.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Con
đường
giải
thoát
So
với
vô
số
chúng
sanh
sống
trên
thế
gian
thì
nhân
loại
chỉ
là
một
phần
rất
nhỏ,
cho
nên
được
sanh
làm
người
hẳn
không
phải
dễ.
Nhưng
duy
trì
được
kiếp
người
một
cách
toàn
vẹn
lại
còn
khó
hơn
vì
phải
chịu
bịnh,
lão,
tử,
lo
âu,
phiền
muộn,
khổ
đau,
thất
vọng...
Nhiều
người
mới
sinh
ra
đã
chết,
bất
hạnh
hơn,
lắm
kẻ
phải
chịu
kéo
lê
một
cuộc
sống
bi
thảm
vì
tật
nguyền
hay
nghèo
đói.
Tuy
thế
trong
những
người
còn
lại
không
phải
ai
cũng
xứng
đáng
làm
một
con
người
thật
sự.
Họ
sống
dã
man,
độc
ác,
trụy
lạc,
ích
kỷ
và
si
mê
không
khác
gì
cầm
thú.
Chính
Đức
Khổng
Tử
phải
than
rằng:
"Vi
nhân
nan".
Vì
thế
đã
được
sinh
ra
làm
người,
đã
duy
trì
được
kiếp
người
một
cách
toàn
vẹn,
cần
phải
sống
một
đời
sống
thế
nào
cho
có
ý
nghĩa,
hợp
đạo
đức
và
tiến
hóa,
cải
thiện
cho
thành
người
hiền
nhân
quân
tử.
Song
trên
thế
gian
có
cả
hàng
trăm
hàng
ngàn
triết
lý,
tôn
giáo
nói
là
để
cải
thiện
con
người
mà
kỳ
thật
chỉ
được
một
vài
giáo
lý
khả
dĩ
đáng
gọi
là
chánh
đạo;
còn
đa
số
là
mê
tín
dị
đoan
hoặc
dẫn
dắt
con
người
đi
sâu
vào
dục
vọng
đen
tối.
Một
chứng
minh
cụ
thể
là
ngày
nay
một
vài
thứ
triết
lý
đang
đưa
thanh
niên
vào
con
đường
trụy
lạc,
sa
đọa,
trong
khi
nhiều
tôn
giáo
đã
làm
cho
một
số
khá
đông
trong
thế
hệ
cũ
nô
lệ
cúng
tế,
khiếp
sợ
quỷ
thần
và
không
phát
huy
được
sức
mạnh
của
một
con
người
đích
thực.
Cái
khó
cuối
cùng
là
được
gặp
Đức
Phật
hay
các
bậc
hiền
triết
ra
đời,
vì
Đức
Phật
là
một
vị
thầy
vĩ
đại,
một
nhà
đại
cách
mạng
phá
tan
gông
cùm
nô
lệ
của
thần
linh
bên
ngoài
và
của
chính
lòng
tham
lam
sân
hận
si
mê
nội
tại
để
nâng
cao
con
người
lên
hàng
thánh
thiện.
Giáo
lý
của
Ngài
có
một
mục
đích
rõ
rệt
là
"chuyển
mê
khai
ngộ,
ly
khổ
đắc
lạc".
Tất
cả
những
cố
gắng
phi
thường
của
Ngài
từ
khi
khước
bỏ
đời
sống
đế
vương
trở
thành
một
đạo
sĩ
khổ
hạnh
cho
đến
lúc
chiến
thắng
ma
vương
và
thành
bậc
Toàn
Giác
chỉ
nhằm
một
mục
đích
duy
nhất,
tức
là
khai
thị
cho
chúng
sanh
con
đường
giải
thoát
ra
khỏi
vô
minh
và
đem
lại
cho
họ
một
đời
sống
hạnh
phúc
an
lạc.
