Khai Thị
[ Tập 2 ]
Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
21. Chim đại bàng kim súy điểu 22. Thọ, yểu, phú, cùng, đều không ra khỏi luân hồi |
(Vạn Phật
Thành ngày 6 tháng 6 năm 1982) “Kim súy
điểu mệnh chung, Cốt nhục
tận tiêu tán, Duy hữu
tâm bất hóa, Viên minh
quang sáng lạn. Long
Vương thủ vi châu, Năng phá
thiên niên ám. Chuyển
Luân đắc Như ụ, Năng cứu
nhất thiết nạn. Như hợp
tại nhân trung, Nhật dụng
nhi bất kiến!” Dịch là: “Chim đại
bàng chết rồi, Xương
thịt tiêu hóa sạch, Song tim
chẳng tiêu tán, Ánh sáng
tròn sáng lạng. Vua Rồng
lấy làm ngọc, Phá đặng
ngàn năm tối. Chuyển
Luân được như ụ, Cứu thoát
trăm thứ nạn. Như ở
trong loài người, Ngày dùng
mà chẳng thấy!” Ðó là bài thơ do ngài Hám Sơn đại sư viết; bài kệ
này là một trong sáu bài vịnh tâm con người. Chúng ta đều biết rằng chim
Ðại Bàng Kim súy điểu khi trương đôi cánh ra thì có thể bao phủ 360 do
tuần (một tiểu do tuần là 40 dặm, một trung tuần là 60 dặm, một đại do
tuần 80 dặm). Chim Ðại bàng khi vỗ cánh thì có thể làm cho nước biển hoàn
toàn khô sạch. Nó có thể vỗ cánh làm cho nước biển dời đi chỗ khác, cho
nên mới thấy sức mạnh vô cùng của nó. Song chim Ðại bàng thì cũng có ngày
sẽ chết. Khi nó chết thì xương đều hủy hoại nhưng chỉ có trái tim là không
hủy diệt. Chim Ðại bàng này ăn uống
như thế nào? Nó chuyên môn ăn rồng. Rồng là vật có thần thông, có thể biến
lớn, có thể biến nhỏ, có thể tàng hình, có thể hiện thân. Song khi rồng mà
thấy Ðại bàng thì dù có thần thông cách nào nó cũng chịu thua, chỉ có cách
chờ Ðại bàng tới ăn thịt mà thôi. Bởi vậy khi Ðại bàng ăn nhiều thịt rồng
quá thì vua rồng chỉ còn cách cầu cứu với Phật. Y than phiền với Phật rằng
“Nếu Ðại bàng cứ tiếp tục ăn rồng như vậy thì loài rồng chúng tôi chẳng
bao lâu sẽ hoàn toàn tuyệt diệt; xin Phật nghĩ phương pháp giúp cho, để
đại bàng đừng ăn hết giống rồng.” Phật liền nói pháp cho đại
bàng, dạy nó rằng: “Từ đây về sau ngươi không được ăn thịt rồng nữa.”
Ðại bàng trả lời: “Nếu không ăn thịt rồng thì tôi làm sao sống?”
Phật mới dạy: “Ta sẽ cho các đệ tử của ta mỗi ngày đến giờ thọ trai
thì cúng dường cho ngươi ăn!” Bởi vậy, người xuất gia trước khi ăn thì cúng dường
cho chim đại bàng này, gọi là thí thực (tức là bố thí đồ ăn cho chim đại
bàng). Ðây là bài kệ được tụng lúc đó: “Ðại bàng
Kim súy điểu, Khoáng dã
quỷ thần chúng, La sát
quỷ tử mẫu, Cam lồ
tất sung mãn.” Dịch nghĩa: “Ðại bàng
Kim súy điểu, Quỷ thần
nơi khoáng dã, Mẹ con
quỷ La sát, Ðầy đủ
nước Cam lồ.” Khi cúng cho con Kim súy điểu này ăn thì cũng cúng
cho mấy thứ quỷ thần nơi khoáng dã và mẹ con loài quỷ La sát. “Khoáng dã”
tức là chỗ hoang vu, không người ở; những chỗ cây lớn, rừng rậm rạp là nơi
quỷ thần ở. Có mẹ con loài quỷ xuất hiện, trên đời không ăn được gì cả,
chỉ chuyên ăn thịt con nít sơ sinh. Chúng cho rằng thịt con nít rất mềm,
rất thơm tho, đầy chất bổ, so sánh với vitamins thì còn công hiệu hơn
nhiều! Bà mẹ quỷ có một ngàn đứa
con mà đứa nào cũng thích thịt trẻ thơ. Nếu con nít mà bị chúng ăn thì
nhân loại mau tuyệt chủng, bởi vậy nên Phật không thể khoanh tay đứng nhìn.
Ngài liền dùng thần thông bắt đứa con nhỏ nhất của bà mẹ quỷ đem giấu
trong bình bát của ngài. Khi bà mẹ đi ăn thịt con nít về thì phát hiện đứa
con út của mình biệt tích rồi. Vì bà ta cũng có thần thông nên biết được
Phật đã bắt nó, bà tới vấn tội Phật rằng: “Tại sao chẳng duyên cớ gì
ngài bắt cóc con tôi?” Phật dạy rằng: “Bà cũng biết là bà cần con
bà sao? Nếu bà kiếm con kẻ khác mà ăn thì kẻ khác kiếm con ai mà ăn?”
Bà mẹ quỷ nói rằng: “Tôi ăn thịt là để duy trì tánh mạng tôi, hiện ngài
bắt cóc con tôi mà ngài thì không ăn nó, vậy ngài bắt nó làm gì?” Phật nói: “Bà biết rằng
bà cần con của bà thì thế giới loài người ai ai cũng cần con của họ cả.
Nếu bà ăn thịt con của người ta thì những người đó trong lòng vô cùng đau
xót, từ đây về sau bà không được ăn thịt con nít nữa!” Bà mẹ quỷ nói: “Nếu tôi
không ăn thịt chúng thì tôi chẳng có gì để ăn, vậy là ngài muốn làm cho
tôi chết đói sao?” Phật dạy rằng: “Không
sao! Bà không thể chết đói được. Ta sẽ dạy các đệ tử của ta mỗi lần thọ
trai thì dành ra một phần đồ ăn để cúng cho bà; từ đây về sau bà không
được ăn thịt con nít nữa!” Từ đó về sau bà mẹ quỷ La sát này mới đổi ác làm
lành, không ăn thịt trẻ nhỏ nữa. “Cam lồ tất sung mãn”
có nghĩa là đối với chim Ðại Bàng, hay loài quỷ thần nơi khoáng dã,
hay bà mẹ quỷ, ta đều dùng pháp Cam lồ cúng dường, khiến cho chúng được no
đủ, sung sướng . Cho nên người xuất gia mỗi lần ăn trưa thì niệm chú cúng
dường thí thực là do nhân duyên như vậy. Chim Ðại Bàng lúc sống rất
có thế lực nhưng chết rồi thì xương thịt đều tiêu sạch, lại trở về với Tứ
Ðại (đất, nước, gió, lửa). Song, trái tim thì không bị mất; dù cho lửa đốt,
nước dìm cũng không bị hủy hoại, mà vẫn y nguyên như xưa. Trái tim này
tròn trịa có thể phóng ra hào quang sáng chói. Nếu vua rồng lấy được trái
tim này thì nó trở thành viên ngọc rồng (Long châu). Khi đặt viên ngọc này
tại Long cung, thì Long cung sẽ phát hào quang sáng chói. Nếu vị chuyển
Luân Vương được trái tim này thì có thể biến nó thành viên ngọc Như ụ (Như
ụ bảo châu) để cứu độ tất cả tai ương hoạn nạn, với sức thần thông diệu
dụng không thể nghĩ bàn. Song, viên ngọc quý này phải chăng loài người
chúng ta chẳng có dự phần vào? Không phải đâu, mỗi người chúng ta đều có
một viên ngọc vô giá! Viên ngọc Như ụ này có trong tự tánh của mỗi người,
song bị vô minh che lấp khiến cho mai một đi, chẳng thể phóng quang được.
Dù dùng đủ cách cũng không tìm ra được nó, cho nên viên ngọc đó chẳng thể
dùng đặng. Ðó là chuyện hết sức đau lòng! Con người ở đời cứ bỏ gốc
mà chạy theo ngọn, quay lưng lại với sự giác ngộ, hòa mình với bụi trần,
không chịu phản bổn hoàn nguyên, không muốn xả trần lụy để quay về bờ giác.
Cho nên mỗi một vị sáng lập tôn giáo đều hết sức tận lòng, tận tâm giáo
hóa loài người, là vì chỉ muốn dạy mình mượn cái giả mà tu cái chân, lìa
mê mà giác ngộ, quay về với nguồn gốc, nhận thức được “bản địa phong
quang” của chính mình, cái gia tài quý giá vốn đầy đủ ngọc Như ụ ấy
của mình, Song chúng ta ai ai cũng
muốn truy cầu những điều bên ngoài mà không biết quay ngược nhìn về bên
trong để tìm đáp án nơi chính mình. Bởi vậy cho nên đời này đến đời khác
luôn luôn lưu lạc trong biển khổ. Có kẻ muốn tu hành nhưng lại không thể
buông bỏ được ý hưởng thụ, muốn sung sướng; cho nên từ đầu đến cuối không
muốn trở về với thanh tịnh, xả bỏ trần lụy. Ðó là điều thật đáng thương
thay!
(Vạn Phật
Thành ngày 6 tháng 6 năm 1982) Thử nhìn xem những ví dụ lịch sử về kẻ giàu nhất,
người sang nhất, kẻ nghèo nhất, và người bần tiện nhất: “Thạch
Sùng phú hậu, Phạm Dũng cùng, Vận vãn
Cam La, Thái Công tảo, Bàng Tổ
thọ cao, Nhan mệnh đoản, Lục nhân
đô tại Ngũ Hành trung.” Dịch là: “Thạch
Sùng giàu sụ, Phạm Dũng nghèo xơ, Cam La
thời trễ, Thái Công vận sớm, Bàng Tổ
sống dai, Nhan Uyên chết yểu, Sáu người
nằm gọn phạm vi Ngũ Hành.” Xưa nay, người có tiếng
giàu nhất là Thạch Sùng, ngườI đời nhà Tấn; người ta gọi ông là “phú
khả địch quốc” giàu bằng cả mấy nước vậy. Có lần Thạch Sùng và người
bạn ăn tiệc, người bạn mới lấy trong kho ra một cây san hô cao hai thước
tám tấc để cho Thạch Sùng ngắm. Thạch Sùng nhìn rồi nói: “Cái này có đáng
gì đâu.” Liền lấy chân đạp nát cây san hô. Người bạn vô cùng buồn rầu nói
rằng: “Tôi không biết tìm đâu ra vật quý như cây san hô này, nay lại bị
anh đạp nát như vậy thật đáng tiếc quá!” Thạch Sùng nói: “Bạn tiếc làm gì,
cái đó có chi đáng giá! Trong nhà tôi, đầy nhóc thứ rác rưởi đó, mời bạn
tới nhà tôi mà xem!” Anh bạn này liền tới nhà coi thử, thì quả nhiên trong
nhà Thạch Sùng có cả hàng trăm cây san hô cao ba thước. Thạch Sùng nói:
“Bạn tùy ý lấy, thích cái nào thì lấy cái đó nhé!” Cho nên vật mà người bạn
coi là quý báu thì đối vớI Thạch Sùng chẳng có giá trị gì. Ðó là nói rằng
ông ta giàu có vô cùng không cách gì mà biết được. Phạm Dũng là một người ăn mày, chẳng có đồ vật gì
cả. Hằng ngày phải đi ăn xin, có được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu, không
chịu ra ngoài làm việc, ăn rồi thì lại đi xin nữa cho nên nói rằng: “Gia vô
cách túc chi lương, Thân vô
lập chùy chi địa.” Nghĩa là: “Trong
nhà không có lương thực để ăn ngày hôm sau, Bản thân
không có một chỗ để dựng cái chùy.” Ông ta tới đâu thì chỗ đó là nhà. Tuy rất nghèo
phải ra ngoài để xin ăn, song về sau ông góp được chút ít lương thực. Có
lần Khổng Phu Tử và mấy người học trò bị tuyệt lương ở nước Trần, vì không
có gì ăn nên Khổng Tử mới phái người đến nhà Phạm Dũng để mượn gạo. Các vị
xem, Khổng Phu Tử là một người có rất nhiều đệ tử mà bây giờ ngài phải đến
một kẻ ăn mày để xin gạo, như vậy không phải là điều đáng buồn cười sao? Lúc đó Tử Lộ theo lời dạy
của Khổng Tử tới nhà Phạm Dũng và thưa rằng: “Thầy của tôi hiện tại
chẳng có đồ ăn, bởi vì nước Trần tuyệt hết lương thực, cho nên tôi mới tới
đây để mượn một ít gạo.” Phạm Dũng nói rằng: “Bạn muốn mượn gạo
cũng được, song tôi có mấy vấn đề hỏi bạn, nếu bạn đáp không được thì tôi
không cho mượn.” Tử Lộ trong lòng đầy tự tin mới nói rằng: “Ðược,
bạn cứ hỏi đi.” Phạm Dũng hỏi: “Bạn hãy nói cho tôi nghe trong trời
đất cái gì là nhiều, cái gì là ít; cái gì là vui vẻ, cái gì là buồn; nếu
bạn đáp đúng thì tôi sẽ cho bạn mượn gạo vô điều kiện; nếu bạn đáp không
đúng thì tôi không cho bạn mượn gạo. Ðó là điều tôi phải giao ước rõ ràng!”
Tử Lộ nói: “Câu hỏi dễ quá, thật là hết sức đơn giản! Trong trời đất
thì ngôi sao là nhiều mà mặt trăng là ít; vui vẻ là khi đám cưới, buồn bã
là khi người chết.” Phạm Dũng nghe xong khoát tay nói: “Chẳng đúng,
chẳng đúng!” Tử Lộ tự nhận thấy lời đáp của mình thật là tuyệt hảo,
đúng không chỗ sai và chẳng có câu trả lời nào có thể hay hơn được. Ông
cho rằng Phạm Dũng vì không muốn cho mượn gạo mà tìm cách chối từ; song
ông cũng không có cách gì khác nên đành tức giận bỏ về. Khi gặp Khổng Phu
Tử, ông nói: “Thưa thầy, tên Phạm Dũng này thật khả ố, chẳng biết đạo
lý gì cả.” Sau đó Tử Lộ nhất nhất kể lại lời đối đáp của đôi bên cho
Khổng Tử nghe, Khổng Tử nghe xong nói: “Con đã trả lời sai rồi đó.”
Tử Lộ kinh ngạc vô cùng hỏi lại: “Phạm Dũng nói con sai là bởi vì y
đứng trên lập trường của y. Thầy phải đứng trên lập trường của con mà nói,
tại sao thầy cũng nói con trả lời sai?” Khổng Tử đáp: “Con hãy nghe
lờI ta nói đây: Trong trời đất kẻ tiểu nhân thì nhiều mà người quân tử thì
ít; lúc vui vẻ là lúc cho kẻ khác mượn, lúc buồn bã là lúc mượn kẻ khác!
Con hãy trở lạI gặp Phạm Dũng mà nói như vậy.” Bấy giờ Tử Lộ trở lại
nhà Phạm Dũng và lặp lại lời Ðức Khổng Tử. Phạm Dũng nghe xong thì nhận
ngay rằng lời đáp thật chính xác vô cùng nên ông đem gạo lại cho Tử Lộ
mượn. Ông lấy đầy một gánh gạo cho Tử Lộ gánh về. Song đòn gánh này là vật
bảo bối, gạo bỏ vô rồi thì ăn không bao giờ hết, dùng bao nhiêu nó lại đầy
bấy nhiêu; cho hay kẻ nghèo cùng cũng có bảo bối! Ðời Tần Thủy Hoàng có một
vị tên là Cam La, năm 12 tuổi làm Tể tướng; song đó là đã trễ ba năm rồi.
Anh ta đáng lẽ phải làm tể tướng năm 9 tuổi. Khương Tử Nha lúc 80 tuổi thì
gặp Văn Vương; như vậy là đã sớm 3 năm rồi, đáng lẽ ông phải gặp Văn Vương
lúc 83 tuổi. Cam La còn trẻ đã làm tể tướng, mà Khương Tử Nha đến lúc rất
già mới gặp Văn Vương. Bàng Tổ sống đến hơn 800
tuổi cho nên tuổi thọ rất cao; nhưng Nhan Uyên đệ tử của Khổng tử chỉ sống
đến 30 tuổi rồi chết, nên gọi là yểu mạng. Nhan Uyên tuy rằng mạng ngắn
nhưng trong các đồ đệ của Khổng Phu Tử, ông là người thông minh nhất. Ông
cũng là người hiếu học bậc nhất, chỉ cần nghe qua một là biết được mười,
trong khi Tử Cống thì chỉ nghe một biết hai. Lúc Nhan Uyên mất, Khổng Tử
vô cùng thương tiếc mà nói rằng: “Thiên táng dư, thiên tang dư!”. Ý
nói: Trời làm cho đạo ta mất đi vậy. Sáu người này có kẻ thì
hết sức giàu có, có kẻ vô cùng nghèo khốn, có kẻ sớm có địa vị cao, có kẻ
trễ lên quý phẩm, có kẻ hết sức sống lâu, có kẻ lại chết sớm. Song sáu
người này không ra khỏi vận mệnh của Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ).
Họ đều ở trong vòng Ngũ hành quay đi lộn lại, tuần hoàn trong vòng luân
hồi; cho nên nói: “Ðời người thật là như giấc mộng ảo hóa, như giọt
sương đầu lá, như ánh điện chớp. Hãy nên quán chiếu như vậy và đừng nên
chấp trước!” Lúc đó mình sẽ không có phiền não. Tu hành mà biết thấy
suốt rồi buông xả thì càng tốt hơn nữa. Nếu không thể nhất thời buông hết
mọi thứ thì phải từng bước từng bước, từng việc từng việc mà buông xả.
Ðừng nên lưu luyến ở mãi trong Lục đạo luân hồi này làm gì!
(Vạn Phật
Thành ngày 19 tháng 6 năm 1982) “Yếu học
hảo, oan nghiệt trảo, Yếu thành
Phật, tiên thọ ma.” Dịch là: “Muốn học
tốt, oan nghiệt tìm, Muốn
thành Phật, trước gặp ma.” “Muốn học tốt, oan
nghiệt tìm.” Mình muốn làm chuyện tốt thì thế nào oan nghiệt cũng tìm.
Càng làm tốt thì oan nghiệt kiếm mình càng gắt bởi vì nó muốn thanh toán
nợ nần với mình! Từ vô lượng kiếp đến nay,
đời này qua đời khác mình tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn, không có rõ ràng;
bởi vậy khi muốn tu đạo thì chủ nợ tới tìm mình để đòi nợ. Ví dụ có kẻ
mượn người khác tiền mà chưa trả sòng phẳng , lúc y chưa phát tài thì chủ
nợ biết y không có tiền nên chẳng đến đòi; nhưng khi y phát tài thì chủ nợ
liền đập cửa đòi nợ. Vì sao? Vì chủ nợ biết y có tiền! Nếu không tới đòi
thì chẳng biết lúc nào đòi đặng, cho nên phải đòi. Bởi vậy, trong quá trình
tu đạo mình sẽ gặp nghịch cảnh, mà gặp nghịch cảnh thì mình càng phải dũng
mãnh tinh tấn, không có thối thất tâm Bồ Ðề. Những nợ nần mà chủ nợ đến
đòi thì mình phải trả cho hết; tức là đem công đức của mình hồi hướng tới
chủ nợ, tới những người oán, kẻ thân; để khi họ nhận được công đức của
mình họ sẽ ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử, đến lúc đó món nợ của mình
mới hoàn toàn phủi sạch. Từ vô lượng kiếp tới nay,
do đủ thứ nhân duyên nên mình mắc nợ không phải ít. Ngay đời này thử suy
nghĩ một cách chín chắn coi mình đã giết bao nhiêu sinh mạng rồi? Có bao
nhiêu chuyện không công bình mình đã tạo ra? Ðối với chúng sinh, nếu mình
chưa giết qua một sinh vật nào, thí dụ như sư tử, voi, heo, gà, trâu, bò…nhưng
rất có thể là mình đã sát hại những sinh vật nhỏ như ruồi, muỗi, dế, thằn
lằn…Dù nói rằng mình chưa từng giết những sinh vật nhỏ như vậy, nhưng chắc
chắn mình vẫn có ý niệm sát sanh tồn tại trong lòng. Lúc nhỏ, vì mình không để
ý, bất giác giết hại rất nhiều côn trùng nhỏ, cái đó gọi là Vô tri tội,
tội sát mà không có cố ý. Nhưng những chúng sinh bị mình đoạt mạng thì giờ
đây khi mình muốn tu đạo, bọn chúng chắc chắn sẽ tìm tới để đòi nợ. Cái
thứ nợ này không phải chỉ có một hai mà thôi, mà là vô số bởi vì đời này
qua đời khác mình tích lũy nó nhiều không kể hết. Do vậy đừng nói rằng ông
Trời bất công: “Tôi bây giờ tu hành rồi, tôi không muốn nhận tất cả
những oan gia nghiệp báo, nợ nần hồi xưa.” Nghĩ như thế thì vĩnh viễn
mình không thể thành đạo được. Bởi vì lòng ta không công bình. Tâm mà công
bình thì mình phải nhận nợ. Cho nên nói rằng: “Muốn học tốt, oan nghiệt
tìm.”; Khi mình trở nên giàu có đột ngột thì bạn bè nghèo sẽ tới đập
cửa để đòi nợ. “Muốn thành Phật, trước
gặp ma” Phật mà thành đạo là do ma giúp đỡ. Nếu như không có ma thì
không có Phật. Ma đến khảo nghiệm làm cho mình tiến bộ, nên nói rằng: Dục
cùng thiên lý mục, cánh thượng nhất tằng lâu. (Muốn thấy tận cùng ngàn dặm,
phải bước lên thêm một tầng lầu.) Ma coi thử “hỏa hầu” của
mình có đủ chưa. Nếu đủ thì ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi, vạn
con ma tới mình cũng không thối lui, không thối thất tâm Bồ Ðề. Càng khốn
khổ gian nan bao nhiêu, thì càng tinh tấn bấy nhiêu. Hễ nơi nghịch cảnh
chằng chịt rối ren bao nhiêu, thì tâm càng phải an nhiên bình thản bấy
nhiêu. Ðừng nghĩ là bất công, cũng đừng oán trời trách người. Nghịch cảnh lại thì thuận
theo nó mà tiếp nhận, để tu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật. Ðừng bao giờ làm luật sư
tự biện hộ cho chính mình. Bất cứ chuyện gì cũng phải nghĩ rằng: “Chân
nhận tự kỷ thác, Mạc luận
tha nhân phi. Tha phi
tức ngã phi, Ðồng thể
danh Ðại bi.” Dịch là: “Nhận
thật rằng mình sai, Ðừng để ý
lỗi người. Lỗi người
tức lỗi ta, Cùng thể
tức Ðại bi.” Vì đồng một thể nên bao
quát ma quỷ. Ma là một bộ phận của tự tánh. Nếu tự tánh có ma thì mình mới
làm bọn ma bên ngoài xâm nhập được. Tự tánh không có ma thì ma bên ngoài
không có cách gì tiến vô đặng. Thế nào là tự tánh ma? Tức là tham sân si!
Nhược vô miêu thực oản, Tắc bất chiêu thương dăng. (Nếu bát đồ ăn của
mèo không để ra thì không có ruồi tới.) Khi biết mình còn “vẩn đục”
thì ma tìm cách “thừa nước đục thả câu”, muốn làm chuyện rối loạn, muốn
hiển lộ cái “ma thông” của nó. Cho nên mỗi cử chỉ hành động, mỗi lời nói
phải hết sức chân thật: “Ngôn tất trung tín, hành tất đốc kính.” (Lời nói
phải trung thật, thành tín, hành động phải hoàn toàn cung kính.) Không
được nói dối trá, không dám nhận lỗi, lúc nào cũng che đậy tội lỗi của
chính mình: Ðó không phải là hành vi của người tu đạo. Cho nên mình phải
hết sức chân thành mà bộc bạch, hết sức khẳng khái nói ra lỗi lầm của mình.
Luôn luôn cư xử theo đạo đức lương tâm. Nếu những đìều gì không hợp với
đạo đức lương tâm thì đừng bao giờ làm cả. Người tu đạo cần có đủ trí huệ
chân chánh. Kẻ có trí huệ chân chánh thì không bao giờ khen ngợi chính
mình và hủy báng người khác, cũng không bao giờ nói rằng: “Bạn coi tôi
đây, tôi là số một, thanh cao nhất, còn những người kia toàn là thứ
tệ hại, bần tiện.” Phàm những kẻ tự khen thì không còn đường tiến nữa;
tuy sống nhưng thực ra là như kẻ đã chết rồi; bởi vì là họ đã đi ngược lại
với đạo đức lương tâm, khinh thường kẻ khác, chỉ biết có chính họ. Ðó là
những ngườI mà chư Phật, chư Bồ Tát không bao giờ hoan nghinh. Nếu muốn được Phật, Bồ Tát
hoan hỷ bảo vệ thì điều mình nói và việc mình làm phải nhất trí: Ngôn cố
hành, hành cố ngôn. (Lời nói theo việc làm, việc làm theo lời nói) Ngôn và
hành không được mâu thuẫn nhau. Ðừng nên lúc nào cũng tự khoe là tôi tốt
thế này, tôi tốt thế kia, song đến khi làm thì toàn những chuyện bại hoại. Người tu đạo không nên có
tâm ích kỷ, tâm tư lợi, trái lại phải làm lợi ích kẻ khác. Ðừng làm hại
người để lợi mình, hoặc coi thường người khác. Cho nên các vị phải biết
hồi quang phản chiếu, xét lại chuyện quá khứ đã làm, chuyện hiện tại đang
làm, rồi quán chiếu đến chuyện tương lai. Lúc nào cũng vậy, bất cứ giờ nào
phút nào cũng không quên lương tâm đạo đức, thì qua một thời gian lâu
thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng, tâm Bồ Ðề sẽ lớn vững. Bấy giờ mình mới
có thể thực hành đạo Bồ Tát, làm lợi ích cho chúng sinh được; cho nên cái
quan hệ đó là liên đới. Ta đừng vì sợ ma mà thối
thất tâm Bồ Ðề. Ma chướng là thử thách, khảo nghiệm. Cũng như học sinh lúc
mới bắt đầu đi học thì cảm thấy bài học rất khó, nhưng thời gian qua khi
đã nhập môn biết chút đỉnh rồi thì không còn thấy khó nữa. Từ lúc học Tiểu
học, lên Trung học rồi đến Ðại học, ai ai cũng có tâm trạng như vậy. Cho
nên nói rằng: Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt, trẫm đắc mai hoa phát
tỵ hương? (Không qua một phen lạnh thấu xương, sao đặng hoa mai nở
ngát hương?) Và: Thập niên hàn song
vô nhân vấn, nhất cử thành danh thiên hạ tri! (Mười năm cửa lạnh không
ai hỏi, một sớm thành danh mọi người hay!) Giống như chàng tú tài bỏ
mười năm học đơn côi, lạnh lẽo chẳng ai thèm để ý, chừng khi anh ta đỗ đạt
nổi danh thì lúc đó ai cũng biết. Lúc mình tu hành, đừng vọng tưởng muốn
“xuất phong đầu”, muốn ngườI ta để ý tới mình. Sau khi xuất gia rồi nếu
còn cầu danh, cầu lợi thì đó là chuyện thật chẳng ra gì. Chúng ta đã xuất
gia rồi thì phải nhận chân tu hành một cách thiết thực, phải tài bồi cái
gốc phước huệ của mình. Tu phước thì phải làm lợi ích người khác, tu huệ
thì phải nghiên cứu kinh điển. Thường làm chuyện lợi ích thì mới sinh được
phước đức. Có người hỏi làm thế nào
để lợi ích người khác? Phải chăng là dùng tiền làm chuyện công đức? Chẳng
phải vậy. Chỉ cần tâm mình đừng có lòng giết hại, đừng có lòng trộm cắp,
đừng có lòng tà dâm, đừng có lòng dối trá, cũng đừng rượu chè thì đó là
mình bồi đắp cho ruộng phước của mình rồi. Cho nên nói: Từ bi khẩu,
phương tiện thiệt, hữu tiền vô tiền, đô tác đức. (Với miệng từ bi, với
lưỡi phương tiện, dù có tiền hay không, cũng làm được chuyện có đức.) Nếu
miệng mình không chửi rủa người khác, chẳng nói lời thô kệch, độc ác, làm
tổn thương người khác thì đó là công đức. Bất cứ ở mọi nơi phải biết tiếc
phước đức của mình, đừng làm việc tổn phước. Ở chỗ nào mình cũng phải tu
phước tu huệ. Tu phước tu huệ không phải một ngày một đêm mà thành đặng;
phải cần một thời gian mà mỗi giờ mỗi phút mình phải làm liên tục không
ngừng. Không thể là Nhất nhật bộc chi, thập nhật hàn chi. (Một ngày
phơi nắng, mười ngày để lạnh. Hay: một ngày làm, mười ngày nghỉ) Nếu mình như vậy thì vĩnh
viễn không tiến bộ được. Cho nên phải nhận định tông chỉ, dũng mãnh tinh
tấn, đừng thụt lùi thối chuyển. Ðó là điều căn bản mà người tu đạo phải có
đủ.
(Vạn Phật
Thành ngày 20 tháng 6 năm 1982) “Nhất
thiết chúng sanh, Giai hữu
Phật tánh, Giai kham
tác Phật.” Ðó là câu nói từ Kim Khẩu
của Phật. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí
huệ, đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói này có thể suy ra mọi chúng
sinh đều có tánh Phật; đã vậy thì mình không nên sát sinh, không nên trộm
cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu; mà phải
trì Ngũ Giới. Khi sát sinh là giết mười
phương chư Phật, vì chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do một niệm
không giác ngộ nên sinh ra một thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện
tướng, chuyển tướng), vì vậy mình mới trầm luân trong biển khổ, mất đi cái
Chân Ðạo. Ðạo lý này rất là nông cạn nhưng các vị hãy quán tưởng xem: Quán
tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình trong quá khứ, đều là
những vị Phật trong tương lai, cho nên mình phải tôn kính họ, mình phải
đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy
thì tự nhiên hết khinh thường, bất kính hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ
có loại hữu hình, thậm chí loại vô hình như quỷ, thần, tiên, ma đều là
chúng sinh cả, cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng họ, không
nên coi thường họ. Người học Phật cần phải
tin vào lý nhân quả một cách sâu sa; đừng trồng nhân xấu, nếu không thì
tương lai mình sẽ nhận quả xấu. Nếu trồng nhân tốt thì tương lai nhất định
sẽ gặt quả tốt. Nhân quả không thể sai lệch dù cho một chuyện nhỏ như là
sợi tóc. Nếu mình giết cha người khác thì sẽ có người giết cha mình; nếu
mình giết anh người khác thì cũng có kẻ sẽ giết anh mình. Thế nên đừng vì
lợi mà dùng thủ đoạn hại người; hại người thì chung cuộc là tự hại mình.
Vả lại: “Thượng thiên hữu hiếu sanh chi đức.” Trời cao có đức hiếu
sanh, không muốn làm hại chúng sinh cho nên mình đừng bao giờ làm những
chuyện trái với lý nhân quả. Các vị phải biết rằng: “Nhất túc thành
thiên cổ hận. Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục.” Nghĩa là: một
lần sảy chân, ngàn đời ôm hận. Mất đi người vạn kiếp khó phục hoàn. Không
tin gì cả cũng được, song chẳng thể không tin luật nhân quả. Chối bỏ cho
rằng không có luật nhân quả là việc làm hết sức nguy hiểm. Chư vị Bồ Tát
chỉ sợ lúc gieo nhân có sai lầm, song chẳng sợ khi quả đã chín mùi. Nếu
chư Bồ Tát có lỡ làm sai mà chẳng biết, thì lúc thọ quả báo các ngài không
bao giờ có tâm oán hận. Các ngài không oán trời cũng không trách người.
Chúng sinh thì sợ chịu quả báo mà chẳng sợ lúc trồng nhân. Lúc chúng sinh
trồng cái nhân thì hết sức tùy tiện, điên đảo; nhưng khi thọ quả báo thì
rủa trời, trách đất, oán người.
Chú dẫn:
Ngày Chủ Nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng
đệ tử trong Vạn Phật Thành mớI cùng nhau niệm A Di Ðà Phật. Trên đường về
đại điện, thì phát hiện một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước đại
điện, dài khoảng ba bốn bộ, hình dạng rất nhỏ và dài. Ðại chúng thấy rắn
thì sợ không dám tiến vào. Bấy giờ vị Tăng giám thị, Thầy Hằng Vô, muốn
đem con rắn vứt ra ngoài, song lúc đó thì Hòa Thượng cũng đang tiến lại,
Ngài mỉm cười nói rằng: “Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên
đuổi nó đi.” Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như là những con rắn bình
thường khác, mình nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua mình
mà nó không sợ hãi gì cả. Nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hòa
Thượng lên đài thuyết pháp thì Ngài dạy rằng: “Kêu con rắn đó vào đây mà
nghe Pháp đi.” Con rắn nghe như vậy thì lập tức tiến vào. Nó bò từ từ vào
chánh điện, không hề làm kinh sợ những người hai bên. Rồi từ nơi đại điện
ở phía trái nó bò qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một vòng,
xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp tòa cũng giống như là quỳ trước tượng
Phật vậy và nằm im nghe Pháp. Hòa Thượng mới khai thị cho nó như vầy: “Nhất thiết chúng sanh Giai hữu
Phật tánh, Giai kham
tác Phật. Ðó là câu nói từ kim khẩu
của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh
không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói này chúng
ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có Phật tánh; đã vậy thì không nên sát
sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên nói dối và không nên
cờ bạc rược chè, mà phải trì Ngũ Giới. Sát sinh là giết mười phương chư
Phật vì chúng sinh là do chư Phật thị hiện ra. Do vì một niệm không giác
ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển
tướng) chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa lìa rồi vĩnh viễn mất
đi nền đạo chân thật. Các vị tu đạo hãy quán
xem: Hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình, trong
quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai. Cho nên mình phải có lòng
hiếu thuận với họ, giúp họ ly khổ đắc lạc, cắt đứt sinh tử, không còn bị
ràng buộc trong vòng luân hồi nữa. Bởi họ là các vị Phật trong tương lai
nên khi họ chưa thành Phật mình cũng phải tôn kính họ. Mình phải đối với
chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy thì tự
nhiên hết khinh thường, bất kính hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh
không phải chỉ là thứ hữu hình, thậm chí kẻ vô hình như quỷ, thần, tiên,
ma đều là chúng sinh cả. Cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng
họ, không nên coi thường họ. Hôm nay con rắn mà các vị
gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song do nó thị hiện thân rắn, nên
chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí còn bị lừa nữa. Rắn
này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh. Nếu không
vậy thì sao nó vào đây mà hết sức hiền hòa, nằm phủ phục chẳng động đậy gì
cả nơi bục cửa? Tuy nhiên lấy mắt nhìn thì
nó chỉ là con rắn nhỏ; kỳ thực rắn này có sức thiên biến vạn hóa; có thể
ẩn hình, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua lượn
lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn
này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Phật kinh có đề cập tới
Thiên Long Bát Bộ, thì rắn này thuộc một trong tám bộ đó; tức là Ma Hầu La
Già (Ðại mãng xà) Quán sát nhân duyên rắn
này, có thể là: ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, song tâm địa
rất xấu xa, hiểm ác. Vì âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con
dao găm có tẩm rượu độc bỏ trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy
nhiên chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại còn làm cho
trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung thì sinh tâm hết sức sân
hận độc địa cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con
trăn lớn. Ở trên thế gian có hai thế
lực là âm và dương hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu
phước và huệ thì có thể thành Tiên, thành Thánh, thành Bồ Tát, thành Phật.
Nếu theo đường ác mà luyện tập thì thế lực càng ngày càng lớn, song toàn
làm những chuyện hắc ám nào là hãm hại, tàn sát, oán hận, báo thù do đó
mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí dày đặc, lớn lao; kẻ tích tập oán khí sâu
dày đó sau này sẽ biến thành độc xà, độc long v.v… Những thứ rắn độc hay rồng
độc không phải là thứ mắt phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế
giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là tâm tham, sân, si tích lũy thành.
Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân
họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh
(những thứ thực vật và khoáng chất…hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma
yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạch dịch lưu hành (những thứ
bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. Còn rồng độc, dịch quỷ
thì chuyên phóng khí độc làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người
làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng. Cho nên, hiện thời lưu
hành đủ thứ bịnh tâm lý như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng,
khiếp sợ và đủ thứ bịnh tật sinh lý…, tất cả đều không ra ngoài phạm vi
làm sóng gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lý học và y học hiện đại
không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó cho nên
không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Ðương nhiên là Phật Pháp thì có
linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương! Lại nói đến nhân duyên của
rắn độc này: vì sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó
cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua
một thời gian lâu dài thì nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện
hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có
nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm
chuyện yêu nghiệt gieo họa cho nhân gian nữa. Cho tới đời nhà Tống thì
rắn này trở thành một con rồng độc. Nó ngự trị nơi một con sóng lớn chuyên
làm sóng gió mưa bão, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và
khách qua song. Cả một thời gian dài nhân dân ở đó hết sức lo sợ kinh
hoàng. May thay có một vị thánh tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới
để giải cứu. Vị đó tay cầm tích trượng đứng bên bờ sông lớn tiếng khiển
trách rồng độc. Rồng độc nghe được thì vô cùng tức giận, mới trổ hết bản
lĩnh hiện ra thân hình con mãng xà dài ngàn trượng. Song vị pháp sư vì có
Kim Cang Tam Muội chấp trì nên chẳng hề sợ hãi. Ngài dùng pháp Câu triệt
và pháp Hàng phục (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày
đêm sống chết chiến đấu vớI nó, cuối cùng thì ngài chiết phục được rồng
độc. Tà không thắng chánh! Khi ác thuật bị phá rồI thì rồng độc chẳng còn
cách gì khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị pháp sư này mới thuyết rằng:
“Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã và chỉ có
nghiệp là cái theo thân mình.” Ðồng thời ngài dạy nó nên sinh lòng từ bi,
dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh chớ không thể gia hại sinh linh
nữa. Rồng nghe pháp rồi thì
thức tỉnh nên được con mắt thanh tịnh. Vị pháp sư mới truyền thọ cho nó
Tam quy, Ngũ giới rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành đừng làm não
loạn nhân dân nữa; rồng độc liền tuân theo lờI dạy. Từ đờI Tống đến nay đã
trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đã trở thành một trong
Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng. Có lần trong Vạn Phật điện
có một vị Tỳ kheo ni nói rằng: “Mấy ngày trước, khi đi qua Ðại Hỷ Xả
viện tôi thấy đuôi con rắn này thò ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ vô
hộp gỗ định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay
đầu lại mở hộp ra thì rắn đã biến mất rồi. Rõ ràng rắn không có cách gì có
thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông.” Hòa thượng cườI mà nói
rằng: “Con rắn này tôi đã biết nó từ trước rồi. Hai mươi năm trước khi
tôi còn ở chùa Từ Hưng trên núi Ðại Dư ở Hương Cảng thì nó đã từng tới
chùa để nghe kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó. Sợ cái
tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong lồng rồi đem đi thật là
xa không biết bao nhiêu dặm. Chừng khi mở lồng ra để thả nó thì rắn không
cánh mà bay mất. Ngày nay Phật pháp truyền sang Tây phương, rắn này cũng
không chối từ đường xá xôi bay qua Mỹ để hộ pháp.” Sau cùng Hòa Thượng giảng
dạy như sau: “Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không
trồng nhân ác thì tự nhiên chẳng kết quả ác. Nếu trồng nhân tốt thì tương
lai chắc chắn sẽ kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Ðừng nghĩ
rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác, làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho
mình. Vì sao? Vì trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm
hại chúng sinh. Khi mình làm sai với lý nhân quả thì: thân người mà mất
đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên chuyện gì không tin cũng được, nhưng
chẳng thể không tin lý nhân quả. Nếu bài bác lý nhân quả thì tương lai sẽ
hết sức nguy hiểm. Bồ Tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận
trọng lúc trồng nhân. Nếu vì vô ý mà trồng nhân ác thì lúc thọ quả báo ác
các ngài đốI mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trờI cũng
không trách người. Ngược lại, chúng sinh thì sợ quả báo mà không sợ lúc
trồng nhân. Lúc trồng nhân thì hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến
lúc thọ quả báo thì hết sức sức sợ hãi vô cùng, oán người, trách trời:
“Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất
công thế này?” Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng
nhân như vậy thì bây giờ sao gặt quả như thế? Hôm nay gặp nhân duyên này,
có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết pháp cho nên tôi nhân cơ hội nói cho
các vị biết tiền nhân hậu quả. “Chỉ nhân
nhất trước thác, Thâu liễu
mãn bàn kỳ.” Nghĩa là: Chỉ đi sai một
bước mà thua cả ván cờ. Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp phận khó vãn hồi. May
thay là con rắn này đã quy y Tam Bảo, tương lai nó còn có cơ hội để minh
tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này thì cứ tự mình thí
nghiệm xem; còn nếu tin nhân quả thì đừng nên nghi ngờ gì chuyện này cả. (Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 9 năm 1982) Trên thế giới mỗi ngày mọi chuyện đều biến. Loài
người, vạn vật, thời gian, không gian đều biến. Mùa này đáng lẽ không mưa, song lại mưa; đó là khí
hậu bất thường. Do có nhiều nhân duyên đặc thù nên nó mới biến. Như núi
lửa bộc phát là vì lòng đất chứa áp lực lên khối đất bên trên quá lớn; đó
cũng gọi là biến. Con người thất thường thì người ta gọi là điên (bịnh
thần kinh). Khí hậu bất thường thì ta gọi đó là bịnh thần kinh của khí
hậu; chắc chắn là phải có chuyện bất thường xảy tới. Ðó là đều không phải
là hiện tượng tốt. Trong lúc này đủ thứ tai ương tật bịnh phát sinh mình
cần phải dụng tâm tu hành, phải biến điều u tối thành điều kiết tường,
phải làm cho tai họa trở thành bình an. Nếu mình không tu cho tốt thì khi
khí hậu thay đổi, mình cũng thay đổi theo. Khi con người biến đổi về tâm
lý thì nhiều vấn đề phát sinh. Nên kẻ học Phật pháp có lúc sự biến hóa
phát sinh thì phải đặc biệt dụng công tu hành hoặc là niệm Phật cho nhiều,
hoặc là trì chú, tụng kinh cho nhiều. Khi có sức lực thì phải ráng làm
nhiều chuyện tốt lành bởi: Ðức đại oan nghiệp tiêu. (Ðức lớn thì oan
nghiệp mới tiêu trừ được.) Ở vào thời không bình thường thì mình phải tùy
duyên bất biến. Theo duyên mà không thay đổi. Ðiều quan trọng nhứt là đừng
sinh lòng nóng giận, vì nóng giận thì tức là biến, là thay đổi. Con người
muốn liễu sinh tử thì phải chịu nỗ lực. Nỗ lực tức là sao? Nghĩa là làm
bất cứ việc gì đều phải hết sức chân thật. Khi gặp điều tai họa, chuyện
nghịch ý, rắc rối thì đừng động tâm, đừng sinh lòng bực tức nóng giận. Ðó
tức là nuôi dưỡng cái tánh Trời, tánh Ðất trong người mình. Làm đặng như
vậy thì có thể vá trời lấp biển, trở thành kẻ chân chánh tu đạo, chân
chánh học Phật cầu Pháp. Cho nên cần phải nghiên cứu một cách rõ ràng sâu
sắc, không nên chấp trước mọi chuyện mọi việc. Hễ chấp trước thì mình
không giải thoát, tự tại. “Khám phá, phóng hạ, tự
tại.” Khám phá tức là nhìn suốt; phóng hạ tức là buông xả, vất bỏ. Hễ
khám phá thì hiểu suốt rõ ràng mọi sự; hễ phóng hạ thì giải thoát; hễ giải
thoát thì mới chân chánh tự tại. Không giải thoát thì không thể tự tại
được. Tự (mình) mà không tại tha (kẻ khác) tại. Tha tại tức
là vọng tưởng đầy dẫy. Nếu theo mặt chữ mà nói thì đầy ý nghĩa: Tha tại
tức là người khách chiếm đoạt cương vị người chủ; người chủ bây giờ không
còn làm chủ nhà nữa. Các vị chú ý điểm đó; Người chủ mà không quản lý được
nhà mình thì thật là điên đảo. Chuyện gì cũng sẽ không có quy củ. Phóng hạ tức là
giải thoát, nghĩa là đã tốt nghiệp trường Giới Luật rồi và đã ra khỏi
phiền não, vô minh. Khi tốt nghiệp, lãnh bằng cấp chứng nhận tức là đã
giải thoát. Có giải thoát thì mới tự tại; nếu tự mà
không tại thì tha tại. Giặc mà lại thì bao nhiêu vật báu trong nhà
đều bị y vét sạch cả. Tha tức là vô minh, vọng tưởng, phiền não,
thiên ma, ngoại đạo, quỷ quái. Nếu mình không thể chăm sóc được nhà cửa
của mình thì đương nhiên kẻ khác sẽ chiếm đoạt. Cho nên các vị phải hết
sức chú ý, cẩn thận: nhất định là phải tự tại! Nhưng muốn tự tại thì trước hết mình phải nhìn cho
xuyên thủng, phải thấu suốt rõ ràng mọi sự: “Nguyện
tiêu tam chướng, trừ phiền não, Nguyện
đắc trí huệ chân minh liễu, Phổ
nguyện tội chướng tất tiêu trừ, Thế thế
thường hành Bồ Tát đạo.” Dịch là: “Nguyện
tiêu ba chướng, sạch phiền não, Nguyện
đạt trí huệ thật suốt rõ, Tất cả
tội chướng nguyện tiêu trừ, Ðời đời
luôn tu Bồ Tát Ðạo.” Ðó là tự tại, tự
mình làm chủ chính mình. Nếu muốn giải thích một cách sâu sa thì tự
mà không tại tức là Phật tánh không hiện tiền; khi đó ma vương ngự
trị bên trong nhà và chính mình bị lục tặc xâm phạm, nên dù muốn về nhà
cũng không về đặng. Do đó từ sáng đến tối mình cứ luôn luôn có ý nghĩ phạm
giới. Tuy chưa thật sự phạm giới nhưng lúc nào cũng có tư tưởng phạm giới,
vậy không phải ngu si là gì? Cho nên tự mà không
tại thì bị giặc xâm phạm; tự mà tại thì mới làm được
chủ nhà mình. Tự mà không tại thì không tự chủ, cứ như bị
dòng nước trôi, tùy theo cảnh giới mà luân chuyển. Hợp với người mà không
a dua với đám đông. Ðó là ý nghĩa không bị cảnh giới làm lay chuyển. Cho
nên kẻ tu hành dụng công chẳng ở đâu khác: ngay nơi thân này, nơi mạng
này, nơi tánh này. Làm chuyện gì mình cũng phải thấu suốt rõ ràng. Ðược
vậy mình sẽ không làm chuyện hồ đồ mà sẽ đạt đến chỗ tri hành hợp nhất! (Vạn Phật
Thành ngày 30 tháng 9 năm 1982) Thời Mạt Pháp là thời
“ma cường pháp nhược”, thế lực của ma càng ngày càng mạnh, thế lực của
Phật thì càng thu hẹp. Phật không chú trọng đến thế lực mà chú trọng đến
oai đức. Lúc phước báu của chúng sinh còn lớn thì lúc đó “pháp mạnh ma
yếu”; lúc phước báu của chúng sinh mà ít thì “ma mạnh pháp yếu”. Hiện tại toàn thể nhân loại giống như một trái núi
do nhiều quả trứng nhỏ bé hợp thành vậy. Nếu một quả trứng nào bể thì cả
núi trứng sẽ sụp đổ. Cho nên sinh mạng của con người thật sự bị đe dọa.
Chính vì vậy nên ở chỗ nào cũng thấy ma vương và bè lũ quyến thuộc của nó. Chân lý nói ra thì chẳng
có người nghe, song điều tà nói ra thì không biết bao nhiêu người tin
theo! Như lúc giảng kinh thuyết pháp này thì tuy có người đến nghe song họ
rất miễn cưỡng, không phải thật sự vui vẻ mà nghe; nhưng nói đi nghe ca
hát, đi coi chiếu bóng, đi khiêu vũ thì tranh nhau đi, cho đó là điều hay
nhất tốt nhất. Các vị có thể thấy: Lòng người không như xưa nữa, đạo đức
đã suy đồi! Ðiều đó cho thấy ma vương đã dùng thế lực và “ma thông”
để nhiễu loạn thế giới! Hiện tại yêu quái lớn nhất
là điện não (computer). Sau khi máy này được phát minh thì
con người trở thành phế vật, không còn chỗ dùng nữa bởi vì máy điện não có
thể giải quyết mọi vấn đề. Ðiện não làm cho con người tê cứng đi không còn
lòng nhân nghĩa, cũng làm cho con người trở nên ủy mị không còn phấn chấn
được nữa. Chuyện gì cũng chẳng hiểu được thấu đáo, như sinh ra trong
cơn say, chết đi trong giấc mộng. Cho nên điện não không phải là ma
quái là gì? Pháp thuật này là do trí khôn của ma quỷ mà phát sinh ra. Còn một thứ yêu quái khác
là truyền hình (T.V), một sản phẩm làm cho con người bị mê
hoặc không phân biệt được trắng đen, thị phi sự lý. T. V dạy trẻ nít làm
chuyện mê muội, điên đảo, làm sao để giết người đốt nhà, trộm cắp, cưỡng
dâm, hút ma túy. Ðó là điều do ảnh hưởng của T.V mà ra. Cho nên điện não
và T.V là hai thứ quái vật. Tuy là quái vật song người đời không nhận thức
rõ ràng, lại coi là của quý nên bỏ ra một số tiền lớn để mua về dùng. Lại còn một thứ quái vật
khác nữa là hỏa tiễn vệ tinh. Bởi vì loại vệ tinh này bắn
lên không trung rồi thì có thể hướng dẫn đầu đạn nguyên tử, khinh khí hay
tia laser để giết người. Tia laser tiếng Trung Hoa gọi là tử quang, là một
danh từ hết sức không tốt. Bởi vì tử quang có nghĩa là ánh sáng
giết người. Ðây cũng là một thứ do ma vương phát minh ra để tiêu diệt nhân
loại. Ngoài ra con người còn dùng mọi phương pháp để giúp sức cho quái vật
này, phóng ra đủ thứ khí độc để làm ô nhiễm con người, làm cho con người
lạc vào mê hồn trận, đông tây nam bắc không còn phân biệt là đâu nữa. Ðó
là do quyền lực của bọn ma này làm ra. Hiện tại có một loài ma từ
không gian tới muốn hủy diệt thế giới, với mọi thủ đoạn để tiêu diệt nhân
loại. Chúng tung ra độc khí, hễ trúng vào ngũ cốc lúa gạo thì người ăn vào
trúng độc; hễ trúng vào súc vật thì người ăn thịt của chúng cũng trúng
độc. Hễ trúng vào cá, hải sản thì người ăn cũng trúng độc, sinh ra đủ thứ
bịnh ung thư rồi chết. Chúng ma này còn dùng chất
độc có tác dụng chậm, bôi trên đồ vật mình dùng hàng ngày như là giấy vệ
sinh chẳng hạn. Giấy vệ sinh có mùi rất thơm làm người ta thích dùng, song
lại có hại vô cùng, bởi vì nó sinh ra bịnh ung thư hoặc các bịnh khác. Xưa
kia con người không có dùng giấy vệ sinh thơm tho và cũng không có nhiều
thứ quái bịnh như bây giờ. Nhưng thứ độc dược nguy
hại nhất chính là đồng tiền giấy mà không ai có thể xả bỏ được. Trên tiền
giấy có thứ độc dược, con người mà đụng tới nó thì sinh ra bịnh tham lam
đến nỗi chuyện gì cũng phải cần tiền nhiều. Bất luận là ăn là ở, muốn làm
cái gì cũng càng nhiều tiền càng tốt; nên chỉ tìm đủ cách để kiếm tiền.
Khi đầu óc lúc nào cũng nghĩ tới tiền thì sẽ sinh ra bịnh ung thư mà cái
độc này thì không có gì cứu nổi. Ở trong Tam thiên, Ðại
thiên thế giới, bởi vì có chư Phật ở nơi Vạn Phật Thành nên ta mới có thể
viễn ly được độc khí đó. Các vị học Phật ở đây phải không tranh, không
tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối thì mớI không
bị trúng độc của đồng tiền. Các vị không ăn thịt, chỉ
ăn chay thì cái độc trong thịt cũng không xâm nhập vào ngườI được. Chay
lạt từ thực vật thiên nhiên, bản chất nó có sức giải độc, cho nên bất luận
là yêu ma quỷ quái phóng độc gì nếu ăn chay một thờI gian thì chất độc đó
tự nhiên tiêu giải; do vậy ăn chay là phương pháp tốt nhất để kiện khang,
trường thọ. Hôm nay nói các vị nghe
rồI, sau đây các vị hãy suy nghĩ coi thử mình có phạm vào lỗi lầm gì
không, nếu có thì mau mà cải đổi. Ðừng nên tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự
lợi, nói dối. Nếu bỏ sáu tập khí xấu xa đó đi rồi thì không thể trúng độc
được. Ðiều quan trọng nhất là
phải quét sạch đi rác rưởi của chính mình. Quét sạch tâm hận, oán, não,
nộ, phiền. Hễ ai còn lòng tạp nhiễm trên thì rác rưởi trong lòng người đó
còn chưa quét sạch. Tâm mình mà sạch sẽ thì tự nhiên không hận ai, không
oán ai, không sinh lo buồn, phiền não, không có nổi giận, cũng không sinh
lòng phiền hà gì ai cả. Phàm là đệ tử quy y tôi, bất luận là tại gia hay
xuất gia, chân chánh tin tưởng tôi thì phải biết cải thiện thói quen lỗi
lầm của mình. Phải đổ sạch thùng rác trong tâm mình như vậy thì thời đại
Mạt Pháp này mình có thể phóng hào quang làm cho thế giới được sáng lạng.
Thế giới này sớm hay muộn sẽ hủy hoại, song nếu có người chân chánh tu
hành thì thế giới tăng thêm chánh khí, giảm bớt tà khí; thế lực của Phật
sẽ mạnh hơn, thế lực của ma sẽ yếu đi. Các vị đừng coi lời nói
của tôi giống như gió thổi qua tai, bởi nó rất trọng yếu và quan hệ thiết
thực tới vấn đề hiện tại. (Vạn Phật
Thành ngày 2 tháng 10 năm 1982) Chúng sinh trong thế giới có nhiều loài khác nhau.
Mỗi một vị Phật thì có quyến thuộc của vị đó; mỗi quyến thuộc lại có vô số
chủng loại khác nhau. Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn các ngài thì cũng vậy.
Ðó là bốn pháp giới của chư Thánh Hiền. Mình là phàm phu thì sự cách biệt
giữa mình với các Thánh rất là xa, khó mà diễn bày đặng trình độ và trí
huệ của các ngài. Hiện đang nói về sáu Pháp
Giới của kẻ phàm, thì trên cả là Pháp giới loài Trời. Trời cũng có đủ thứ
bất đồng. Trời cộng thêm A Tu La và loài Người, là ba Thiện Ðạo. Ba Ác đạo
là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; mỗi thứ đều có đủ thứ quyến thuộc của
chúng với đủ thứ thiên sai vạn biệt. Ở mỗi loại còn phân ra đủ thứ chủng
loại khác nhau nữa. Mười Pháp giới từ đâu lại? Chúng từ nơi một tâm niệm
hiện tại của mình (hiện tiền nhất niệm tâm)! Cái tâm có thể tạo ra Pháp
giới, tâm có thể tạo ra vạn vật, tâm có thể tạo ra đủ thứ hình tướng, đủ
thứ chủng loại: Nhất thiết duy tâm tạo. (Mọi thứ đều do tâm tạo
ra.) LạI nói: “Nhược nhân dục liễu trí, Tam thế
nhất thiết Phật, Tam thế
nhất thiết chư Bồ Tát, Tam thế
chư Thanh Văn, Tam thế
chư Thiên, Ðại,
Tiên, Nhân, Chủng
chủng A Tu La, Chủng
chủng chư Súc sanh, Chủng
chủng chư Ngạ quỷ, Chủng
chủng chư Ðịa ngục, Ưng quán
Pháp giới tánh, Nhất
thiết duy tâm tạo.” Nghĩa là: “Nếu
người muốn rõ biết, Ba đời
tất cả Phật, Ba đời
chư Bồ Tát, Ba đời
chư Thanh Văn, Ba đời
chư vị Trời, Ðại Tiên
cùng với người, Các loại
A Tu La, Vô số thứ
Súc sanh, Vô số
loại Quỷ đói, Vô số lớp
Ðịa ngục, Nên quán
tánh Pháp giới, Mọi thứ
do tâm tạo.” Cái tâm có thể tạo ra Thiên đường, tạo ra Ðịa ngục.
Tâm làm mình thành Phật, Tâm có thể làm mình thành Ngạ quỷ, thành Súc
sanh, đọa Ðịa ngục, thành Bồ tát, Thanh Văn. Vì mọi thứ do tâm tạo, nên
mọi thứ đều chỉ ở nơi tâm này. Nếu tâm muốn thành Phật thì Phật Pháp giới
là quyến thuộc của mình. Các Pháp giới còn lại cũng như thế. Mọi thứ không rời khỏi tâm
này, vì tâm này tạo ra mọi thứ: cho nên các vị chú ý: đi, đứng, nằm, ngồi
lúc nào cũng phải biết “khắc kỷ phục lễ” (chế phục chính mình theo
đúng lễ nghĩa). Mình chỉ làm điều chân thật không làm điều hư ngụy, cẩu
thả bê bối; phải tránh trường hợp: Chỉ nhân nhất trước thác, thâu liễu
mãn bàn kỳ. (Chỉ đi sai một nước, mà thua cả ván cờ.) Tạo Pháp giới của Phật thì
phải có lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả; biết lợi ích chúng sinh, song không chấp
trước rằng có chúng sinh. Ðừng dụng công hời hợt, tu ngoài da; phải thật
sự từng bước từng bước mà dụng công. “Tại sao tôi muốn tạo
Pháp giới của chư Phật? Nếu tạo không xong thì sao?” Chỉ do tâm niệm
không chuyên nhất, ý chí không kiên cố, cứ tùy theo duyên mà xoay chuyển
rồi bị cảnh giới dẫn dắt, cho nên mình mới quên mất mọi chuyện: Quên mất
là mình phải tạo Phật, tạo Bồ Tát, tạo bốn thứ Thánh, do vậy mình chỉ biết
tạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cho nên nói rằng: Niệm động bách sự
hữu, niệm tịnh vạn sự vô. (Tâm động thì trăm sự đều có, tâm tịnh thì
vạn sự đều không.) Lại nói rằng: “Tâm chỉ niệm tuyệt: chân phú quý, Tư dục đoạn tận: chân phước điền!” Nghĩa là:
“Ý niệm dứt, tâm dừng, chính là giàu sang, Lòng tư dục đoạn tuyệt mới là ruộng phước!” Có người hỏi: Vì sao ma
không phải là một Pháp giới? Trả lời: Ma thì giống như là bọn thổ phỉ
hay là du kích, lúc nào cũng lưu lạc trong bốn phương, không có xứ sở nhất
định, cũng không có người cai quản. Kẻ cướp là loài người nhưng không phải
người nào cũng là kẻ cướp. Cho nên không nói pháp giới của loài cướp. Ðạo
lý này giải thích loài ma cũng tương tự như vậy. Trên trời cũng có ma.
Trong A tu La cũng có ma. Thành phần thiện thì thuộc một pháp giới, thành
phần không thiện thì thuộc về ma giới; vì ma biến khắp cả Lục phàm Pháp
giới, thậm chí nó có thể biến hóa, xâm nhiễm phá phách Tứ Thánh Pháp Giới. Phật hay ma đều là do một
niệm sai mà ra. Phật thì có tâm từ bi, ma thì có tâm tranh thắng. Giống
như Ðề Bà Ðạt Ða là người có tâm thắng phụ rất mạnh, lúc nào cũng muốn
cùng Phật đấu tranh, song Phật thì không tranh với ông ta. Ðề Bà Ðạt Ða
cũng có Phật tánh, bất quá y lỡ bước, lầm đường lạc lối quá sâu, không thể
quay đầu lại nên mới rơi vào ma giới. Theo tinh thần Ðại thừa, Phật vì
giáo hóa loài ma cho nên cũng thị hiện thân ma để giáo hóa loài ma. Ma thì
biến khắp lục phàm pháp giới nên không cần thiết phải lập thêm một pháp
giới. Tuy biến khắp các pháp giới nhưng đó là thứ giả, hư ngụy, không
thật. Giống như ở đời có kẻ tự mình chiếm hòn núi, tự mình xưng vương;
giặc cướp cũng mạo xưng là quân đội nhưng đi tới đâu là phóng hỏa giết
người tới đó. Ma cũng tương tự như vậy! (Vạn Phật
Thành ngày 7 tháng 10 năm 1982) Lão tử nói rằng: Quân tử
hữu tạo mệnh chi học, Mệnh do
ngã lập, Phước tự
kỷ cầu. Họa phước
vô môn, Duy nhân
tự chiêu.” Nghĩa là: “Quân tử
có cái học tạo mệnh, Mệnh do
mình lập, Phước do
mình cầu. Phước với
họa chẳng có cửa, Chỉ do
mình tự chiêu cảm lấy.” “Quân tử hữu tạo mệnh
chi học.” Trời, Ðất, Người gọi là Tam Tài. Người là đại biểu của trời,
đất; trời không thể nói được mà đất cũng không thể nói được. Chỉ có người
mới có ngôn từ, có động tác. Sinh mạng con người không phảI là nhất định,
nhưng cũng có thể là nhất định. Tại sao nhất định? Cũng như là mình chia
đồ vật vậy: Anh một phần, tôi một phần; đó gọi là nhất định. Thế nào là
không nhất định? Giống như đồ vật của anh thì anh dùng hết rất mau, mà đồ
vật của tôi thì tôi không dùng cho nên vẫn còn nguyên; đó gọi là không
nhất định. Cho nên nói: “Quân tử có cái học tạo mệnh.” Khi sinh ra, chẳng ai kêu
mình làm chuyện ác cả, song mình cứ làm ác; đó là mình tự cải biến vận
mạng của chính mình. Sinh ra chẳng có ai kêu mình làm chuyện thiện cả
nhưng mình cứ làm chuyện thiện thì đó là mình siêu thoát ra khỏi vận mệnh.
Thí dụ như khách bộ hành muốn đi hướng đông thì nhắm hướng đông mà đi,
muốn đi hướng tây thì nhắm hướng tây mà đi. Mệnh vận của người quân tử thì
rất linh hoạt chứ không phải là cứng ngắc; tất cả mọi chuyện đều do nơi
tay mình làm nên, bởi thế: “Quân tử có cái học tạo mệnh.” “Mệnh do ngã lập.”
Mình có thể cải biến vận mệnh của chính mình. Nếu như khi có bệnh mà biết
giữ gìn thì không đi đến tình trạng nguy hiểm đến tánh mạng. Ðó là tự mình
có năng lực kiểm soát chính mình, không phải ỷ lại người khác. Ðáng lẽ
phải sống chết luân chuyển trong Lục đạo, nhưng nếu biết tu đạo thì có thể
siêu thoát ra khỏi vận mệnh, cắt đứt vòng sinh tử; đó cũng gọi là tạo
mệnh. “Phước tự kỷ cầu.”
Phước từ nơi mình mà cầu: Nếu mình biết tu phước thì có phước, biết tu huệ
thì có huệ. Phước huệ cùng tu thì càng tốt hơn nữa. Tu phước thì phải hướng về
bên trong mà cầu; cầu nơi chính mình coi thử mình có đức hạnh hay không.
Có đạo đức là có phước, không đức hạnh là kẻ vô phước. Quân tử cầu nơi
chính mình, tiểu nhân thì cầu cạnh nơi người khác. Tiểu nhân lúc nào cũng
hướng ra bên ngoài mà cầu. “Họa phước vô môn. Duy
nhân tự chiêu.” Họa phước không có cửa ra vào, chỉ do mình tự chuốc
lấy; có nghĩa là: Bịnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất. (Bịnh từ
miệng mà vào, họa từ miệng mà ra.) Con người gặp phải đủ thứ tai họa, hoạn
nạn là do ăn nói bậy bạ mà ra. Kẻ ham ăn vị ngon, cá thịt, gà vịt, đồ biển
… tuy rằng nhất thời sướng cái miệng song sẽ mang nhiều bịnh tật. Khi ăn
ngon thì thấy ngon thiệt nhưng dần dà khi chất độc ngấm vào sinh bịnh thì
sẽ hết thuốc chữa! Hiện tại thịt động vật có chất độc mà không có thuốc
nào chữa được, cho nên khi ta ăn thịt thì thứ độc ấy truyền vô người mình.
Thực vật là loại không có sinh mạng nên dù có chất độc thì cũng rất ít.
Chất độc trong thịt là 100%, còn độc trong đồ chay chỉ có 1%, cho nên có
thể nói rằng ăn thịt với ăn chay khác nhau một trời một vực. Các vị học Phật pháp đừng
nên tham ăn đồ ngon, đừng tham ngon miệng. Sau một thời gian ăn chay, chất
độc trong ngườI có thể bài tiết ra hết mà không mắc phải những bịnh quái
gở. Hy vọng các vị chú ý nghiên cứu lời tôi nói. Thời đại bây giờ vô cùng
tệ hại nên mọi người hãy mạnh dạn khuyến khích nhau đừng sát sinh mà phải
bảo vệ sinh mạng thì mới tránh được họa diệt vong. Mong các vị hãy thận
trọng và hãy tự chế.
Tất cả thịt của chúng sinh đều có chất độc. Chất
độc này không phải một ngày một đêm tích tụ mà thành, cũng không phải mới
một đời một kiếp mà có. Chất độc ấy tích lũy trong nhiều kiếp, từ sự hỗ
tương tàn sát giữa người với ngườI đã tạo thành một thứ oán độc mà chẳng
thể nào xóa bỏ được. Khi mình giết súc vật thì
cũng tạo ra một thứ oán hận trong tâm chúng; lúc gần chết vì quá khủng
khiếp và sợ hãi nên chúng nảy sinh long cừu hận muốn báo thù. Bởi vậy từ
nơi lòng oán hận phẫn uất ấy phát tiết ra một độc tố thấm suốt da thịt
chúng nên hễ ai ăn thịt chúng thì giống như là ăn chất độc vậy. Lúc ăn thì
không thấy hại nhưng dần dà sẽ mắc đủ chứng bịnh kỳ quái mà chẳng có thuốc
gì cứu nổi. Thời đại bây giờ thì oán
khí đầy trời. Oán khí đó so với đầu đạn nguyên tử thì lợi hại hơn nhiều,
bởi vì nó vô hình vô tướng song có thể tận diệt toàn thể nhân loại. Có bài kệ rằng: “Thiên
bách niên lai oản lý canh, Oán thâm
tự hải hận nan bình. Dục tri
thế thượng đao binh kiếp, Thả thính
đồ môn dạ bán thanh!” Dịch là: Ngàn năm
oán hận ngập bát canh, Oán sâu
như biển hận khó tan. Muốn biết
vì sao có chiến tranh, Hãy nghe
lò thịt lúc nửa đêm!” Trăm ngàn năm nay miếng thịt trong bát canh chứa đựng
sự oán hận sâu như biển, khó mà san bằng được. Nếu các vị muốn biết nguyên
nhân của chiến tranh trên thế giới này thì hãy lắng nghe tiếng kêu thảm
thiết của những con vật nơi nhà kẻ đồ tể vào lúc nửa đêm. Cho nên cổ nhân
nói ra bài kệ này là có nhân duyên, có căn cứ. Chúng ta phảI thấu triệt
đạo lý đó thì mới có thể trị được tật bịnh của chính mình.
Ðó là công phu mà mình phải tập, khi ma chướng lại thì mình không có đối
đầu với chúng, mình chỉ nhịn thêm một chút khổ cũng chẳng hề chi; mình
phải phát nguyện độ bọn ma đó, làm cho chúng quy y Tam Bảo, phát tâm Bồ Ðề.
Ðối với người nào cũng vậy, đừng sinh ra lòng oán cừu, được vậy thì mình
có thể biến gươm giáo thành ngọc cẩm, biến cừu hận thành an tường. Do đó
phảI luôn tìm đến điểm tốt nơi bề xấu của sự tình. Cho nên nói: “Hành
hữu bất đắc, Tắc phản cầu như kỷ.” (Làm mà không xong thì phải quay
ngược về mình mà làm.)
--- o0o ---
--- o0o ---
Nguồn: www.quangduc.com