.
Mười Hai Nhân Duyên
(Thập nhị nhân duyên)
Thích Tâm Hải
A) DẪN NHẬP
Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của
giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bổ tát Tất
Đạt Đa (Siddhartha) thể chứng dưới cội bổ đề sau 49 ngày tư duy thiền
định, từ đó Ngài trở thành một bậc Giác ngộ hoàn toàn.
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù, là điểm
xác định sự khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lõi
của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh
điển. Nhận thức rõ về giáo lý mười hai nhân duyên sẽ giúp người học Phật
hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như nghiệp, luân hổi tái sinh, nhân
quả... đổng thời gợi mở một hướng sống tích cực cho mổi cá nhân trong hiện
tại.
B) NỘI DUNG :
I/ Định nghĩa :
1- Thế nào là nhân
duyên ?
Nhân là yếu tố quyết định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một
hiện hữu. Duyên là điều kiện hôrợ, tác động làm cho nhân sinh khởi. Ví dụ
: hạt lúa là nhân của cây lúa ; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt
trời, người gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành
cây lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn nhiều, đặc
biệt là trong thế giới tâm thức ; và, nhân duyên nói cho đủ là nhân -
duyên - quả.
"Nhân duyên" trong "mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi" :
sự nương tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói chính xác
là "do cái này có mặt, cái kia có mặt ; do cái này không có mặt, cái kia
không có mặt ; do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái này diệt, cái kia
diệt".
2- Mười hai nhân
duyên là gì ?
Trong kinh Tương Ưng Bộ II (Samyutta Nikàya), Đức Phật đã thuyết minh về
mười hai nhân duyên (Duyên khởi) như sau : "Do vô minh, có hành sinh ; do
hành, có thức sinh ; do thức, có danh sắc sinh ; do danh sắc, có lục nhập
sinh ; do lục nhập, có xúc sinh ; do xúc, có ái sinh ; do ái, có thủ sinh
; do thủ, có hữu sinh ; do hữu, có sinh sinh ; do sinh sinh, có lão tử,
sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khỗ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên
khởi".
"Do đoạn diệt (2) tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt ; do hành
diệt nên thức diệt ; do thức diệt nên danh sắc diệt ; ... ; do sinh diệt
nên lão tử, sầu bi, khỗ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khỗ uẩn đoạn
diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt". (tr 1-2)
Mười hai nhân duyên được Đức Phật định nghĩa gổm hai chiều hướng : chiều
hướng sinh khởi (còn gọi là lưu chuyển : do vô minh, hành sinh...) và
chiều hướng đoạn diệt (còn gọi là hoàn diệt : do đoạn diệt tham ái, vô
minh một cách hoàn toàn nên hành diệt...). Khi mười hai nhân duyên được
thành lập (tập khởi), nghĩa là năm uẩn (3) tập khởi, và đây là chiều hướng
của khỗ đau, luân hổi. Khi mười hai mắc xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì
cấu trúc năm uẩn cũng tan rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát.
Năm uẩn chính là cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con
người tự nó nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
Theo cách trình bày trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguổn cội,
cốt lõi của mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là
nguyên nhân đầu tiên của chuổi liên kết đó. Bởi Đức Phật dạy, vô minh cũng
do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên (tích cực) thì vô
minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ ; đây là ý nghĩa "vô minh diệt,
minh sinh".
Cũng cần lưu ý đôi chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi
này. Định nghĩa được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách
trình bày tiêu biểu nhất, gổm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một số bản kinh
khác, như kinh Đại Duyên (Trường Bộ kinh II), kinh Đại Bỗn Duyên (Trường A
Hàm I)... Đức Phật trình bày chỉ gổm 5, 8 , 10, 11 và đầy đủ nhất là 12
chi phần. Vấn đề này được các nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân
tích rất tỉ mỉ, và tất cả đều thống nhất, số mục 12 chi phần được xác định
qua nội dung thiền quán của Đức Phật dưới cội bổ đề. Đây là dạng thức
chính xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự sai khác về
số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo hóa linh động của Đức
Phật, Ngài tùy thuộc vào trình độ của người nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy
đủ. Điều này sẽ được làm sáng tỏ ở phần nói về sự vận hành của mười hai
nhân duyên.