Con
người
đang
sống
trong
một
thế
giới
đầy
bất
công
và
đau
khổ,
giống
như
ở
trong
một
khu
rừng
đang
bốc
cháy,
lại
còn
bị
các
tà
giáo,
các
ngụy
thuyết
thừa
cơ
lừa
đảo
để
thủ
lợi.
Dĩ
nhiên
trong
cảnh
hỗn
loạn
đó
ai
gặp
được
một
bậc
hiền
triết,
một
vị
cứu
tinh
giàu
lòng
từ
ái
vị
tha
sẵn
sàng
chỉ
đường
dẫn
lối
ra
khỏi
khu
rừng
là
ấy
là
một
điều
hy
hữu.
Đức
Phật
quả
đúng
là
một
vị
cứu
tinh
toàn
thiện
của
nhân
loại
vì
giáo
lý
của
Ngài
là
con
đường
thoát
khổ.
Vậy
chúng
ta
thử
tìm
hiểu
nội
dung
giáo
lý
giải
thoát
của
Đức
Phật,
để
xác
nhận
đâu
là
con
đường
đích
thực
dẫn
chúng
sanh
ra
khỏi
sông
mê
bể
khổ.
Khi
được
hỏi
"Con
đường
nào
dẫn
đến
Niết
Bàn?",
Đức
Phật
trả
lời
"Đó
là
Giới,
Định,
Huệ".
Giới
không
phải
là
những
điều
răn
mà
một
vị
giáo
chủ
đặt
ra
để
buộc
tín
đồ
tuân
phục
mình.
Trong
Phật
Giáo,
giới
theo
nghĩa
tiêu
cực
là
để
dẹp
bỏ
những
thói
quen
bất
thiện
đã
tập
nhiễm
từ
trước
và
ngăn
ngừa
các
điều
ác
có
thể
gây
nên
về
sau;
theo
nghĩa
tích
cực
là
để
phát
triển
những
điều
lành
đã
sẵn
có
và
tạo
thêm
các
điều
lành
chưa
từng
làm.
Giới
ví
như
sợi
dây
cương
nhờ
đó
người
huấn
luyện
ngưạ
dạy
một
con
ngưạ
hoang
trở
thành
thuần
thục.
Cũng
vậy
Giới
là
điều
kiện
tiên
quyết
để
giữ
tâm
không
vọng
động,
cho
nên
trong
kinh
nói:
"Giới
năng
sinh
Định".
Khi
Giới
đã
được
hành
trì
đứng
đắn
thì
tâm
tương
đối
bớt
xao
động
và
nếu
được
giữ
trên
một
đối
tượng
thiền
định
thì
tâm
sẽ
được
an
tịnh,
thoát
khỏi
dục
vọng
trở
nên
trong
sáng.
An
trú
trong
thiền
định
tâm
sẽ
được
nhu
thuần,
minh
mẫn,
kiên
cố
và
dõng
mãnh.
Đó
là
những
điều
kiện
tất
yếu
để
phát
triển
trí
tuệ
đúng
như
trong
kinh
đã
dạy
"Định
năng
sinh
Huệ".
Khi
tâm
đã
được
an
tịnh,
sáng
suốt
và
giác
tỉnh
nhờ
thiền
định,
Minh
Sát
tuệ
(Vipassanà)
sẽ
phát
huy
và
nhờ
đó
chúng
ta
có
thể
trực
giác
được
chân
tướng
của
vạn
hữu:
vô
thường,
khổ
não,
vô
ngã.
Đây
là
tri
kiến
cuối
cùng
đưa
đến
giải
thoát
tri
kiến.
Con
người
là
một
hợp
thể
gồm
ngũ
uẩn:
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức.
Cả
năm
yếu
tố
ấy
đều
đặt
trong
tình
trạng
biến
đổi,
bất
an
và
không
có
thực
thể.
Nhưng
vì
bị
vô
minh
che
lấp,
chúng
ta
không
nhìn
thấy
hiện
tượng
giới
đúng
với
thực
tướng
của
nó.
Đức
Phật
dạy:
"Dù
có
Chư
Phật
xuất
hiện
trên
thế
gian
hay
không,
chân
lý
hiển
nhiên
này
(vô
thường,
khổ
não,
vô
ngã)
vẫn
chi
phối
vạn
hữu.
Đó
là
chân
lý
mà
Như
Lai
đã
thực
chứng,
giác
ngộ
và
công
bố,
giảng
dạy,
tuyên
thuyết,
minh
chứng,
khai
thị
và
phân
tích
khiến
cho
người
khác
lãnh
hội
được"
(Anguttara
Nìkàya,
Tăng
Chi).
Đức
Phật
xuất
hiện
trên
thế
gian
để
khai
thị
cho
chúng
sanh
con
đường
giải
thoát
ra
khỏi
vòng
luân
hồi
(Samsàra)
Ngài
chỉ
dạy
một
giáo
lý
duy
nhất
là
Khổ
và
Thoát
Khổ.
Trong
cuốn
The
Word
of
the
Buddha,
Đại
Đức
Nyanatiloka
giải
thích
chữ
Khổ
như
sau:
"Danh
từ
'khổ'
không
phải
chỉ
để
mô
tả
một
sự
đau
đớn
thân
xác
hay
cảm
giác
khó
chịu
của
tinh
thần
mà
còn
bao
gồm
tất
cả
những
gì
có
thể
tạo
ra
đau
khổ
hay
gánh
chịu
khổ
đau.
Chân
lý
về
khổ
dạy
rằng:
vì
nguyên
lý
vô
thường
mà
tất
cả
mọi
hình
thức
khoái
lạc
dù
là
thiên
đàng
cực
lạc
cũng
đều
bị
biến
đổi
và
hủy
diệt,
và
tất
cả
mọi
hình
thức
hiện
hữu
vì
vậy
chắc
hẳn
phải
mang
mầm
mống
bất
mãn,
khổ
đau".
Chính
vì
đau
khổ
nên
con
người
nỗ
lực
tìm
kiếm
khoái
lạc
mà
không
biết
rằng
mình
sẽ
bị
khoái
lạc
lừa
đảo
phản
bội
để
rồi
càng
tìm
kiếm
khoái
lạc
con
người
càng
thất
vọng
và
cứ
thế
họ
chìm
đắm
trong
bể
trầm
luân.
Cho
nên
theo
Đức
Phật
ước
muốn
khoái
lạc
(ái
dục)
là
nguyên
nhân
của
mọi
khổ
đau.
Trong
kinh
Samyutta
(Tương
Ưng)
dạy
rằng:
"Không
thể
lường
được
đâu
là
khởi
thủy
của
vòng
luân
hồi,
và
từ
đâu
chúng
sanh
bắt
dầu
kiếp
sống.
Có
điều
chắc
chắn
là
họ
đã
bị
trầm
luân
sinh
tử
vì
vô
minh
và
ái
dục".
Một
hôm
tại
xứ
Kitogama,
Đức
Phật
đã
dạy
Đại
Đức
Ananda
và
tăng
chúng
rằng:
"Vì
không
nhận
thức
được
bốn
chân
lý
mà
các
người
và
Như
Lai
đã
phiêu
dạt
trong
vòng
luân
hồi
từ
vô
lượng
kiếp
đến
nay.
Này
chư
Tỳ
Khưu,
bốn
chân
lý
ấy
là
gì?
Đó
chính
là
Khổ,
Nguyên
Nhân
của
sự
khổ,
Chấm
Dứt
sự
khổ
và
Con
Đường
đưa
đến
chấm
dứt
sự
khổ.
Nhưng
nay,
các
người
và
Như
Lai
đã
thực
chứng,
giác
ngộ
được
những
chân
lý
ấy,
và
vì
thế
chúng
ta
đã
chấm
dứt
vòng
luân
hồi"
(Maha
Parinibbàna,
Đại
Niết
Bàn,
Trường
Bộ).
Cũng
trong
kinh
trên,
Đức
Phật
cả
quyết
rằng
bất
cứ
ai
hành
trì
theo
chân
lý
mà
Ngài
đã
hành
trì
và
chứng
ngộ
thì
chắc
chắn
sẽ
thoát
khỏi
vòng
sinh
tử
khổ
đau.
"Như
Lai
đã
tự
lấy
mình
làm
một
nơi
nương
tựa
cho
chính
mình.
Này
chư
Tỳ
Khưu,
hãy
tinh
tấn,
chánh
niệm
và
trong
sạch.
Hãy
ngự
trị
tâm
các
người
bằng
thiền
định.
Kẻ
nào
sống
tinh
tấn
trong
giáo
lý
này
sẽ
thoát
khỏi
vòng
sinh
tử
và
chấm
dứt
khổ
đau".
Đó
là
những
lời
dạy
cuối
cùng
trước
khi
Đức
Từ
Phụ
nhập
diệt,
đã
nhắc
lại
cho
chúng
ta
cứu
cánh
tối
hậu
của
Đạo
Phật
là
Giải
Thoát.
Đức
Phật
đã
nêu
gương
sáng
của
một
vị
thầy
kiên
trì
nhẫn
nại
và
tinh
tấn.
Những
lời
dạy
của
Ngài
giống
như
ngọn
hải
đăng
hướng
dẫn
chúng
ta,
những
người
đang
bị
bão
tố
cuốn
trôi
giữa
bể
luân
hồi,
vào
bờ
giải
thoát
một
cách
an
toàn.
Chúng
sinh
hiện
hữu
trên
thế
gian
với
một
căn
bịnh
nan
y
là
Khổ.
Nhưng
Đức
Phật,
một
vị
lương
y,
sau
khi
chẩn
mạch,
tìm
ra
bệnh
trạng
và
nguyên
nhân
căn
bịnh
Ngài
quả
quyết
rằng
bệnh
ấy
có
thể
điều
trị
được,
rồi
Ngài
chỉ
bày
cặn
kẽ
những
phương
thuốc
thần
diệu
mà
Ngài
đã
dầy
công
tìm
kiếm
trong
20
A
Tăng
Kỳ,
một
trăm
ngàn
kiếp
và
đã
chữa
trị
cho
chính
mình
một
cách
linh
nghiệm.
Chỉ
còn
có
một
điều
kiện
là
bệnh
nhân
phải
cố
gắng
theo
đúng
phương
pháp
trị
liệu
đó
để
sớm
thoát
khỏi
căn
bịnh
ngặt
nghèo.
Ngài
ân
cần
dặn
dò
trước
khi
từ
giã
cõi
đời:
"Handa
dàni
Bhikkhave
ànantayàmi
vo
vaya
Dhammo
sankhàrà,
appamàdena
sampàdetha"
(Quả
thật
vậy,
này
Chư
Tỳ
Khưu,
Như
Lai
nhắc
lại
là
tất
cả
các
Pháp
hữu
vi
đều
không
bền
vững,
hãy
cố
gắng
chuyên
cần).
Con
đường
giải
thoát
mà
Đức
Phật
đã
thực
chứng
và
chỉ
dạy
bao
gồm
trong
Tứ
Diệu
Đế:
--
Chúng
sanh
trong
tam
giới
sống
trong
đau
khổ
--
Đau
khổ
ấy
gây
nên
bởi
ái
dục
--
Ái
dục
có
thể
tận
diệt
bằng
con
đường
Trung
đạo
--
Con
đường
ấy
gồm:
Tứ
Chánh
Cần,
Tứ
Niệm
Xứ,
Tứ
Thần
Túc,
Ngũ
Căn,
Ngũ
Lực,Thất
Giác
Chi
và
Bát
Chánh
Đạo.
