Hãn, ngoằn nghèo ở dưới chân hai
rặng núi cao chót vót, dựng đứng lên
như hai bức tường đen, màu sắt, vì
núi có nhiều quặng sắt. Vô số ghềnh
thác nằm ngang đường. Ở đầu đường
là một cái cửa có hai cánh bằng sắt,
trên cửa treo những chuông sắt. Những
khi gió thổi vào, tiếng chuông vang động
lên như sấm, hòa với tiếng thác đổ
ào, mà trời lại u ám, thì thật là
cảnh địa ngục. Chỉ mười tên quân
giữ cửa ải đó là đủ ngăn cản
thiên binh vạn mã. Người Thổ nắm
được yếu điểm đó mà kiểm soát
hết giao thông và thương mại giữa Ấn
và Trung bộ Á Châu".
Qua
khỏi Thiết Môn Quan, đoàn hộ tống
Điệp Hồ Khắc Hàn từ giã trở về.
Ông một mình tiến về phía đông nam, qua
nhiều nước nhỏ rồi một hôm tình cờ
gặp một vị Hòa thượng trẻ tuổi xứ
Thổ Hỏa La tên là Tuệ Tánh tình nguyện
làm đồ đệ, đưa ông sang Ấn Độ. Hai
người vòng qua phía Tây Đại Tuyết Sơn,
đi trên hai ngàn dặm nữa thì vị Hòa
thượng được lệnh của vua Thổ Hòa La
phải từ biệt mà trở về Đại
Hạ".
Thế
là ngài đi một mình. Lúc đó Phật
giáo đã lan rộng nên tới chỗ nào
cũng có người theo đạo Phật hết. Các
xứ Trung Á phần nhiều theo đạo Phật.
"Miền
đó là miền Bactriane hồi xưa, thời
thượng cổ thuộc về Ba Tư, sau bị A Lịch
Sơn Đại Đế chiếm, chịu ảnh hưởng Hy
Lạp trong một thời gian, rồi chịu ảnh
hưởng của đạo Phật, có những chùa
Phật chứa 3.000 tăng đồ.
Đoạn
đường vòng Đại Tuyết Sơn khó đi
nhất. Mây như đặc lại, tuyết bay loạn
suốt ngày, không bao giờ thấy mặt
trời. Đường cheo leo không có chỗ nào
phẳng mà rộng được ba thước. Có khi
phải nằm rạp xuống bíu vào đá mà
nhích đi từng chút, có khi phải qua
những cầu kết bằng mây đong đưa ở
trên không, chỉ vô ý một chút là té
xuống vực thẳm thác đổ ào ào.
Từ
khi Tuệ Tánh trở gót, Huyền Trang lại
thui thủi một mình trong rừng rậm hoang vu,
leo đèo Shibar cao 3.000 thước tới Kapica
(thung lũng Kâbul), một miền phì nhiêu
phong phú; Dài 60 cây số và rộng 20 cây
số. Đó đã thuộc về Ấn, cho nên ông
gặp ở Kapica nhiều nhà tu hành Ấn, theo
thuyết khổ hạnh: ở trần truồng, ngồi
cầu nguyện trong rừng, chịu cảnh đói
lạnh.
Ông
nghĩ ở đó hết mùa hè, rồi đến
Lampaka, mà từ khí hậu cho đến người,
vật và phong tục đều khác các miền
trước. Dân thì vui vẻ, thích ca hát,
nhảy múa, tuy nhỏ mà nhanh nhẹn, bận áo
vải màu rực rỡ. Đúng là dân tộc
Ấn Độ. Khí hậu hơi nóng, cây cối um
tùm, và có nhiều khỉ. Ông qua sông Indus
tới Taxila, viếng nơi mà theo truyền
thuyết đức Phật trong một kiếp trước
đã thấy một con cọp cái đói, không
kiếm được mồi, để nuôi bảy cọp con,
bèn động lòng từ bi, từ trên cao
đâm đầu xuống gần cửa hang cọp tự
hủy thân để nuôi cọp, vì vậy mà
đất ở chung quanh đỏ như máu mà cây
cối cũng có sắc đỏ."
Trong
Phật giáo có một truyền thuyết đó là
chuyện tiền thân đức Phật, có lần
đã xả thân đi để nuôi cọp. Thấy
bầy cọp con 7 con nằm la liệt, cọp mẹ
không biết lấy gì cho con ăn cứ nằm
đó mà run, nên Ngài động lòng thương
leo lên cây nhảy xuống bên nó để thí
thân cho nó, do truyền thuyết như vậy
nên ở đó cây cối nó mọc lên sắc
đỏ.
"Taxila
thuộc về Kâcmir, một nước rất thuần
đạo, có hàng trăm chùa và 5.000 sư.
Chính nơi đó là đất pháp nguyên của
phái đại thừa. Nhà vua nghe Huyền Trang
cũng theo phái đó, nên rất kính trọng,
thân hành ra biên giới và thỉnh lên
ngồi một thớt tượng để cùng song song
vô kinh đô. Vì gặp được một pháp sư
bảy chục tuổi, Pháp sư Xứng Lão[*]
làu thông tam tạng, lại tìm được rất
nhiều kinh điển (cộng đến non một triệu
rưỡi), Huyền Trang ở lại Kâcmir 2 năm
(từ 631 - 633) để học đạo. Trò rất
kính thầy, và thầy rất mến trò, tương
đắc nhau lắm. Khi đã hiểu rõ kinh điển
rồi, Huyền Trang mới từ biệt nhà vua
và thầy học để đi thăm đất Phật.
Tính ra, ông xa quê đã bốn năm, trải
qua biết bao gian lao, nhưng đã gần tới
đích.
[*]
Tức Tăng Xứng, Ngài Huyền Trang học
với ngài Tăng Xứng các luận Cu Xá,
thuận Chánh lý, Nhơn minh, Thanh minh v.v...
Rời
Kâcmir tới Cakala, rồi lại đi được ít
ngày thì một hôm, qua một khu rừng rậm
ông cùng đoàn tùy tùng bị cướp lột
hết hành trang, phải trốn trong một cái
hang. Nhờ có một đám nông dân hay tin
lại cứu đưa tới một chùa Bà-la-môn
ở đó. Ông chủ chùa này tin theo đạo
Bà-la-môn mà cũng thích nghiên cứu
đạo Phật. Huyền Trang xin ở lại một
tháng để tìm hiểu thêm đạo
Bà-la-môn, rồi mới đi tới Jâlandhars.
Từ
đây cuộc du học của ông thích thú vô
cùng, tới đâu ông cũng gặp những di
tích của đạo Phật, tha hồ mà đọc kinh
điển mà thảo luận với các pháp sư,
và thỉnh giáo các vị tu hành uyên bác.
Ấn
Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí,
một phần vì địa thế, một phần vì tôn
giáo. Về địa thế, xứ đó gần như
cách biệt hẳn với các xứ chung quanh;
ba phía đông, tây và nam là biển, phía
bắc thì có dãy Hy Mã Lạp Sơn cao vòi
vọi, rất bất tiện cho sự giao thông;
về tôn giáo thì mới bắt đầu có hai
đạo chính, đạo Bà-la-môn và đạo
Phật, và một đạo nữa là đạo Hồi,
từ Ba Tư truyền vào; riêng hai đạo
Bà-la-môn và Phật có rất nhiều giáo
phái mà lý thuyết khác nhau xa. Đất đai
rộng mênh mông như một lục địa nhỏ,
chia ra hàng trăm nước, có nước nhỏ
chỉ bằng một phần trăm nước khác.
Vàng bạc châu báu rất nhiều, đền
chùa chỗ nào cũng có. Dân rất mê tín
mà chia làm nhiều giai cấp; bọn quí phái
mơ mộng trong cung điện hết đi săn thì
tưởng thanh sắc, bọn tu hành Bà-la-môn
chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất
được trọng, hạng thương nhân nhờ
giàu có mà cũng được nể, hạng nông
dân bị khinh bỉ gần như hạng nô lệ;
cuối cùng là hạng tiện dân bị các giai
cấp khác khinh tởm hơn là ta khinh tởm
người cùi, đến nỗi không ai dám lại
gần họ và cái bóng của họ chiếu vào
vật nào thì vật đó bị coi như dơ bẩn,
phải nép đi chứ không ai chịu mó vào
nữa.
Tóm
lại, từ văn minh đến phong tục, khác
hẳn Trung Hoa. Huyền Trang sống non 10 năm
ở đấy, có dịp đi khắp các nơi,
được trông thấy bao nhiêu điều lạ,
rồi bẩm sinh có óc nhận xét tinh tế,
ghi cả lại trong tập du ký, thành một
mớ tài liệu rất quí giá chẳng những
giúp người Trung Hoa thời đó mà còn
giúp cả những học giả thời nay hiểu
Ấn Độ nữa. Chính René Grosset, tác giả
cuốn "Sur les traces de Bouddha" cũng
phải thán phục tài nhận xét của ông,
coi ông vào hàng chân chính nhất thời
cổ".
Kâcmir
thuộc Kế Tân, một nước rất thuần
đạo, một nước lúc trước là cái
bàn đạp, đạo Phật từ đó làm nơi
xuất phát để truyền qua Trung Quốc. Khi
đạo Phật truyền lên Tây bắc Ấn,
Kâcmir là một nước hết sức thịnh
hành về Phật giáo.
"Từ
Jâlandhara, ông tiến xuống phía đông nam,
tới Mâthura, rồi qua phương đông tới
thượng lưu sông Gange (Hằng Hà). Ông
tả con sông đó y như một nhà khoa học:
"Gần nguồn, sông rộng ba dặm, mà
gần cửa biển rộng 10 dặm. Nước bình
thường thì trong xanh nhưng thường thay
màu mà mặt nước mênh mông. Rất
nhiều sinh vật kỳ dị sống trong sông,
phần nhiều không làm hại người. Vị
của nước ngọt và dễ chịu, cát mịn
vô cùng. Người bản xứ coi sông đó
là một vị thần, kẻ nào tắm nước
sông thì gội hết được tội, nếu uống
nước hay chỉ rửa miệng thôi cũng tiêu
tan được những khổ não, nếu chết
đuối trong sông thì được lên trời.
Lúc nào trên bờ cũng có vô số
người tụ họp đàn ông lẫn đàn
bà". Ông cho như vậy là dị
đoan."
Ở
Ấn Độ có 4 lối hỏa táng, tức 4 lối
chôn. Thủy táng: Chết rồi đem bỏ xuống
sông Hằng, họ tin rằng hồn sẽ lên
Thiên đàng, Thổ táng: Chôn cất như
Việt Nam. Hỏa táng: Tức đem thiêu lấy
cốt rải trên nước, núi, đồng ruộng,
đất đai hay giữ lại trong hũ kỷ niệm.
Và không táng: Là đem bỏ trên đồi
vắng cho chim và súc vật ăn. Đó là 4
cách táng. Tuy nhiên ở Ấn Độ hiện nay
có cách bỏ xuống nước sông Hằng là
cách phổ thông nhất.
"Tới
Kanauj, ông không được gặp vua Harsha
(Giới Nhật), một người rất mộ Phật,
mỗi năm thường họp tất cả các vị
pháp sư Ấn Độ tại kinh đô để tranh
biện về Đạo, lại mời vị nào đức
độ cao nhất, học thức sâu nhất lên
ngồi trên ngai vàng của mình mà thuyết
pháp.
Khi
ngồi thuyền xuôi sông Gange với hai chục
người nữa để tới Prayâga, ông gặp
một tai nạn kinh khủng. Thuyền qua một
khúc sông hai bên là rừng rậm. Một
bọn cướp bơi một chục chiếc thuyền ra
chận, lôi cả hành khách lên bờ. Bọn
họ thờ nữ thần Durgâ và mỗi năm
phải kiếm một người đàn ông đẹp
trai, lực lưỡng, giết để tế thần.
Thấy Huyền Trang chúng mừng quá vì
nước da ông trắng trẻo mà nét mặt
tươi nhã, thông minh, bàn với nhau sẽ
giết ông. Họ dắt ông tới sân đền,
rút gươm ra định hạ thủ, thấy ông vẫn
bình tĩnh, họ hơi ngạc nhiên. Ông xin
được tụng kinh trước khi chết, chúng
bằng lòng. Những người đồng hành
khóc lóc thảm thiết; còn ông thì càng
tụng kinh, mặt càng tươi tỉnh, sung
sướng không biết gì ở chung quanh cả.
Đột nhiên một cơn giông nổi lên,
thuyền nhồi lên nhồi xuống rồi chìm,
cây cối gãy răng rắc. Bọn cướp
hoảng sợ, tưởng là ông có phép
thần, quỳ xuống xin ông tha tội. Ông
mở mắt ra hỏi chúng đã đến giờ
chết chưa."
Cho
biết rằng khi nhập tâm định tĩnh rồi
thì như trong Kinh nói: Nếu một người
phát tâm trở về nguồn thì 10 phương
thế giới đều tan biến hết. Chính ngài
trong giờ phút này, 10 phương thế giới
đều tan biến, đối với ngài không có.
Cảnh rùng rợn xung quanh đó đến khi
nhập định thì không biết nên ngài mới
hỏi: Đã đến giờ chết chưa?
"Khi
hay chúng đã đổi ý ông cũng không
lộ nét vui. Vừa lúc đó gió ngớt.
Sau
Prayàga, ông lại thăm Kaucãmbi, rồi lên
phương bắc xứ Népal để viếng các
đất Thánh của đạo Phật.
Trước
sau ông đã làm lễ những nơi:
1.
Nước Gavastis (Xá Vệ) nơi mà xưa đức
Thích Ca trú ngụ và truyền đạo lâu
nhất.
2.
Nước Kapilavastu (Ca-tỳ-la-vệ) nơi ngài
chào đời (hiện là tỉnh Gorakhpur).
3.
Nước Kusinagara (Câu-thi-ma-kiệt-la) gần
Népal, nơi ngài tịch.
4.
Thánh Bénares (Ba-nại-la nơi ngài Thành
đạo).
5.
Nước Vaisali (Vệ-xá-l? hiện là tỉnh
Besarh, nơi mà ngài thích nghỉ chân trong
mùa mưa.
6.
Chùa Đề La Dà và gốc Bồ-đề.
Trong
cuộc hành hương đó, lòng ông rung
động, bồi hồi tưởng như lúc nào
cũng được nghe những bản nhạc du
dương. Đời hy sinh của đức Thích Ca
hiện lên, hồi này tiếp hồi khác, rực
rỡ, đủ từng chi tiết."
Khi
tới thăm cảnh giáng sinh của các thánh
tích của Phật thì Ngài tưởng tượng
như ngài thấy Phật, thấy Phật từng giai
đoạn một.
"Đây
là chỗ mà một bà dì của Ngài, cũng
là mẹ nuôi của Ngài nữa, xin Ngài cho
phụ nữ được qui y, sau dựng lên một
chùa Phật đầu tiên cho các ni cô ".
Tức
di tích của bà Ma-ha Bà-xà-ba-đề, di
mẫu của Phật xin đi xuất gia. Bà là
người xin Phật đi xuất gia đầu tiên
để làm một người nữ xuất gia, mà
từ trước ở Ấn Độ chưa có đạo
nào khác có và bà là người đầu
tiên xuất gia trong giáo pháp của Ngài.
Sự xuất gia của bà ban đầu xin Phật
không chấp nhận. Vì Phật sợ người
nữ vào hàng Tăng giới thì sẽ hỗn
độn nên ban đầu Ngài không chấp nhận.
Nhưng sau nhờ Tôn giả Anan xin đức Phật
nhiều lần Ngài mới chấp nhận. Khi chấp
nhận Ngài ra 8 điều kiện mà trong luật
gọi là Bát Kính Pháp. Một người nữ
xuất gia thọ giới rồi phải giữ Kính
Pháp nữa, tức 8 pháp phải cung kính
đối với Tăng. Đó là người nữ
xuất gia trong giáo pháp của Ngài vậy.
"Đây
là nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài. Ôi
cảnh vật tang thương. Cung điện xưa kia
ở đâu mà nay chỉ còn một vùng cỏ
úa dưới ánh tà dương! Kinh đô của
vua cha đã bị tàn phá đến nỗi không
còn nhận ra chu vi nữa. Cũng may di tích
còn lưu lại ít nhiều. Thổ dân còn chỉ
được chỗ mà Hoàng Tử đấu kiếm và
thắng được đối thủ, chỗ mà lần
đầu tiên Ngài thấy cảnh lão, bệnh,
tử; con đường mà Ngài theo cái đêm
bỏ cha mẹ vợ con, phú quý vinh hoa, rũ
sạch bụi trần để đi tìm đạo. Nhớ
lại những chuyện đó, Huyền Trang rưng
rưng nước mắt mà thấy sự hy sinh của
mình còn kém xa sự hy sinh của đức
Phật. Người ta dắt ông lại thăm một
cánh đồng, nơi mà Ngài sụt sùi thấy
nông phu bừa đất, nhổ cỏ và giết
những sâu và trứng sâu, đau lòng
tưởng như người thân của mình bị hại
vậy. Ôi! lòng nhân của Ngài mênh mông
như vũ trụ! Và ngôi chùa ở mép khu
rừng kia, phải là nơi Ngài cởi bỏ áo
đẹp, lấy gươm cắt tóc, đưa cho Xa Nặc,
bảo y trở về không? Kinh truyện còn
chép Xa Nặc khóc ròng và con ngựa của
Ngài cũng cảm động, liếm chân Ngài
trước khi từ biệt.
Đây
là chỗ Ngài tịch. Đã hơn 11 thế kỷ
rồi. Ngôi nhà của người thợ rèn
đã mời Ngài dùng bữa cơm cuối cùng
còn đó. Mà chỗ kia là nơi Ngài nằm
nghỉ, nơi người ta cất hỏa đàn để
thiêu Ngài.
Ở
Bénarès ông đi thăm Lộc viên, nơi
Ngài thuyết pháp lần đầu cho năm đệ
tử đầu tiên. Huyền Trang còn nghe văng
vẳng lời Ngài dạy:
"Hỡi
các Tỳ-kheo! Có hai thái cực mà ta
phải tránh, một cái là đời hoan lạc,
nó thấp hèn, phù phiếm; một là cái
đời khổ hạnh, nó thê thảm, xấu xa
và vô ích... Hỡi các Tỳ-kheo, đây là
chân lý về đau khổ:sanh, lão, bệnh,
tử, phải xa cách cái gì mình yêu, đó
là khổ. Và đây là nguồn gốc của
khổ: Lòng dục (...). Và đây là chân
lý về phép diệt khổ: Diệt được
lòng dục đó là diệt được khổ
".
Ông
ngừng lại lâu ở gốc Bồ-đề. Đây
mới là đất Thánh của đạo Phật, nơi
đức Thích Ca nhập định và giáo đạo.
Hiện nay gốc Bồ -đề cũ không còn,
nhưng lúc ông tới thì nó vẫn tươi
tốt: "Thân cây trắng vàng, lá xanh
và láng, mùa hè cũng như mùa đông
đều tươi tốt. Nhưng tới ngày lễ
Niết-bàn thì rụng hết một lượt rồi
hôm sau mọc ra mơn mởn. Ngày đó các
vị vua chúa lại tưới sữa vào gốc
cây, đốt đèn, trưng bông, lượm ít
lá rồi về". Sau này người ta xây
một bức tường gạch chung quanh và cất
một ngôi chùa ở gần cổng bắc vòng
thành.
Cạnh
gốc cây có một tượng Phật. Người ta
đồn có lời sấm rằng khi tượng đó
bị đất lấp kín thì đạo Phật thất
truyền ở Ấn Độ. Huyền Trang thấy
tượng đã bị vùi tới ngực, đoán
chỉ độ 200 năm sau thì bị vùi trọn. Lạ
lùng thay, tới thế kỷ thứ 9, đạo
Phật cực suy ở Ấn, trừ vài miền như
Magadha và Bengale, không còn mấy người
theo nữa.
Ông
quỳ ở gốc cây, than thở, cầu nguyện
rồi đi thăm cái hồ xưa của đức Thích
Ca hay lại tắm, giặt, trước khi lại
chùa Nâlandà (nước Magadha ) lưu học.
Ấn
Độ có hàng vạn ngôi chùa mà
Nâlandâ lớn nhất, đẹp nhất, cũng là
trường đại học cổ nhất. Gần như một
thành thị riêng biệt."
Trường
đại học cổ nhất ở Ấn, trước cả
các trường đại học Tây phương. Huyền
Trang đến là đầu thế kỷ thứ 7, cuối
thế kỷ thứ 6, khi ấy trên thế giới
chưa có mấy Đại học hết. Nalanda có
một trường Đại học là cao nhất,
chứa cả 3.000 Tăng. Người nào muốn
vào học phải qua một cuộc hạch hỏi
mới vô học được, cho biết rằng Phật
giáo thời đó rất thịnh hành. Chùa
dựng lên 700 năm mà ngài Huyền Trang
đến đó cuối thế kỷ 6, như vậy là
dựng lên trước cuối thế kỷ 1 trước
Tây lịch.
"Chung
quanh là một bức tường gạch, ở trong
có hàng chục ngôi chùa, vô số nhà
ở và phòng hội họp, phòng tụng kinh.
Đứng ở các hành lang nhìn ra: Nóc nhà
như "bay lên trên khói", "phong
vân nói ở chung quanh" mà "sen
xanh rực rỡ trên dòng nước trong".
Giọng văn ông khi tả cảnh đó bóng
bẩy như giọng thi sĩ Trường An.
Chùa
có một thư viện rất cổ và đầy đủ:
Kinh Đại thừa, Tiểu thừa, Phệ đà
(trên 150 bộ ), rồi sách thuốc, thiên
văn, địa lý, toán, kỹ thuật... luôn
luôn lúc nào cũng có mười ngàn tăng
lữ lại học thuyết Đại thừa. Kỷ
luật rất nghiêm, từ khi chùa dựng lên
tới lúc đó, trên 700 năm, chẳng
những thường dân mà các vua chúa
cũng kính trọng tinh thần của tăng lữ
trong chùa, chu cấp cho rất nhiều: mỗi
ngày 200 gia đình đem gạo, sữa, bơ, trái
cây lại cúng.
Vị
sư chủ trì là Giới Hiền pháp sư
(Cilabhadra), một nhà học giả uyên bác
nhất thời đó, năm ấy đã 106 tuổi
mà óc vẫn sáng suốt. Hay tin Huyền Trang
tới, pháp sư sai 200 tăng lữ và hàng
ngàn tín đồ cầm cờ phướn, dù, đem
hương hoa đi đón rước. Tới chùa,
Huyền Trang lại chào pháp sư; theo tục
trong miền, cũng quỳ gối, đập đầu vào
sàn, lạy, xin nhận làm môn đệ. Giới
Hiền pháp sư cảm động đến sa lệ:
"Ít tháng trước, ta đau nặng, chỉ
mong được mau giải thoát. Một đêm ta
nằm mộng thấy ba vị ra lệnh cho ta phải
sống để đợi một Hòa thượng Trung Hoa
tới mà truyền đạo cho. Bây giờ con
tới đây, hợp với mộng đó
lắm."
Ngài
Giới Hiền là Pháp chủ và 106 tuổi
thọ. Thân tứ đại đang hành hạ và
ngài muốn giải thoát nhưng đêm nằm
mộng thấy 3 vị thần nhân bảo là phải
đợi 1 vị sư Trung Hoa đến và truyền
đạo cho họ rồi mới giải thoát, thì
ngài Huyền Trang tới.
"Vì
quá già, từ lâu Giới Hiền pháp sư
không giảng kinh nữa, lần này mới
ráng giảng cho Huyền Trang bộ luận trọng
yếu nhất là bộ Du Già luận".
Du-dà
là luận Duy thức học, 100 cuốn.
"Ngày
khai giảng, tăng lữ và tín đồ các
miền chung quanh họp lại đông như ngày
hội. Huyền Trang học rất tiến tới, trong
số vạn sư đồ ở chùa, may lắm được
10 người theo nổi ông.
Ông
ở chùa 15 tháng (634 sau C.N) học hết bộ
Du Già luận và học thêm triết
Bà-la-môn và Phạn ngữ, soạn được
một cuốn ngữ pháp tiếng Phạn giản
lược mà rất đúng.
Ông
xin phép Giới Hiền pháp sư đi chu du Ấn
Độ để tìm hiểu thêm các giáo phái
khác, nhất là tình hình Phật giáo ở
mỗi nơi.
Ông
thăm xứ Bengale, xuống hải cảng
Tâmralipti, trên vịnh Bengale định đóng ghe
ra đảo Tích Lan, (trung tâm của phái Tiểu
thừa) nhưng có kẻ khuyên ông đừng đi
đường biển, vì sóng gió, ông bèn theo
đường bộ, men biển mà tiến xuống Tây
Nam, tới ngang đảo Tích Lan rồi sẽ đón
ghe, như vậy chỉ mất ba ngày biển.
Trên
đường, ông thăm xứ Odradeca, Kalinge,
Andhra, Pallava (ông tới đây năm 640).
Theo
René Grousset, Huyền Trang không qua đảo
Tích Lan vì trong đảo đương có nội loạn
và nạn đói, nhưng theo ông Trần Hà
trong bài Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh
kinh lịch sử (Bách Khoa số 57, 68 và 60)
thì Huyền Trang có vượt biển qua Tích
Lan, chưa rõ thuyết nào đúng.
Tới
cực Nam Ấn, ông theo bờ biển phía Tây,
mà lên tới gần ranh giới Ấn Độ - Ba
Tư, qua những xứ Mahârâshtra, Nasik,
Bharukacha. Nhận xét được điều gì ông
cũng ghi chép kỹ lưỡng. Mà những
nhận xét đó thường rất đúng, chẳng
tính tình cũng giống Mahratte ở nước
Mahârâshtra (Calukya), hồi ông đi qua ra
sao, thì bây giờ cũng vậy; bình dị, ngay
thẳng, nhưng tự ái và nóng tính, trọng
nghĩa và khinh chết hy sinh để báo ân
mà mạo hiểm để báo oán, và rất
đàng hoàng, báo trước cho kẻ thù
biết rồi mới ra tay.
Tướng
của họ mà bị cầm tù thì thà chịu
chết như không chịu cái nhục để kẻ
thắng bắt mình phải bận quần áo đàn
bà. Giống người đó là giống thượng
võ nhất ở Ấn Độ.
Những
ghi chép của ông về công việc dẫn
thủy nhập điền và những tơ lụa của
Ba Tư cũng rất đúng, mặc dù ông qua
xứ đó mà chỉ nghe người ta kể lại.
Đến
cực Tây Ấn Độ sau khi khảo sát phong
tục, tôn giáo, kinh điển trong các chùa
khắp nơi (có chỗ ông ở lại học đạo
1, 2 năm), ông băng qua trung bộ Ấn mà
qua phía đông, tới xứ Magadha và trở
lại chùa Nâlandâ. Lần này ông ôn
lại tất cả những điều đã học
được, rồi suy nghĩ để tìm chân lý.
Giới
Hiền pháp sư vẫn còn sống sai ông chủ
trì cuộc diễn giảng về Nhiếp đại
thừa luận. Ông Trần Hà, trong bài đã
dẫn, chép rằng:
"Bây
giờ nhà sư Tử Quang, cũng được xem
là đệ tử hữu danh của Giới Hiền
pháp sư, không phục sự chủ trì của
Huyền Trang..., nhưng khi Huyền Trang viết
3.000 câu tụng "Hội tông luận"
thì cả chùa Tăng chúng đều phục cả,
Giới Hiền pháp sư cũng khen nức nở.
Tử Quang thấy sự học của mình còn non
kém, xấu hổ bỏ chùa ra đi, hơn năm sau
mới trở lại.
"Cũng
lúc ấy, có một người Bà-la-môn viết
40 điều lý luận đem dán trước cửa
chùa Na-lan-đà, thách rằng: - Nếu ai bác
được điều của ta, ta sẽ tự cắt
đầu tạ lỗi.
Mấy
ngày sau, vẫn chưa ai dám biện bác.
Huyền Trang bèn thỉnh Giới Hiền pháp sư
đến chứng kiến để ông tranh luận
với người Bà-la-môn ấy. Rốt cuộc,
người Bà-la-môn đuối lý và yêu cầu
được làm theo lời hứa. Huyền Trang
đáp: - Hòa thượng không được sát
sanh.
Những
truyện đó không chắc đã đúng nhưng
có thể tin được. Một người đã
từng trải, học rộng, bẩm tính lại ôn
hòa, nhã nhặn như ông tất không hiếu
thắng; nhưng trong một xứ giáo phái lộn
xộn như Ấn Độ, lại được mục kích
những cuộc tranh biện rất thường giữa
các giáo phái, thì thế nào ông cũng
phải đưa ý kiến, có khi để hòa giải,
cũng có khi để vạch chỗ sai lầm. Ta
đã biết, ông cũng như đa số các Hòa
thượng uyên bác của Trung Hoa, thiên về
Đại thừa, ông đứng ra hòa giải các
tiểu phái trong giới theo Đại thừa ở
Ấn, bảo rằng cái hại là do người
trước chú thích kinh điển theo ý riêng
của mình, nhưng cái hại đó không lớn,
chẳng qua chỉ là đại đồng tiểu dị,
vậy ta nên bỏ tiểu dị mà theo đại
đồng cho khỏi xung đột nhau.
Đối
với Tiểu thừa, ông nghiêm khắc hơn.
Ông chỉ trích mạnh nhất là đạo
Bà-la-môn, và những giáo phái chủ
trương khổ hạnh, theo những tục kỳ
cục, dã man. Có bạn lấy tro cọ vào
người tới khi da trắng bệch ra cho như
vậy mới đắc đạo. Có kẻ không bận
quần áo, tóc lông đều nhổ hết, trần
như con nhộng. Có tinh thần Khổng học,
có óc lương tri, ông không chịu được
những xuẩn động đó. Ông bực mình
thấy những "tu sĩ" đeo vào cổ
một chuỗi mảnh sọ người, hoặc bận
những quần áo dính đủ các thứ dơ,
ăn những thịt thối để cho "tâm
hồn được giải thoát".
Vua
một nước láng giềng, nước Kamarùpa
(vua Cưu-ma-la nước Ca-ma-lâu-bà, hiện
này là tỉnh Assam) hâm mộ tài ông,
mời ông tới kinh đô giảng kinh. Nhưng
đồng thời vua Harsha (vua Giới Nhật),
một vị quân chủ hùng cường nhất Ấn
Độ thời đó, cai trị gần hết Bắc Bộ
Ấn, lại có tài văn thơ rất sùng đạo
Phật, cũng muốn rước ông lại kinh đô
là Kanauj (Khúc Nữ thành). Vua Kamrùpa
phải phục tùng vua Harsha, bỏ chương trình
của mình, rồi cùng hai vạn thớt voi, ba
vạn thuyền, dẫn cả binh lính hộ tống
Huyền Trang tới Karughira, chỗ vua Harsha
đương cắm trại. Huyền Trang tới vào
lúc tối. Nóng lòng, vua Harsha không chịu
đợi đến sáng hôm sau, sai đốt đuốc
rồi cùng các tướng tá đi đón. Gặp
Huyền Trang, nhà vua quỳ xuống đất, hôn
chân ông, đeo hoa đầy người ông. Ít
bữa sau nhà vua rước ông và vua
Kamarùpa về kinh đô là Kanauj (năm 643).
Quân đội của hai nước lần đó họp
lại; thành một cuộc rước long trọng
chưa từng thấy. Tiếng chuông, tiếng
trống, tiếng đờn, tiếng sáo vang lừng
trên sông. Tiểu vương các nước chư
hầu cũng lại tiếp rước. Tính ra có 18
quốc vương trung bộ Ấn Độ, ba ngàn
tăng lữ Đại thừa và Tiểu thừa, hai
ngàn Bà-la-môn và một ngàn tăng lữ
ở chùa Nâlandâ tụ họp tại Kanauj để
nghe ông thuyết pháp.
Đàn
dựng lên rồi, tượng Phật bằng vàng
đã rước lại. Tượng Phật tới đâu
thì vua Harsha cho rắc vàng bạc, châu báu
tới đó. Rồi tiệc dọn cho mọi người;
bảo vật tặng cho tăng lữ.
Huyền
Trang ngồi ghế Luận chủ, giảng về phá
ác kiến luận và nhiều nguyên lý Đại
thừa khác. Vua Harsha lại cho chép bài
giảng của ông, đem dán ở cửa để
mọi người coi, dưới bài thêm rằng
hễ ai vạch được một chỗ sai thì để
đền ơn, nhà vua sẽ cho người đó
được chặt đầu mình. Huyền Trang đâu
có muốn như vậy! Khi chính trị xen vào
tôn giáo thì chân lý phải lu mờ!
Được 18 ngày mà vẫn không có ai dám
lại biện luận với ông cả. Vua Harsha
cả mừng, tuyên bố là phái Đại thừa
đã toàn thắng và tặng Huyền Trang một
vạn đồng tiền vàng, ba vạn đồng tiền
bạc, một trăm bộ quần áo bằng vải
tốt, một thớt voi, đỡ ông lên ngồi
trên bành, dạo khắp kinh đô. Tăng lữ
phái Tiểu thừa và Bà-la-môn oán lắm,
nhưng không dám bạo động. Vua Harsha đem
hết cả châu báu của cải trong kho phân
phát cho dân chúng, chỉ giữ một bộ
đồ vải thô. Nhưng 18 vua chư hầu của
ông ta vội vàng thu nhặt của cải trong
dân gian để mua lại những bảo vật mà
vua Harsha đã phân phát rồi tặng lại
nhà vua. Thế là châu lại về hợp phố
mà vua Harsha được tiếng khen là theo
đúng bài học từ bỏ phú quí của
đức Thích Ca.
Huyền
Trang không phục nhưng cũng không dám chỉ
trích, xin phép về Trung Quốc. Nhà vua
giữ lại, các tăng lữ chùa Nâlandâ
cũng khuyên ở lại. Ông đáp:
"Trung
Hoa ở xa Tây Trúc, đường đi lại hiểm
trở cho nên đạo Phật truyền tới trễ
mà ít người hiểu được kỹ lời dạy
của đức Thích Ca. Chính vì vậy nên bần
tăng mới lặn lội đến đây để cầu
đạo, nay đã học xong, xin được về
nước để chỉ lại cho những người
không được may mắn lại đất Phật như
bần tăng. Bần tăng đâu dám quên lời
khuyên tự giác rồi giác tha của
thầy".
Vua
Harsha (Giới Nhật) nghe vậy không dám
cản nữa, nhưng xin cho sứ giả đưa về
đường biển để có dịp trình quốc
thứ lên vua Thái Tông. Ông cũng từ
chối vì đã hứa với vua Cao Xương là
khi về ghé nước đó ở lại ít năm:
Món nợ danh dự đó không thể không
trả.
Vua
Harsha tặng ông nhiều bảo vật, thớt voi,
sai một đoàn hộ tống ông tới biên
giới Ấn, lại viết nhiều thứ thư
giới thiệu ông với các vua các miền
ông đã qua. Còn kinh điển và tượng
Phật thì sai người chở theo. Vua Kamarùpa
(Assam) cũng tặng ông một chiếc áo ngự
hàn, và cùng với vua Harsha đưa ông
mấy chục dặm ra khỏi thành. Lúc từ
biệt ai nấy đều sa lệ.
Lòng
quyến luyến của hai quốc vương đó
thực cảm động. Ba ngày sau, Huyền Trang
ngạc nhiên thấy một đoàn k?binh đuổi
theo đi đầu là hai vua, lại tiễn thêm
một đoạn đường nữa, rồi lại bùi
ngùi lúc chia tay. Lần này thì vĩnh biệt.
Bốn năm sau vua Harsha bị giết và một
đoạn sử rực rỡ của Ấn Độ kết
thúc.
Huyền
Trang nghỉ ở Bilsar (phía bắc Kansuj) hai
tháng trong mùa mưa năm 643, rồi đi
ngược con đường cũ, qua Jàlandhara
Taxila. Miền đó đầy kẻ cướp nhưng
ông được yên ổn vì họ hiểu công
việc thỉnh kinh của ông.
Đầu
năm 644, ông qua sông Indus. Tới giữa
sông, sóng nổi lên dữ dội, một chiếc
thuyền nghiêng ngả, người giữ kinh té
xuống nước, cứu được, nhưng mất
nhiều cuốn kinh chép tay và nhiều hạt
giống.
Vua
nước Kapica hay tin ông tới, lại đón
ông ở bờ sông, thấy vậy sai người
đi chép ngay những kinh đã mất. Nhiều
vua khác cũng đi xa hàng chục dặm để
tiễn biệt ông vì tới đâu dân chúng
cũng tiếp rước ông long trọng. Tính ra
ông ở Ấn Độ 10 năm."
Ở
Ấn Độ 10 năm, đi về 7 năm.
"Coi
trên bản đồ, độc giả thấy tới
Badakhsan ông không theo con đường cũ
đưa tới Thiết Môn Quan mà rẽ qua
hướng đông.
Vua
Kapica đã dự bị cho ông đủ vật thực,
y phục, lại sai trăm người đưa ông qua
Đại Tuyết Sơn vì biết rằng quãng
đường leo núi đó khó khăn nhất. Ông
leo lên mất 14 ngày. Cảnh vô cùng lạnh
lẽo, hoang vu; không có một ngọn cây,
chỉ toàn đá chồng chất lên nhau tới
hút mắt. Núi cao và gió mạnh đến nỗi
chim không dám bay qua.
Hết
Đại Tuyết Sơn rồi đến Thông Lĩnh.
Người trong miền vì lạnh quá, sống trong
hang thú vật, kể chuyện có lần hàng
ngàn thương nhân và lạc đà qua đó
gặp cơn bão tuyết bị vùi trọn trong
tuyết. Họ lại kể có hai vị Phật sống,
ngồi tham thiền, không ăn uống, không
cử động, trong một cái hang từ 700 năm
rồi mà da thịt chỉ khô chứ không rã.
Và còn nhiều truyện quái đản hơn
nữa.
Ông
tới Kashgar, Yarkand (Ka-Tan), Vu điền là
một tiểu quốc phong phú nhờ đất tốt,
trồng dâu được. Hồi xưa Trung Hoa giữ
kín cách trồng dâu và nuôi tằm vì đó
là nguồn lợi rất lớn. Chắc độc giả
đã biết thời Trung Cổ lục Trung Hoa
chở qua Châu Âu đắt tới nỗi cứ
bắt lên cân mà đổi lấy vàng. Tương
truyền vua Vu Điền cưới được một
công chúa Trung Hoa và công chúa đã đem
lén theo được một ít hột dâu và ít
con tằm làm giàu cho nước của chồng
mà bí mật của Trung Hoa từ đó bị tiết
lộ, truyền qua Byznace rồi Châu Âu.
Vua
Vu Điền lưu ông lại bảy tháng để
giảng đạo cho dân chúng nghe. Ông nhờ
một đoàn thương nhân bản xứ đem giúp
một tờ biểu về Trường An để xin
phép triều đình được nhập cảnh (vì
trước ông lén đi).
Cuối
tờ biểu có đoạn:
"...
(Huyền Trang tôi) chu du lịch lãm đến
mười bảy năm (tính theo Trung Hoa), nay
đã từ nước Bát-la-gia-già qua cõi
Già-tất-thí, vượt núi Thông Lĩnh qua
sông Ba mê, đi về đến nước Vu Điền.
Vì có đem theo con voi lớn đi, nó chết
đuối mất, kinh bản đem về rất nhiều,
chưa mướn được xe chở, vậy phải
tạm đình ở lại. Chưa kịp ru ruổi về
để sớm yết kiến chốn hiên bệ. Khôn
xiết ngóng trông. Cần sai người tục
nước Cao Xương tên là Mã Huyền Trí
theo bọn thương lữ đi về trước dâng
biểu tâu lên vua nghe" (Đông Châu
dịch - Ông Đường Tăng Huyền Trang - Nam
phong số 143, tháng 10/1929).
Trong
thời gian đó, ông cũng sai người đi
lấy những bản kinh mà vua Kapica sai chép
lại cho ông.
Tới
địa phận Trung Quốc, ông ngừng lại ở
Sa Châu (huyện Đôn Hoàng) để đợi
chiếu chỉ của vua Đường. Triều đình
mới đầu cũng bất bình vì ông dám vi
lệnh, nhưng trên 10 năm đã qua, danh
tiếng của ông đã lên, công của ông
lớn, làm vẻ vang cho nước nhà ở
những nơi xa lạ, nên vua Thái Tông
được thư ông rất vui, xá tội và bắt
các quan địa phương phải tiếp đón,
giúp đỡ ông trên đường về.
Một
ngày đầu xuân năm 645, đường phố
Trường An tưng bừng già trẻ, trai gái
dắt dìu nhau đi đón, hoan hô ông nhiệt
liệt. Cờ, phướn, võng lọng phất
phới, tiếng chuông tiếng trống vang
lừng, hương khói nghi ngút, cảnh náo
nhiệt còn hơn ngày Thượng nguyên. Các
hòa thượng ở kinh đô họp nhau lại
khiêng kinh điển, tượng Phật về chùa
Hoàng Phúc.
Ông
đã xa quê mười sáu năm, đi gần ba
vạn cây số qua 123 nước và đem về
được:
150
Xá lợi tử.
7
tượng Phật bằng gỗ quý cao từ
thước tới 3 thước 50.
Và
647 bộ kinh. Và dịch xong 75 bộ 1.335 cuốn.
Ít
bữa sau, ông đến thành Lạc Dương yết
kiến vua ở cung Phụng Lâu, vua Thái Tông
hỏi sao ông đi Tây Trúc mà không tâu
trước, ông đáp:
Kẻ
hạ thần đã có tâu, nhưng việc nhỏ
quá cho nên không được đệ lên. Rồi
vì quá mộ đạo, nên phải lẻn đi,
thực mang tội lớn."
Câu
trả lời quá hay, quá khôn, cho nên
chúng ta cũng phải bắt chước. Nội một
chuyện vi lịnh vua là một tội rất lớn,
đến khi Vua hỏi trả lời sao nói cho Vua
tha tội đó đi. Ngài trả lời rất
khéo. Ngài cho rằng: Kẻ hạ thần đã
tâu trình nhưng vì việc quá nhỏ nên
không đáng để ý, không đáng đệ
lên. Nói như vậy Vua cũng vừa lòng vì
nó nhỏ quá, nên cũng không chấp làm
gì.
"Vua
chỉ mỉm cười, hỏi thăm về những
nước Huyền Trang đã qua. Vua lại khuyên
ông làm quan, ông từ chối.
Các
nhà thám hiểm Tây phương, mười nhà
như một, hễ về tới nước rồi thì xin
triều đình hoặc chính phủ được đi
nữa, mà người ta cũng khuyến khích họ
đi, vì lần thứ nhất chỉ là để dò
đường, nhưng lần sau mới là để đặt
cơ sở và mưu lợi. Huyền Trang rất có
thể kể tình muốn giao hiếu với Trung
Quốc của các vua Cao Xương, Harsha,
Kapica..., và xin Đường Thái Tông cho
mình trở lại các nước đó với một
bọn thương nhân, rồi sau với một số
quân đội để khuếch trương đế quốc
Trung Hoa như chính sách của Bồ, Ý, Hòa,
Anh, Pháp sau này".
Nhưng
không. Lòng ông đâu ti tiểu như
vậy!"
Các
nhà thám hiểm kia không phải đi thám
hiểm không đâu, họ lấy tiền của của
nước họ, họ tới chỗ nào thì để ý
và sau dẫn quân tới xâm chiếm nước
đó. Ngài Huyền Trang thì không. Nếu là
người khác thì có thể xúi Vua Trung Hoa
tới giao hảo hòa hiếu sau đó đem quân
xâm chiếm. Nhưng lòng ông không có ti
tiện, ti tiện như những nhà thám hiểm
phương Tây.
"Từ
chối hết tất cả danh vọng, ông chỉ nghĩ
đến việc dịch những kinh ông đã thỉnh
ở Ấn Độ về phổ biến trong quần
chúng. Ta quí ông ở chỗ đó, ông
được ngồi riêng một chiếu trong hàng
vĩ nhân thế giới cũng ở chỗ đó.
Mà công việc dịch kinh của ông cũng vĩ
đại như chuyến thỉnh kinh đã làm cho
đạo Phật truyền bá rất mau, rất rộng
trong cõi Đông Á, đã làm cho tiếng
tăm đời Đường chói lọi trong lịch
sử nhân loại.
Mới
về nước được hơn một tháng, ông
bắt đầu ngay công việc dịch kinh đại qui
mô và mãi miết làm luôn 19 năm cho
tới khi chết.
Ta
đã phục óc khoa học của ông khi đọc
những trang du ký, trong đó ông ghi chép
rất đúng và rất tỉ mỉ từ địa thế,
khí hậu tới dân tình, phong tục..., các
miền ông đi qua; ta lại càng thán phục
hơn nữa khi thấy ông tổ chức công
cuộc dịch thuật rất có phương pháp,
rất chu đáo, tưởng như ngày nay, trong
thời đại khoa học này cũng chưa chắc
có cơ quan văn hóa làm hơn được. Ông
về chùa Hoàng Phúc ở Trường An, mời
các vị cao tăng thông cả Hoa ngữ lẫn
Phạn ngữ lại hợp tác với ông.
Bắt
đầu là phiên âm những từ ngữ Phạn
về triết lý ra tiếng Hán, ghi nghĩa từ
ngữ, rồi tìm trong Hoa ngữ những từ
ngữ để dịch cho đúng, nếu không có
thì tạo ra.
Sau
đó là chia nhau ra dịch, nếu ai gặp một
chỗ nghi vấn thì hỏi những vị "dịch
chủ", tức ai gặp một chỗ nghi chủ
yếu, học thức uyên thâm.
Dịch
xong cuốn nào thì một người đọc bản
chữ Phạn, một người dò trong bản Hoa
xem có chỗ nào dịch chưa sát không; nếu
có thể thì bàn bạc lại với dịch chủ
để sửa chữa.
Rồi
còn lại một lần nữa về cách chia
tiết, chương, đoạn và cách chấm câu
xem có đúng không. Công việc này có
thể làm ngay sau công việc dịch, trước
công việc dò nghĩa.
Tiếp
tới việc đẽo gọt lại câu văn.
Sau
cùng lại so sánh cả hai bản nguyên văn
và dịch văn lại một lần nữa, xem thật
đúng và điêu luyện chưa.
Huyền
Trang lãnh việc dịch những kinh khó nhất
và chỉ huy công việc dịch những kinh
khác. Trong ba năm đầu, ông dịch được
chín loại kinh (trong số đó có hai bộ
Đại Bồ tát Tạng kinh và Phật Địa
kinh); năm 648, ông đem dâng vua Thái Tông
ở Ngọc Hoa cung.
Nhà
vua ngự chế bài tựa "Đại Đường
Tam Tạng Thỉnh Giáo Tự", rồi sai một
vị Hòa thượng dùng lối chữ Vương Hy
Chi chép lại để khắc lên bia. Một nhà
đại thư pháp Chữ Toại Lương cũng sao
lại hai bản, một bản khắc lên Nhạn
Tháp của chùa Từ Ân, một bản tại
Đồng Châu, hiện hai bia đá có vẫn còn
(theo Trần Hà).
Đây
là một đoạn trong bài tự:
"Nay
có thầy Huyền Trang pháp sư là kẻ lãnh
tụ chốn pháp môn. Nhỏ đã linh mẫn,
tâm tam không, sớm tỉnh ngộ từ xưa,
lớn lên lại thần tình, hạnh tứ nhẫn
trước bao hàm đủ cả (...), lưu tâm
cõi Nội từng thương chính pháp suy tư,
để ý cửa huyền, lại khái thâm văn
sai huyễn. Nghĩa muốn chia điều tách lẽ,
thêm rộng riền văn; diệt ngụy tục
chân, khai cho hậu học. Vậy nên ngóng
đất Tỉnh qua chơi cõi Tây, mạo hiểm xa
đi, một mình vò võ (...). Chu du Tây
vực, mười lẻ bảy năm, duyệt lịch
nước người, hỏi tìm chánh giáo (...).
Những nước kinh lịch đã qua, tóm thu
được tam tạng kinh văn, phàm sáu trăm
năm mươi bảy bộ, đem về dịch ra truyền
bá nơi Trung Quốc, để tuyên dương thắng
nghiệp. Thánh giáo khuyết mà lại tròn,
thương sinh tội mà lại phúc. Tưới tắt
ngọn lửa nồng Hỏa trạch, tót ra khỏi
đường mê; lắng trong luồng sóng đục
Ái-hà, cùng bước lên bờ giác. Thế
mới biết ác nhân nghiệp trụy, thiện
bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay
trụy đều bởi tại người cả (...).
Những mong kinh này thì khắp, trải bao
nhật nguyệt vô cùng phúc nợ nhuần xa,
cùng với kiền khôn rộng khắp, ĐÔNG
CHÂU dịch. (Tài liệu dẫn trên).
Tháng
10 năm đó, Hoàng thái tử cho xây chùa
Từ Ân ở Trường An và một viện dịch
kinh trong sân chùa, mới Huyền Trang dời
ban phiên dịch về đó.
Năm
sau ông dịch mười bộ nữa. Năm 660,
ông bắt đầu dịch bộ kinh lớn nhất và
khó nhất, bộ Đại bát nhã kinh. Môn
đệ thấy sức ông đã yếu mà kinh lại
dài, đề nghị dịch tóm lại, ông không
chịu, cho như vậy là cẩu thả, làm hại
đến nguyên ý. Ông quyết tâm dịch sát,
không thêm bớt. Tốn công nhất là
phải tham khảo trước khi dịch. Vì có ba
bản Đại bát nhã kinh khác nhau, đều
mang ở Ấn Độ về. Gặp mỗi chỗ đáng
nghi ông suy nghĩ, so sánh rồi mới dám
hạ bút. Tới cuối năm 663, ông đã
dịch được sáu trăm quyển.
Ngoài
ra ông có để lại cho hậu thế được
ba công trình này nữa:
Bản
dịch Đạo Đức kinh ra chữ Phạn để
giới thiệu triết học Trung Quốc với
Ấn Độ.
Viết
bộ Đại Đường Tây Vực ký, gồm 12
quyển chép hết những điều mắt thấy
tai nghe trong chuyến thỉnh kinh qua 128 nước.
Bộ này chứa những tài liệu rất quí
cho các nhà khảo cổ Ấn Độ và Trung Á
sau này, được dịch ra nhiều thứ tiếng:
Anh, Pháp, Nga, Nhật, Đức... và đã
giúp các học giả Ấn Độ sửa lại
nhiều điều sai lầm trong lịch sử của
họ về thế kỷ thứ 7.
Đặc
biệt nhất là bản dịch Đại thừa Khởi
Tín luận từ Hoa ngữ ngược về Phạn
ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của Ấn Độ
đã thất lạc từ lâu, nhưng ở Trung Hoa
còn giữ được bản dịch ra chữ Hán;
bây giờ ông dịch ngược lại để đền
ơn những tôn sư và bạn thân Ấn đã
niềm nở dạy bảo hoặc tiếp đón ông
(theo Trần Hà).
Để
thực hành sự nghiệp vĩ đại đó, ông
tổ chức đời sống một cách nghiêm
khắc. Mỗi buổi sáng ông lập chương
trình phải dịch bao nhiêu tờ, nếu ngày
làm không xong thì đêm phải thức để
làm nốt, không được chậm trễ.
Thường canh ba ông mới đi nghỉ, canh năm
đã dậy, thuyết pháp cho trên 100 môn
đệ, rồi lại dịch; ngày nào như ngày
nấy, năm này qua năm khác, luôn 19 năm.
Nghị lực cùng sức làm việc của ông
thực kinh thiên.
Như
tôi đã nói, trước Huyền Trang đã có
vài người như Cưu-ma-la-thập dịch kinh
Phật. Sau ông, Nghĩa Tịnh qua Ấn thỉnh
thêm được bốn trăm bộ kinh nữa,
nhưng dịch không được mấy. Ta có thể
nói trước sau, hai phần ba công dịch kinh
Phật là về ông.
Theo
Lương Khải Siêu công việc đó chẳng
những làm cho đạo Phật phát triển
mạnh ở khắp Đông Á mà còn ảnh
hưởng lớn đến ngôn ngữ và văn
học Trung Hoa.
Từ
ngữ Trung Hoa đã giàu thêm được ba
vạn rưỡi tiếng, căn cứ vào bộ Phật
giáo đại từ điển. Có những tiếng
dịch ôm tiếng Phạn như Niết-bàn, Sát-na
(một thời gian rất ngắn), phù hộ (chùa
Phật); có tiếng dịch nghĩa tiếng Phạn
như: Vô minh, chúng sinh, nhân duyên, chân
như... Mà thêm được 35.000 tiếng là
thêm được 35.000 ý niệm.
Văn
bạch thoại phát đạt vì lẽ khi dịch
người ta lựa những tiếng bình dị cho
dễ hiểu, do đó, bỏ cổ văn, dùng bạch
thoại.
Văn
thể thay đổi. Phạn ngữ và Hoa ngữ
khác nhau. Nhờ công việc dịch mà có
sự tiếp xúc, dung hòa giữa hai ngôn
ngữ. Chẳng hạn như kinh Phật, không
dùng hư từ, đối ngẫu mà rất hay đổi
trang..., đặc điểm đó ảnh hưởng một
phần đến văn học đời Đường, nhất
là về phương diện âm vận.
-
Văn nhân Trung Hoa vốn ít tưởng tượng
mà hay đọc thuyết lý, nhờ đọc những
truyện tân kỳ trong kinh Phật mà bắt
chước viết những tiểu thuyết thần
quái. Như bộ Sưu Thần Ký, và những
truyện Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng sau này
đều chịu ảnh hưởng của các kinh Đại
Trang Nghiêm, Niết-bàn.
Có
văn nhân thi sĩ nào ở đời Đường
và cả những đời sau mà ảnh hưởng
lớn đến bực đó không?
Nhưng
đã đến lúc Huyền Trang thấy sức suy
lần, tự biết không còn sống được
bao lâu nữa. Ông nhớ họ hàng, làng
mạc. Các ông anh đã qui tiên cả, chỉ
còn một bà em. Ông về quê, mừng
mừng tủi tủi cùng với em đi tảo mộ
tổ tiên. Vẫn còn cái tinh thần của
một nhà nho, mặc dù đã trên bốn mươi
năm hy sinh cho đạo Phật. Tâm hồn ấy
đẹp quá.
Một
hôm, ông dặn dò đệ tử: "Đời
này sắp hết. Thầy nằm xuống thì đừng
bày vẽ gì cả đấy nhé. Quấn thây trong
một chiếc chiếu rồi chôn trong một thung
lũng, chỗ nào vắng vẻ, tịch mịch
nhé?". Trước khi tịch ông như bừng
tỉnh, nói: "Ta thấy một bông sen lớn
ở trước mắt, tươi đẹp lạ
lùng!". Ba mươi lăm năm trước ông
thấy một bông sen đưa ông từ biển cả
đến ngọn núi Phật, bông sen lần này
sẽ đưa ông lên cõi Phật.
Ông
tịch ngày mùng 5 tháng 2 năm Lân Đức
nguyên niên (644). Ngày 14 tháng 4, một
triệu người ở Trường An và tứ xứ
lại đưa linh cửu ông tới an táng ở
Bạch Lộc Nguyên [*]. Vua Thái Tông lúc
đó đã băng; Vua Cao Tông khóc ông và
ra lệnh cho đám táng cử hành rất long
trọng. Sau đó, ba vạn người đến cất
nhà cư tang ở bên mộ. Trong lịch sử
nhân loại, từ xưa đến nay, chưa ai
được cái vinh dự ấy".
[*]
Theo Roné Grosset thì ở chùa Từ Ân. Có
sách nói là ở chùa tây Minh. Bạch
Lộc Nguyên là một khu đất ở gần
chùa Từ Ân chăng?
Trước
khi chết, ngài Huyền Trang dặn, khi chết
chỉ cuốn trong chiếu mà chôn. Đây là
điều ta cần học. Mình đâu có vĩ nhân
thông minh bằng ngài, đâu có khí tiết
bằng ngài. Cái gì cũng thua hết. Thậm
chí ngài còn dặn, đừng chôn gần,
chôn ở chỗ vắng vẻ để khỏi ô uế.
Trước
khi đi thỉnh Kinh cũng thấy bông sen. Bây
giờ nhập diệt cũng thấy bông sen.
---o0o---
Source:
www.buddhismtoday.com
Trình
bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
05-10-2001