Đối tượng nghe giáo lý mười hai nhân duyên là con người, vì nặng về tâm
luyến ái và chấp thủ, nên Đức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này,
đặc biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi ái
(hay bất luận một chi phần nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc 12 nhân duyên
hình thành ; và ngược lại, khi chi phần ái hay thủ (hoặc một chi phần bất
kỳ) đoạn diệt, lập tức chuổi mắc xích 12 nhân duyên tan rã. Đây cũng là ý
nghĩa, mà trong luận Đại Tỳ Bà Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần
cũng được, hai, ba, ... cho đến 12 chi phần cũng được.
II) Ý nghĩa của
mười hai chi phần nhân duyên :
1- Vô minh (Avijjà) : sự mê mờ, cuổng si của tâm thức ; hay
nói cách khác là sự không hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô
thường và không có một tự thể độc lập, bất biến.
2- Hành (Sankhàra) : động lực, ý chí hành động tạo tác (ý
hành) của thân, miệng và ý.
3- Thức (Vinnana) : tri giác của con người về thế giới thông
qua các cơ quan chức năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ
thức), lưỡi (thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức).
4- Danh sắc (Nàma - rùpa) : sắc là phần vật lý và sinh lý,
danh là phần tâm lý. Với con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác quan
và chức năng của chúng ; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác
ý, thọ, tưởng và tư.
5- Lục nhập (Chabbithàna) : có nơi gọi là sáu xứ, là sự
tương tác giữa 6 căn (= 6 nội xứ : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối
tượng của chúng là 6 trần (= 6 ngoại xứ : hình thể, âm thanh, hương vị,
mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp).
6- Xúc (Phassa) : sự gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các
căn (chủ thể) và trần (đối tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc
giữa con người và thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có
thức phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc trần), thì sự nhận biết
đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa giữa căn, trần
và thức.
7- Thọ (Vedanà) : sự cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng
tâm lý phát sinh khi mắt tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm
thanh... ý tiếp xúc với ý tưởng (pháp).
Cảm thọ có ba loại : cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khỗ thọ)
và cảm thọ trung tính (phi khỗ phi lạc). Đây là chất liệu mà con người
thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khỗ đau, bất
hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đỗi, không hề có một tự
tính cố định.
8- Ái (Tanhà) : gọi đủ là ái dục hay khát ái : sự vướng mắc,
yêu thích, tham luyến; gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
9- Thủ (Upadàna) : gọi đủ là chấp thủ : sự kẹt vào, bám víu,
đeo chặt của tâm thức vào một đối tượng.
10- Hữu (Bhava) : tiến trình tương duyên để hình thành, gổm
dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
11- Sinh (Jati) : sự ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây
không phải là sự sinh ra em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành
(năm uẩn), thành tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức năng của chúng).
12- Lão tử (Jaramrana) : sự suy nhược, tàn lụi, tuỗi thọ
lớn, tan rã, tiêu mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được biểu
hiện dưới các hiện tượng : răng lung, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan tri
giác suy yếu và chết.
III) Sự vận hành
của mười hai nhân duyên :
Thông qua ý nghĩa của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi
phần lục nhập, một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là
giáo lý nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan
tri giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên cũng
chính là nói về sự vận hành con người.
Vì
không nhận biết hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp
mà sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng, nên con
người ảo tưởng về một tự ngã : đây là cái tôi và đây là cái của tôi (Vô
minh). Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi
lòng tham ái, chấp thủ... Và đó là động cơ cho các hành động của thân, lời
và ý (Hành). Mổi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự
hiện hữu của Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau
(Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay khi căn, trần và
thức giao thoa nhau ; cảm thọ sẽ tuôn chảy như một dòng thác mà không một
năng lượng nào có thể ngăn cản được, vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ
bao gổm những phản ứng tâm lý trước đối tượng như là buổn, vui, yêu, ghét,
trung tính... Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã
bao hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng với
các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mổi khi đã có Sinh,
thì tiến tình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành như một hệ quả đương
nhiên : nghĩa là lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não ; hay khỗ đau có mặt. Đó là
sự vận hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) -
chiều vận hành này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác
đi, đây là con đường của khỗ đau, luân hổi được dẫn dắt và chi phối bởi vô
minh.
Trong phần thuyết minh về mười hai nhân duyên, Đức Phật không chỉ nêu lên
con đường tập khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra nguyên nhân
tập khởi và con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mổi khi đoạn diệt bất kỳ một
chi phần nào trong chuổi 12 mắc xích (nhân duyên), thì lập tức nó tự tan
rã. Tuy nhiên, với con người, tham ái và chấp thủ là nặng nề nhất ; nên
đoạn tận tham ái hoặc chấp thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn
lý do để hiện hữu. Đó là ý nghĩa của lời Phật dạy : "Ái diệt tức Niết
bàn".
Sự
vận hành của mười hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình
thành một sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối cùng),
mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn nguyên có
mặt của con người (và cuộc đời) ; nó không bị giới hạn bởi thời gian và
không gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô minh chưa được đoạn tận thì
con người vẫn bị chi phối bởi sự vận hành của mười hai nhân duyên - nghĩa
là vẫn luẩn quẩn trong luân hổi, khỗ đau bất tận - khi 12 nhân duyên đoạn
diệt, đổng nghĩa với toàn bộ khỗ uẩn đoạn diệt.
IV) Một số cách
giải thích về mười hai nhân duyên :
Mười hai nhân duyên, hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là
sự thật nên không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Đức Phật
khẳng định rằng : "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật này
không thay đỗi dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện". Một hiện hữu
dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ trụ cũng không nằm
ngoài nguyên lý này. Với đặc tính đó, giáo lý mười hai nhân duyên có thể
dùng để soi sáng nhiều vấn đề khác trong cuộc đời như luân hổi, nhân
quả... tùy thuộc theo góc quan sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới
thiệu 4 cách giải thích phỗ biến.
1- Dạng thức tổng
quát :
"Do cái này có mặt, cái kia có mặt ; do cái này không có mặt, cái kia
không có mặt ; do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái này diệt, cái kia
diệt". (Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái quát,
tóm tắt và đơn giản nhất do chính Đức Phật nói. Nó được xem như là một
nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng. Nói chính xác hơn,
nếu mười hai nhân duyên là dạng thức duyên khởi riêng về con người, thì
dạng thức tỗng quát nói về bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là
thế giới không có tình thức (khí thế giới).
2- Ba đời hai tầng
nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả) :
Ba
đời là quá khứ, hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này,
vô minh và hành thuộc về quá khứ ; hiện tại gổm có 8 chi phần (từ thức đến
hữu) ; sinh và lão tử thuộc về vị lai. Mặt khác, thức, danh sắc, lục nhập
được xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là vô minh và hành, đây là tầng
nhân quả thứ nhất. Các chi phần thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại cho
quả vị lai là sinh và lão tử ; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp
giữa 2 lớp nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ chặt
chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian : quá khứ - hiện tại - vị lai. Qua
cách giải thích này, ý đổ dùng giáo lý mười hai nhân duyên để giải thích
luân hổi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách phân chia như trên sẽ dễ đưa đến
một ngộ nhận, như là vô minh và hành chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp
theo chỉ có ở hiện tại, sinh và lão tử thì thuộc về tương lai (!). Thực
ra, trong hiện tại (và ngay trong mổi chi phần) đã có mặt vô minh. Khi một
chi phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của mười một chi phần còn
lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12 chi phần nhân
duyên tự sụp đỗ. Như đã phân tích, mười hai nhân duyên là một dòng tương
tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào thời gian (quá khứ, hiện tại hay
tương lai). Cách giải thích này vô tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo
lý mười hai nhân duyên - một giáo lý vốn được xem là rất thâm áo và tinh
tế.
3- Nhân quả đồng
thời :
Khi nói "Do vô minh, hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh
ra. Giữa vô minh và hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính, đơn phương
; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện hữu tùy thuộc vào
yếu tố thời gian (trước - sau). Cách giải thích này nói rằng, ngay trong
một sát na (4) đã có sự hiện hữu đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm
lệch lạc về một cái tôi và cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt
chuổi nhân quả tương tục : ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và
chấp thủ (thức)... đến lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não. Mổi một chi phần vừa
là quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng lẫn nhau.
4- Sự hiện hữu của
một đời sống con người (mạng căn) :
Một trong 3 yếu tố quyết định để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu
nghiệp thức đi đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh và hành
trong quá khứ. Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm danh sắc có mặt.
Lục nhập là giai đoạn thai nhi hình thành đầy đủ các căn. Giai đoạn trẻ bú
mớm là giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3-5 tuỗi là lúc thọ hình thành. Từ đây
trở về trước, theo lối giải thích này, là biểu hiện của nghiệp quá khứ,
trẻ chưa tác ý thiện ác để tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ biết vui,
buổn, ưa, ghét... là lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây mới là giai
đoạn mà trẻ tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân mạng mới ở tương lai
(sinh, lão tử).
V) Một số hệ
luận từ giáo lý mười hai nhân duyên :
1-
Con người (và cuộc đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên
không hề có một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ nhân
của cuộc đời mình, bởi giáo lý mười hai nhân duyên cho thấy sự thật :
"Không thể tìm ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào khác, làm
chủ vòng luân chuyển của đời sống ; chỉ có những hiện tượng diễn tiến, tùy
thuộc vào những điều kiện" (5).
2-
Con người và cuộc đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vô
thường), nên bên trong mổi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và
cuộc đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
3-
Khi một chi trong mười hai nhân duyên vận hành nghĩa là mười một chi phần
còn lại cũng vận hành. Điều này nói lên sự dung thông giữa cái "một" và
cái "tất cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian, thời gian, từ đó có thể
khẳng định có sự hiện hữu của các loại thần thông.
C) KẾT LUẬN :
1-
Mười hai nhân duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là
con người. Vì con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ nên Đức
Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu
tập vì mục đích giải thoát, giác ngộ.
2-
Mười hai nhân duyên, hay duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối
trị chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới ; mà đây là sự thật và là một
pháp tu tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lý này là
căn bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát chánh đạo). Nói khác đi, chánh
kiến là cái nhìn toàn diện, như thật về các pháp là do duyên sinh.
3-
Vô ngã hay giải thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái trống trơn,
mà là sự trống rô ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách khác, đó là
trạng thái không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.
4-
Mọi giá trị trong cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là duyên
sinh, luôn trôi chảy và không thể nắm bắt.
5-
Hiện hữu hay cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa
con người với con người, giữa con người với môi trường xã hội, môi trường
tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xã hội
tốt đẹp, và ngược lại. Mổi người phải có trách nhiệm với cộng đổng, bởi
xây dựng cộng đổng chính là đang bảo vệ cá nhân mình.
6-
Mười hai nhân duyên, hay giáo lý duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô
cùng tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư duy hữu ngã
từ vô thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này đòi hỏi phải có sự
quán sát và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lý mười hai
nhân duyên (theo chiều đoạn diệt), chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến
cho hành giả một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong
hiện tại. Bởi như lời Phật dạy : "Ai thấy Duyên khởi là thấy
Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối
hậu, vượt ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi
vô minh, tham ái và chấp thủ này.
Chú thích:
(1) Còn gọi là Duyên sinh, Y
tha khởi : sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh khởi, hình thành, hiện
hữu ; tùy thuộc phát sinh.
(2) Diệt trừ, xả bỏ, chuyển hóa
(Pàli : uccheda)
(3) Hình thể (sắc), cảm thọ
(thọ), ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo tác (hành), và tri giác
hiện hữu (thức).
(4) Khoảng thời gian rất ngắn
giữa 2 biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với đơn vị thời gian là giây (Pàli :
khana).
(5) Thanh tịnh đạo luận
(Visuddhimagga)
CÂU HỎI :
1) Định nghĩa về các chi phần
trong mười hai nhân duyên.
2) Trình bày mối liên hệ và sự
vận hành của các chi phần nhân duyên đối với đời sống của con người.
3) Từ giáo lý mười hai nhân
duyên, bạn có suy tư gì về đời sống tu tập của cá nhân?
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục