Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Truyền
bá Giáo Pháp
Hạnh
phúc thay Chư Phật giáng sinh!
Hạnh phúc thay Giáo Pháp cao minh!
Hạnh phúc thay Tăng Già hòa hiệp!
Hạnh phúc thay Tứ Chúng đồng tu!
-- Kinh Pháp Cú.
---o0o---
Cảm Hóa Yasa và Các Bạn Hữu
Tại
thành Benares có con một nhà triệu phú tên Yasa, trưởng thành
trong khung cảnh dồi dào phong phú. Một buổi sáng, chàng dậy
sớm hơn mọi khi, và lúc nhìn các nàng hầu thiếp nằm ngủ
ngổn ngang bừa bãi thì lấy làm nhờm chán. Ấn tượng ghê
tởm này luôn luôn ám ảnh chàng. Toàn thể đền đài nguy nga
tráng lệ bấy giờ đối với chàng chỉ còn là một nơi
tối tăm buồn bã, đầy dẫy những hình ảnh thô kịch xấu
xa. Nhận thức tánh cách tạm bợ của đời sống phàm tục,
Yasa trốn nhà ra đi. Chàng nói: "Thống khổ thay cho tôi!
Đọa đày thay cho tôi!" và đi về phía Isipatana, nơi mà
Đức Phật tạm ngự sau khi độ năm vị tỳ khưu đắc Quả
A La Hán [1].
Yasa đến nơi lúc Đức Phật đang đi
kinh hành. Thấy chàng từ xa đến, Đức Phật bước ra ngoài
đường kinh hành và ngồi lại một nơi đã dọn sẵn. Yasa đứng
cách đấy không xa, than rằng: "Thống khổ thay cho con! Đọa
đày thay cho con!"
Đức Phật dạy:
"Nơi đây không có thống khổ,
hỡi này Yasa! Nơi đây không có đọa đày, này hỡi Yasa! Hãy
đến đây, Yasa! Hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ giảng Giáo
Pháp cho con."
Yasa lấy làm hoan hỷ được nghe
những lời khuyến khích của Đức Phật. Chàng tháo đôi giày
bằng vàng ra và đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ Ngài
và ngồi lại một bên.
Đức Phật thuyết Pháp và sau khi
nghe, chàng đắc Quả Tu Đà Hườn (Nhập Lưu), tầng thứ
nhất trong bốn tầng thánh.
Đầu tiên, Đức Phật giải thích
về hạnh bố thí (dana), giới luật (sila), những cảnh Trời
(sagga), những tai hại của nhục dục ngũ trần (kamadinava),
về phước báu của sự xuất gia (nekkhammanisamsa). Đến khi
nhận thấy tâm của Yasa bắt đầu thuần thục và sẵn sàng
lãnh hội giáo lý cao siêu, Ngài giảng về Bốn Chân Lý Thâm
Diệu (Tứ Diệu Đế).
Mẹ của Yasa là người đầu tiên
ghi nhận sự vắng mặt của con. Bà báo cho chồng. Nhà triệu
phú liền ra lệnh cho gia đinh cỡi ngựa đi tìm bốn phương và
chính ông đi về hướng Isipatana. Khi nhận ra dấu đôi giày
bằng vàng của Yasa in trên đất, ông phăng lần đến nơi Đức
Phật.
Thấy ông từ xa đến, Đức Phật dùng
thần thông không cho ông nhận ra con. Nhà triệu phú đến
gần Đức Phật và cung kính hỏi thăm Ngài có thấy con ông
không? Đức Phật bảo: "Hãy ngồi lại đây. Con sẽ được
gặp mặt con của con". Nghe vậy, ông triệu phú lấy làm
mừng rỡ, vâng lời ngồi xuống. Đức Phật giảng cho ông
một thời Pháp. Ông rất hoan hỷ bạch:
"Lành Thay! Lành thay! Bạch hóa Đức
Thế Tôn, cũng tựa hồ như có người kia dựng lại ngay
ngắn một vật gì đã bị lật đổ, hay khám phá ra một
vật đã được giấu kín, hay vạch đường chỉ lối cho người
lạc bước, hay cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối để
cho ai có mắt có thể trông thấy, Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn
giảng dạy bằng nhiều phương thức cũng dường thế ấy.
Bạch Đức Thế Tôn, con xin quy y
Phật, Pháp và Tăng. Xin Đức Thế Tôn thâu nhận con vào hàng
thiện tín. Xin Ngài cho phép con nương tựa nơi Tam Bảo, từ
ngày này đến giờ phút cuối cùng của đời con."
Ông là người thiện nam đầu tiên
thọ lễ quy y với đầy đủ ba ngôi Tam Bảo. Khi nghe Đức
Phật thuyết Pháp cho cha, Yasa đắc quả A La Hán. Vừa lúc
ấy, Đức Phật thâu thần thông để nhà triệu phú nhìn
thấy con. Ông lấy làm vui mừng, thỉnh Đức Phật cùng vị
đệ trử về nhà trai tăng ngày hôm sau. Đức Phật chấp
nhận bằng cách làm thinh.
Sau khi ông triệu phú ra về, Yasa xin
Đức Phật cho thọ lễ xuất gia sa di và tỳ khưu . Đức
Phật truyền giới cho Yasa với những lời sau đây:
"Hãy đến đây hỡi Tỳ Khưu! Giáo
Pháp đã được truyền dạy đầy đủ. Hãy sống đời phạm
hạnh thiêng liêng của bậc xuất gia để chấm dứt mọi đau
khổ. [2]"
Với Đức Yasa, tổng số các vị A
La Hán lúc bấy giờ tăng lên sáu. Ngày hôm sau, Đức Phật đến
nhà ông triệu phú với sáu vị đệ tử A La Hán. Hai bà --
mẹ và bà trước kia là vợ của Ngài Yasa -- đến nghe Đức
Phật thuyết pháp, đắc quả Tu Đà Hườn và xin thọ lễ quy
y Tam Bảo. Hai bà là những người tín nữ đầu tiên. [3]
Đại Đức Yasa có bốn người bạn
tên Vimala, Subahu, Punnaji và Gavampati. Khi bốn vị này đã nghe
tin người bạn cao quý của mình đã cạo râu tóc và đắp y
để sống đời không nhà cửa, không sự nghiệp, thì đến
thăm và tỏ ý muốn noi theo gương lành ấy. Đức Yasa tiến
dẫn cả bốn vào yết kiến Đức Phật, và sau khi nghe Pháp,
cả bốn đều đắc Quả A La Hán.
Năm mươi người bạn trứ danh khác
của Đại Đức Yasa, tất cả đều thuộc về các gia đình
nổi tiếng nhất trong vùng, cũng đến thính Pháp, đắc Quả
A La Hán và xuất gia tỳ khưu.
Trong khoảng gần hai tháng, đã có sáu
mươi vị thành đạt Đạo Quả A La Hán. Tất cả sáu mươi
vị đều sanh trưởng trong những gia đình danh giá nổi
tiếng và đều là con ưu tú của các người cha đáng kính.
Những
Nhà Truyền Bá Chân Lý Đầu Tiên (Dhammaduta)
Ít lâu sau khi tế độ sáu mươi vị
đệ tử thành đạt Đạo Quả A La Hán, Đức Phật quyết định
gởi các Ngài đi truyền bá Giáo Pháp mới mẻ ấy cho tất
cả, không có bất luận một sự phân biệt nào. Ngài kêu
gọi các vị đệ tử như sau:
"Này
hỡi các Tỳ Khưu, Như Lai đã thoát ra khỏi mọi trói buộc,
dầu ở cảnh người hay các cảnh Trời. [4]
"Các
con cũng vậy, này hỡi các Tỳ Khưu, các con cũng đã thoát ra
khỏi mọi trói buộc, dầu ở cảnh người hay các cảnh
Trời.
"Hãy
ra đi, các Tỳ Khưu, đem sự tốt đẹp lại cho nhiều người,
đem hạnh phúc đến nhiều người. vì lòng từ bi, hãy đem
sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc lại cho chư Thiên và
nhân loại [5]. Mỗi người hãy đi một ngã. Này hỡi các Tỳ
Khưu, hãy hoằng dương Giáo Pháp, toàn hảo ở đoạn đầu,
toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối cùng, toàn
hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự. Hãy công bố đời
sống thiêng liêng cao thượng [6], vừa toàn thiện, vừa trong
sạch.
Có
những chúng sanh còn vướng ít nhiều cát bụi trong mắt và
nếu không nghe được Giáo Pháp sẽ sa đọa. Cũng có những
người sẽ am hiểu Giáo Pháp.
Chính Như
Lai cũng đi. Như Lai sẽ đi về hướng Uruvela ở Senanigama để
hoằng dương Giáo Pháp.
Hãy
phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy Giáo
Pháp cao siêu. Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác.
Được vậy, là các con đã hoàn tất nhiệm vụ".
Như vậy, Đức Phật là vị giáo
chủ đầu tiên gởi các đệ tử đã chứng ngộ và đã thọ
lễ xuất gia đi truyền bá giáo lý, vì lòng từ bi, vì tình
thương người khác. Không có một nơi ở nhất định, một mình
và không tiền của, những nhà truyền giáo đầu tiên ấy đi
đây đi đó để truyền dạy Giáo Pháp. Ngoài tấm y để che
thân và cái bát để trì bình khất thực độ nhật, các Ngài
không còn tài sản riêng tư nào nữa. Phạm vì hoạt động thì
bao la mà người hành sự thì ít, nên các Ngài luôn luôn thui
thủi đi một mình. tất cả sáu mươi vị đều đã đắc
Quả A La Hán, nghĩa là đã siêu thoát, đã vượt ra khỏi
mọi trói buộc vật chất. Các Ngài chỉ có một trọng trách
duy nhất là truyền dạy Giáo Pháp và công bố đời sống thiêng
liêng phạm hạnh (brahmacariya). Chức vụ căn bản của chư
vị A La Hán, những người đã thành tựu mục tiêu giải thoát,
là nâng cao đời sống đạo đức của người khác bằng cách
nêu gương lành trong sạch và nghiêm túc trì giới. Các tiến
triển vật chất, dầu là cần thiết, không làm cho các Ngài
lưu ý.
Thành
Lập Giáo Hội Tăng Già
Vào thuở ấy có sáu mươi vị A La Hán
trên thế gian. Với nhóm người hoàn toàn trong sạch ấy làm
nòng cốt, Đức Phật sáng lập "Giáo Hội của những người
độc thân".
Các hội viên đầu tiên là những người
thuộc giai cấp lãnh đạo có học thức và cao sang nhất trong
xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn luôn mở
rộng cửa cho tất cả mọi người xứng đáng, không phân
biệt giai cấp, đẳng cấp hay chủng tộc. Cả già lẫn trẻ,
ở mọi tầng lớp, đều có thể được chấp nhận vào đoàn
thể để chung sống trong tình huynh đệ như anh em trong một
gia đình. Giáo Hội Tăng Già vẫn còn tồn tại đến ngày nay
dưới hình thức một đoàn thể tu sĩ độc thân xưa nhất
trong lịch sử nhân loại.
Đức Phật không khuyên tất cả
mọi người nên rời bỏ đời sống gia đình để mang bát,
đắp y, trở thành tu sĩ không nhà cửa, không tài sản sự
nghiệp. Một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp,
thích ứng với Giáo Pháp và chứng đắc các thánh Quả. Cha,
mẹ, và vợ của Ngài Yasa là những người tu tại gia đầu
tiên bước theo dấu chân của Đức Phật. Tất cả ba vị đều
tiến triển đầy đủ về mặt tinh thần để thành tựu Đạo
Quả Tu Đà Hườn. Với sáu mươi vị A La Hán, xem như những
nhà truyền giáo lý tưởng để hoằng dương Chân Lý, Đức
Phật quyết định quảng bá pháp mầu đến những ai có tai
vui lòng muốn nghe.
Thâu
Nhận Ba Mươi Thanh Niên
Ơ Isipatana một ít lâu, Đức Phật
ra đi về hướng Uruvela. Trên đường, một hôm Đức Phật
dừng chân, ngồi dưới cội cây, trong một cụm rừng nhỏ.
Cùng lúc ấy có ba mươi thanh niên
vui vẻ trẻ trung cũng dắt vợ đến chơi trong cụm rừng.
Một trong những người ấy không vợ nên dắt theo một người
bạn gái.
Trong khi ai nấy vui đùa với nhau thì
cô bạn gái bỏ đi, lén đem theo các món đồ quý giá của
mấy người kia. Đến lúc hay ra, cả ba mươi thanh niên cùng
nhau chạy đi tìm kiếm trong rừng. Thấy Đức Phật, các người
trai trẻ ấy đến gần hỏi thăm Ngài có thấy một thiếu
phụ đi ngang qua đó không.
Đức Phật hỏi lại:
"Theo ý các con thì nên tìm một
người phụ nữ hay nên tự tìm ra mình là hơn?"
- Bạch Ngài tự tìm ra mình hẳn là
hơn [7].
- Vậy hãy ngồi lại đây, Như Lai
sẽ giảng Giáo Lý cho các con.
- Chúng con xin vâng.
Và tất cả đều quỳ xuống, cung kính
đảnh lễ rồi ngồi lại một bên, chăm chỉ lắng nghe. Sau
đó, cả ba mươi thanh niên lấy làm hoan hỷ, xin xuất gia theo
Đức Phật.
Cảm
Hóa Ba Anh Em Kassapa (Ca Diếp)
Từ nơi này đến nơi khác, khi đi lúc
nghỉ, một ngày nọ, Đức Phật đến Uruvela.
Ơủ đây có ba anh em nhà tu sĩ khổ
hạnh (jatila) để tóc dài và thắt lại thành bím, tên là
Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Ba anh em sống mỗi người
một nơi. Người anh cả có năm trăm đệ tử, anh giữa ba trăm
và người em út hai trăm. Riêng người anh cả tin tưởng mãnh
liệt vào sự thành công tinh thần của mình, và cho rằng mình
đã đắc Quả A La Hán.
Đức Phật đến viếng các vị này
trước nhất và xin an ngụ qua đêm trong cái phòng thờ Thần
Lửa của ông. Trong phòng ấy có một con rắn chúa dữ tộn.
Đức Phật dùng thần thông khắc phục rắn. Uruvela Kassapa
thấy vậy thì mừng rỡ, thỉnh Đức Phật ở lâu thêm như
một vị thượng khách. Nhiều lần khác nhau Đức Phật dùng
thần thông để thâu phục, nhưng ông vẫn tin tưởng rằng Đức
Phật chưa đắc Quả A La Hán như ông.
Sau cùng, khi hiểu rõ rằng ông chưa
đạt đến tầng cao thượng ấy và chính Đức Phật đã đắc
Đạo Quả A La Hán, ông xin quy y, rồi xuất gia , cùng với
tất cả các đệ tử của ông.
Hai người em và các đệ tử cũng
noi theo gương ấy. Cùng với ba anh em Ngài Kassapa và 1000 đệ
tử của ba vị ấy, Đức Phật lần hồi đến Gaya Sisa, cách
Uruvela không xa, nơi đây Đức Phật giảng bài kinh
Aditta-pariyaya Sutta, "Tất cả đều bị thiêu đốt", và
cả ba anh em Ngài Kassapa đều chứng đắc Đạo Quả A La Hán.
---o0o---
Aditta
Pariyaya Sutta,
Bài Kinh Đề Cập Đến "Tất Cả Đều Bị Thiêu
Đốt"
Tất
cả đều bị thiêu đốt, này hỡi các Tỳ Khưu! Hỡi này các
Tỳ Khưu! Tất cả đều bị thiêu đốt là như thế nào?
"Mắt (nhãn căn) nằm trong lửa,
hình sắc (nhãn trần) nằm trong lửa, sự thấy (nhãn thức)
nằm trong lửa. Cảm giác (thọ), dầu vui sướng hay đau khổ
hay không-vui-sướng, không-đau-khổ, phát sanh do nhãn xúc, đều
nằm trong lửa. Lửa ấy bắt nguồn từ đâu? Từ những
ngọn lửa tham ái, sân hận, si mê, sanh, bệnh, tử, phiền
muộn, ta thán, đau khổ, âu sầu, và thất vọng. Như Lai tuyên
bố như vậy.
"Hãy quán tưởng điều này,
hỡi các Tỳ Khưu, người đệ tử thuần thành của bậc Thánh
Nhân sẽ nhàm chán với nhãn quan, nhãn trần, nhãn xúc, nhãn
thức, dầu thọ cảm có như thế nào chăng nữa -- vui sướng,
đau khổ, hay không-vui-sướng không-đau-khổ -- phát sanh do nhãn
xúc. Người đệ tử thuần thành của bậc Thánh Nhân sẽ nhàm
chán với tai, âm thanh, mũi, hương, lưỡi, vị, thân, xúc, tâm,
ý, tâm thức, tâm xúc, bất luận cảm giác nào -- vui sướng,
đau khổ, hay không-vui-sướng không đau-khổ -- phát sanh do
sự tiếp xúc với tâm.
"Vì nhàm chán, người đệ tử
thuần thành của bậc Thánh Nhân dứt khoát buông xả mọi
luyến ái, và do sự buông xả ấy, hoàn toàn siêu thoát. Từ
đó, hành giả biết không còn tái sanh nữa, đã viên mãn
sống đời thiêng liêng phạm hạnh của bậc Thánh Nhân, đã
làm những việc cần phải làm, và không bao giờ còn trở
lại trạng thái ấy nữa".
Khi Đức Phật kết luận bài Pháp,
tất cả các vị tỳ khưu đều đắc Quả A La Hán, tận
diệt mọi ô nhiễm.
---o0o---
Cảm
hóa Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) và Đức Moggallana (Mục
Kiền Liên)
Cách thành Rajagaha (Vương Xá) không
xa, trong làng Upatissa - làng này cũng có tên là Nalaka, có một
thanh niên thông minh xuất chúng, tên Sariputta (Xá Lợi Phất),
con của bà Sari.
Vì Sariputta (Xá Lợi Phất) sanh trưởng
trong gia đình cao sang quyền quý nhất trong làng nên người
trong vùng ấy gọi chàng là Upatissa.
Mặc dầu hấp thụ truyền thống Bà
La Môn Giáo, Upatissa sớm có một quan điểm rộng rãi về đời
sống. Trí tuệ cao minh và thuần thục thúc giục chàng từ
bỏ tôn giáo của ông cha để theo giáo lý quảng đại và
thuần lý hơn của Đức Phật Gotama (Cồ Đàm). Cha chàng
Vanganta, hình như vẫn giữ đức tin trong Bà La Môn Giáo. Mẹ
chàng không bằng lòng thay đổi tín ngưỡng -- nhưng về sau,
lúc gần lâm chung, chính Đức Xá Lợi Phất dẫn dắt bà quy
y theo Phật Giáo.
Upatissa trưởng thành trong cảnh giàu
sang sung túc. Chàng có một người bạn chí thân tại Kolita thường
được gọi là Moggallana (Mục Kiền Liên). Hai người vốn đã
có mối liên hệ mật thiết trong nhiều kiếp sống quá khứ
xa xôi. Ngày kia, trong khi cùng vui chơi trên một đỉnh đồi,
cả hai đều nhận thức rằng tất cả những thú vui vật
chất đều nhất thời, tạm bợ và vô ích. Cùng một lúc,
hai người bạn thân đồng quyết định từ bỏ thế gian để
tìm con đường thoát khổ. Và cả hai lang thang đó đây để
tìm vắng lặng. Trên đường đi tìm chân lý, hai chàng thanh
niên đến yết kiến đầu tiên Đạo Sĩ Sanjaya, lúc ấy có
rất đông đệ tử và xin thọ giáo.
Không bao lâu, hai người đã lãnh
hội tất cả giáo lý của thầy và cảm thấy những hiểu
biết ấy thật là mỏng manh, hạn hẹp. Không thỏa mãn, vì
giáo lý này không chữa được chứng bệnh trầm kha của nhân
loại, hai người lại ra đi, rày đây mai đó, tìm vắng lặng.
Hai người đi đến nhiều vị đạo
sĩ Bà La Môn trứ danh, nhưng ở đâu cũng gặp toàn thất
vọng. Sau cùng, cả hai đành trở về nhà và trước khi chia
tay, hứa với nhau rằng người nào tìm ra trước Con Đường,
sẽ cho người kia biết.
Cùng lúc ấy, Đức Phật gởi sáu mươi
vị đệ tử đi truyền bá Giáo Pháp tốt đẹp cho thế gian.
Chính Đức Phật bổn thân đi về phía Uruvela và Đức Assaji,
một trong năm vị đệ tử đầu tiên, đi về hướng thành
Rajagaha (Vương Xá).
Đến đây nghiệp tốt của hai chàng
thanh niên dốc lòng tìm đạo đã hợp đủ duyên lành để
trổ sanh. Upatissa đang đi trong thành Rajagaha (Vương Xá) thì
bỗng nhiên nhìn thấy một vị tu sĩ y bát trang nghiêm, tướng
đi từ tốn, mắt nhìn xuống độ vài thước phía trước chân,
gương mặt trầm tĩnh thong dong, biểu lộ trạng thái vắng
lặng thâm sâu bên trong.
Vị đại đức khả kính nọ khoan
thai đi từ nhà này sang nhà khác, nhận lãnh chút ít vật
thực mà lòng quảng đại trong dân gian vui lòng đặt vào bát.
Cốt cách siêu phàm của vị chân tu khiến Upatissa tò mò để
ý. Chàng nghĩ thầm, "Chưa khi nào ta gặp được một vị
đạo sĩ như thế này. Chắc chắn Ngài là một trong những
vị đã đắc Quả A La Hán, hay ít ra cũng là một trong những
vị đang đi trên con đường dẫn đến Đạo Quả A La Hán. Ta
hãy đến gần hỏi Ngài vì sao Ngài thoát ly thế tục? Thầy
của Ngài là ai? Ngài truyền bá giáo lý của ai?"
Tuy nhiên, thấy Đức Assaji đang yên
lặng đi trì bình, Upatissa không dám làm rộn.
Khi vị A La Hán Assaji đi bát xong, tìm
một nơi thích hợp để ngồi lại thọ thực. Upatissa lấy làm
mừng rỡ, chụp lấy cơ hội, cung kính dâng đến Ngài một cái
chén mà chàng đã đem theo để dùng, và rót vào một ít nước.
Thực hàng xong bổn phận khiêm tốn sơ khởi của người đệ
tử, chàng thành kính bạch:
"Kính bạch Đại đức, ngũ quan
của Ngài thật là bình thản và an tĩnh. Nước da của Ngài
thật là sáng sủa và trong trẻo. Xin Ngài hoan hỷ dạy con, vì
mục đích nào Ngài thoát ly thế tục? Ai là vị tôn sư của
Ngài? Ngài truyền bá giáo lý của ai?"
Vì A La Hán khiêm tốn trả lời -- và
đây là đặc điểm của các bậc vĩ nhân:
"Này Đạo Hữu, bần tăng chỉ là
một tu sĩ sơ cơ. Bần tăng không có đủ khả năng để
giảng giải Giáo Pháp một cách dong dài và rành rẽ."
- Kính bạch Đại Đức, con là
Upatissa, xin Đại Đức hoan hỷ chỉ giáo ít nhiều, con sẽ
cố gắng tự tìm hiểu giáo lý bằng trăm ngàn cách. Và chàng
nói tiếp:
"Xin Ngài hoan hỷ chỉ dạy,
nhiều hay ít cũng được. Xin Ngài dạy cho điểm thiết yếu.
Con xin Ngài dạy cho đại lược. Chỉ một vài tiếng tóm
tắt ngắn gọn."
Đức Assaji liền đọc lên bốn câu
kệ tóm tắt phần triết lý cao siêu sâu sắc của Đấng Tôn
Sư về chân lý của định luật nhân quả:
Ye
dhammà hetuppabhavà -
Tesam hetum tathàgato
Aha tesan ca yo nirodho -
evam vàdì mahà samano.
Về
các Pháp phát sanh do một nhân.
Nhân ấy, Như Lai đã chỉ rõ.
Và Như Lai cũng dạy phương pháp để chấm dứt.
Đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn.
Trí tuệ của Upatissa lúc bấy giờ
đã đủ thuần thục để thấu triệt những chân lý sâu xa,
dầu chân lý ấy chỉ được gợi ra một cách vắn tắt. Ngài
chỉ cần một tia ánh sáng, và Đức Assaji đọc lên bốn câu
kệ thật khéo léo, đưa Ngài ngay vào Con Đường. Khi nghe hai
câu đầu, Upatissa đắc Quả Tu Đà Hườn (Sotapatti).
Vị đệ tử mới nhập môn chắc
chắn là hết sức thỏa thích và hết lời cảm tạ ông
thầy khả kính đã khai thông trí tuệ mình trong giáo lý trác
tuyệt cao siêu của Đức Phật.
Upatissa của được nghe Đức Assaji
thuật lại các đặc điểm của Đức Phật.
Từ đó về sau, tâm đạo của Ngài
càng tăng trưởng và lòng tri ân đối với Đức Assaji càng sâu
sắc. Mỗi khi được nghe Đức Assaji ở nơi nào thì Ngài quay
về hướng ấy, chắp tay đảnh lễ, và lúc ngủ luôn luôn
quay đầu về hướng ấy.
Bấy giờ, đúng theo lời cam kết,
Upatissa trở về báo tin lành cho bạn Kolita, vốn cũng là bậc
trí tuệ. Khi nghe xong bốn câu kệ, ông cũng đắc Quả Tu Đà
Hườn. Lòng mừng khấp khởi, hai người bạn lành đi tìm
thầy cũ là đạo sĩ Sanjaya để thuật lại kết quả tốt đẹp
mà hai vị đã thành đạt và để dâng lên thầy một niềm
tin mới. Hai Ngài thất bại vì đạo sĩ Sanjaya từ chối. Nhưng
nhiều đệ tử của Thầy sẵn sàng cùng theo hai Ngài đến
Veluvana (Trúc Lâm Tịnh Xá), thọ giáo với Đức Phật.
Do lời thỉnh cầu của hai vị, Đức
Phật chấp nhận cả hai vào hàng môn đệ với lời gọi: "-Etha
Bhikkhave! - Hãy lại đây, Tỳ Khưu!".
Nửa tháng sau, khi nghe Đức Phật
thuyết kinh Vedana Pariggaha Sutta cho đạo sĩ du phương
Dighanakha, Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) đắc Quả A La Hán.
Chiều ngày hôm ấy, Đức Phật triệu tập tất cả các đệ
tử đến quanh Ngài để tấn phong hai vị, Đại Đức Upatissa
(Sariputta, Xá Lợi Phất) và Kolita (Moggallana, Mục Kiền Liên),
cũng đắc Quả A La Hán một tuần trước đó, làm đệ nhất
và đệ nhị đệ tử trong Giáo Hội Tăng Già.
Chú thích:
[1] Lúc ấy nhằm ngày thứ năm sau
khi Đức Phật Chuyển Pháp Luân.
[2] Xuất gia Sa-di, Pabbajja - đúng theo
ngữ nguyên, là đi tới, hay từ khước. Ở đây chỉ có nghĩa
là được chấp nhận vào hàng xuất gia bằng cách quy y
Phật, Pháp, Tăng. Xuất gia Tỳ Khưu, Upasampada, cụ túc giới,
hay tỳ khưu giới, là đầy đủ giới hạnh.
[3] Upasaka = thiện nam, Upasika = tín
nữ, đúng theo ngữ nguyên, là người có liên quan mật thiết
đến Tam Bảo. Upasaka và Upasika là cận thị nam và cận thị
nữ, hay người đàn ông và đàn bà cư sĩ, đi theo con đường
của Đức Phật. Người ta trở nên thiện nam hay tín nữ sau
khi đọc ba câu kinh quy y:
Buddham
Saranam Gacchami - Con xin quy y Phật.
Dhammam Saranam Gacchami - Con xin quy y Pháp.
Sangham Saranam Gacchami - Con xin quy y Tăng.
[4] Mahavagga, trang 19 - 20
[5] Nên ghi nhận danh từ "chư Thiên",
các vị Trời (Deva)
[6] Phạn ngữ Brahmacariya ở đây không
có gì liên quan đến một vị Thần Linh hay Phạm Thiên, mà có
nghĩa là cao quý, thiêng liêng. Công bố đời sống cao thượng
có nghĩa là ban hành lễ xuất gia.
[7] Tự tìm ra mình: tức nhìn vào bên
trong mình. Tìm hiểu thực tướng của chính mình. Câu này có
nhiều ý nghĩa lý thú. Attanam là một thể của danh từ Atta
nghĩa là "ta", "bản ngã". Ở đây, Đức
Phật không đề cập đến một linh hồn như một vài học
giả cố giải thích như vậy. Có thể nào Đức Phật xác
nhận một linh hồn, khi mà Ngài rõ ràng và minh bạch phủ
nhận trong bài Pháp thứ nhì?
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com