Tứ
Chánh
Cần
là
bốn
điều
Tinh
Tấn
nhờ
đó
hành
giả
có
thể
diệt
trừ
được
ác
pháp
và
phát
triển
thiện
pháp.
Tứ
Niệm
Xứ
giúp
cho
hành
giả
phát
triển
chánh
niệm
và
giác
tỉnh,
hai
yếu
tố
cần
thiết
để
thấy
rõ
chân
tướng
vô
thường,
khổ
não,
vô
ngã
của
vạn
hữu.
Tứ
Thần
Túc
là
bốn
yếu
tố
phát
huy
năng
lực
tinh
thần,
nhất
là
thần
thông
biến
hóa,
giúp
hành
giả
tiến
bước
mau
chóng
hơn
trên
đường
tự
giác
ngộ
và
cứu
độ
chúng
sanh.
Ngũ
Căn
là
năm
điều
kiện
cơ
bản
để
đạt
đến
toàn
tri
diệu
giác,
thấu
rõ
chân
lý.
Nhờ
phát
triển
ngũ
căn
mà
hành
giả
có
được
ngũ
lực
tức
là
sức
mạnh
của
đức
tin,
tinh
tấn,
chánh
niệm,
chánh
định
và
trí
tuệ.
Thất
Giác
Chi
là
bảy
điều
giúp
hành
giả
giác
ngộ
bồ
đề
thượng
trí.
Tất
cả
các
Pháp
trên
đều
được
đúc
kết
một
lần
nữa
trong
Bát
Chánh
Đạo,
con
đường
giải
thoát
duy
nhất
ra
khỏi
vòng
sanh
tử.
Kinh
Dhammapada
dạy:
"Con
đường
cao
thượng
nhất
là
Bát
Chánh
Đạo.
Chân
lý
cao
thượng
nhất
là
Tứ
Diệu
đế
...
Đó
là
con
đường
duy
nhất,
không
còn
con
đường
nào
khác
dẫn
đến
kiến
tịnh.
Hãy
đi
theo
con
đường
ấy,
để
sớm
thoát
khỏi
mọi
điên
đảo
của
Ma
Vương".
Điên
đảo
của
Ma
Vương
ở
đây
là
vòng
trầm
luân
khổ
hải
hay
phiền
não
ái
dục
mà
chỉ
có
Bát
Chánh
Đạo
mới
trừ
diệt
được.
Chúng
ta
không
tìm
thấy
con
đường
trung
đạo
này
trong
bất
cứ
giáo
lý
của
một
tôn
giáo
nào,
ngoại
trừ
Đạo
Phật.
Đức
Phật
dạy
Đại
Đức
Subhadda
rằng:
"Không
thể
có
được
bậc
Thánh
Tu
Đà
Hườn,
Tư
Đà
Hàm,
A
Na
Hàm
và
A
La
Hán
trong
bất
cứ
một
tôn
giáo
nào
không
có
Bát
Chánh
Đạo.
Này
Subhadda,
trong
giáo
lý
nào
có
Bát
Chánh
Đạo
thì
tất
cũng
có
hàng
Thánh
nhân.
Đây
trong
giáo
lý
của
Như
Lai
lại
có
con
đường
Bát
Chánh,
tất
nhiên
phải
có
các
bậc
Tu
Đà
Hườn,
Tư
Đà
Hàm,
A
Na
Hàm,
và
A
La
Hán
mà
trong
giáo
lý
khác
không
thể
có
được.
Này
Subhadda,
nếu
chư
đệ
tử
sống
chân
chánh
thì
thế
gian
không
thiếu
Thánh
nhân"
(Maha
parinìbbàna
sutta,
kinh
Đại
Niết
Bàn,
Trường
Bộ).
Đến
đây
chúng
ta
thử
đặt
vấn
đề
quan
niệm
giải
thoát
theo
Phật
Giáo
như
thế
nào?
Giải
thoát
theo
quan
niệm
của
Đạo
Phật
không
phải
là
được
cứu
rỗi
bởi
một
đấng
toàn
năng
mà
là
đoạn
lìa
các
trói
buộc
của
phiền
não
(Tham,
Sân,
Si)
hay
của
ngũ
uẫn.
Về
phương
diện
Tánh
thường
được
gọi
là
thanh
tịnh
giải
thoát
tức
là
tính
chất
an
tịnh
tự
tại
của
chư
Phật
và
hàng
thánh
nhân.
Pháp
thân
của
chư
Phật
và
hàng
thánh
nhân
gồm
năm
phần
là
Giới,
Định,
Huệ,
Giải
thoát
và
Giải
thoát
tri
kiến.
Một
trong
những
ân
đức
vô
lượng
của
Đấng
Toàn
Giác
là
Tịnh
Đức
tức
là
Đức
tính
thanh
tịnh
tuyệt
đối,
không
dao
động
trước
bất
cứ
một
hoàn
cảnh
nào.
Tịnh
Đức
ấy
thường
được
mô
tả
dưới
bảy
hình
thức:
1-
Giới
tịnh
(Sìla
visuddhi)
2-
Tâm
tịnh
(Cittavisuddhi)
3-
Kiến
tịnh
(Ditthivisuddhi)
4-
Đoạn
Nghi
Tịnh
(Kankà
visuddhi)
5-
Đạo
phi
đạo
tri
kiến
tịnh
(MaggàmaggaƯnãna
dassana
visuddhi)
6-
Đạo
Tri
kiến
tịnh
(Patipadà
nàna
dassana
visuddi)
7-
Tri
kiến
tịnh
(Nàna
dassa
visuddhi)
Về
phương
diện
Tướng,
thường
được
gọi
là
chướng
tận
giải
thoát
tức
là
diệt
tận
các
phiền
não
chướng,
nhất
là
vô
minh
và
ái
dục.
Có
mười
sợi
dây
phiền
não
(thập
sử)
trói
buộc
chúng
sanh
là:
1-
Tham
(Lobha)
2-
Sân
(Dosa)
3-
Si
(Moha)
4-
Mạn
(Màna)
5-
Tà
kiến
(Ditthi)
6-
Nghi
(Vicikicchà)
7-
Thụy
miên
(Thìna)
8-
Trạo
cử
(Uddhacca)
9-
Vô
tàm
(Arhirika)
10-
Vô
quý
(Anottappa)
Hoặc
mười
pháp
thằng
thúc
(kiết
sử):
1-
Thân
kiến,
2-
Hoài
nghi,
3-
Giớicấm
thủ,
4-
Luyến
ái
trong
dục
giới,
5-
Thù
oán,
6-
Luyến
ái
trong
sắc
giới,
7-
Luyến
ái
trong
vô
sắc
giới,
8-
Mạn,
9-
Trạo
cử,
10-
Vô
minh.
Bao
lâu
những
phiền
não
chướng
trên
còn
chi
phối
đời
sống
con
người
thì
bấy
lâu
họ
chưa
thể
giải
thoát
được
vòng
trầm
luân
sinh
tử.
Đứng
về
phương
diện
tâm
và
trí
giải
thoát
gồm
có
tâm
thiện
giải
thoát
tức
là
tâm
giải
thoát
ra
khỏi
các
bất
thiện
tâm
sở,
và
huệ
thiện
giải
thoát
tức
là
trí
huệ
suốt
thông
chân
lý
không
bị
chướng
ngại
bất
cứ
một
thành
kiến
nào.
Đối
với
chúng
ta
con
đường
dẫn
đến
giải
thoát
quá
khó
khăn
và
đòi
hỏi
nhiều
cố
gắng.
Nhưng
nếu
chúng
ta
kiên
trì,
tinh
tấn
và
cương
quyết
thì
nhất
định
một
ngày
kia
sẽ
đến
đích
và
rất
có
thể
chúng
ta
sẽ
được
giải
thoát
trong
chính
kiếp
sống
hiện
tại
này.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục