Trong
Phần
Một
này
(gồm
13
chương),
tôi
sẽ
đề
cập
đến
những
nguyên
tắc
căn
bản
của
Phật
học.
Nó
gồm
có:
Cuộc
Sống
đức
Phật,
Tứ
Diệu
Ðế,
Bát
Chánh
Ðạo,
Nghiệp
báo,
Tái
sinh,
thuyết
Duyên
khởi,
Ba
Ðặc
tính
Phổ
biến
và
thuyết
Ngũ
uẩn.
Trước
khi
giải
rõ
các
đề
mục
này,
tôi
muốn
xin
nói
trước
là
Phật
học
hay
Phật
giáo
phải
được
mô
tả
không
phóng
đại.
Ðó
là
Phật
giáo
với
một
triển
vọng
cận
đại.
Con
người
qua
các
thời
đại
và
văn
hóa
khác
nhau
đã
tiếp
cận
Phật
giáo
và
tôi
tin
nó
sẽ
rất
hữu
ích
khi
ta
đối
chiếu
quan
điểm
cận
đại
với
quan
điểm
truyền
thống
của
Phật
giáo.
Khảo
sát
bằng
cách
so
sánh
được
xác
nhận
là
hữu
ích.
Nếu
hiểu
rõ
được
con
người
trong
quá
khứ
đã
quan
sát
một
hiện
tượng
đặc
biệt
như
thế
nào
thì
nó
sẽ
giúp
ta
thấy
được
sự
thiếu
sót
khi
ta
chỉ
xét
riêng
phần
mình. Phật
giáo
đã
làm
cho
Tây
phương
càng
ngày
càng
quan
tâm.
Nhiều
người
nổi
tiếng
trong
xã
hội
Tây
phương
là
Phật
tử
hoặc
có
thiện
cảm
với
Phật
giáo.
Có
thể
lấy
thí
dụ
điển
hình
về
lời
phát
biểu
của
khoa
học
gia
nổi
tiếng
thế
kỷ
XX,
Albert
Einstein.
Ông
nói
ông
không
thuộc
tôn
giáo
nào,
nhưng
nếu
ông
phải
chọn
một,
ông
sẽ
làm
Phật
tử.
Thoạt
nghe
có
thể
gây
ngạc
nhiên
vì
một
nhận
xét
như
vậy
lại
được
thốt
lên
bởi
một
người
được
xem
là
cha
đẻ
của
khoa
học
tây
phương
hiện
đại.
Tìm
hiểu
thêm
trong
xã
hội
Tây
phương
đương
thời,
ta
lại
có
nhà
vật
lý
học
thiên
văn
ở
Pháp,
tâm
lý
gia
Phật
tử
ở
Ý,
và
một
vị
thẩm
phán
người
Anh
nổi
tiếng
cũng
là
Phật
tử.
Sẽ
không
quá
đáng
khi
nói
rằng
Phật
giáo
đang
mau
chóng
trở
thành
cái
chọn
lựa
thích
hợp
của
người
Tây
phương.
Họ
là
những
người
thuộc
đẳng
cấp
cao
trong
lãnh
vực
khoa
học
và
nghệ
thuật.
Tôi
sẽ
đưa
ra
lý
do
về
vấn
đề
này.
Trước
khi
làm
chuyện
đó,
tôi
muốn
xin
so
sánh
tình
trạng
này
với
tình
trạng
trong
các
cộng
đồng
quốc
gia
có
truyền
thống
Phật
giáo.
Ðiển
hình
là
Ðông
Á
và
Ðông
Nam
Á
châu. Trang
4.
Ở
Âu
Mỹ,
Phật
giáo
thường
được
xem
là
có
tư
tưởng
tiến
bộ,
tinh
vi,
hợp
lý
và
chặt
chẽ.
Một
điều
không
muốn
che
dấu
là
khi
tới
vùng
Ðông
Nam
Á,
tôi
sững
sốt
nhận
thấy
rằng
nhiều
người
ở
đó
xem
Phật
giáo
là
lạc
hậu,
vô
lý,
lỗi
thời
và
mê
tín
dị
đoan.
Một
quan
niệm
sai
lầm
phổ
thông
khác
nữa
là
nó
quá
sâu
kín
và
trừu
tượng
đến
nổi
không
ai
có
thể
tìm
hiểu
được.
Ðây
là
hai
quan
niệm
nổi
bật
ngăn
cản
sự
đánh
giá
đúng
đắn
Phật
giáo
trong
các
cộng
đồng
Phật
giáo
ở
đó.
Có
thể
chính
nhờ
sự
tự
mãn
tri
thức
của
Tây
phương
nên
đã
cứu
người
Âu
Mỹ
khỏi
sự
lầm
lạc
nầy.
Nói
chung,
khi
xét
đến
các
quan
điểm
phổ
biến
của
Tây
phương
và
Ðông
phương
đối
với
Phật
giáo,
tôi
nhận
ra
một
sự
tương
phản
rỏ
rệt.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
tôi
muốn
bắt
đầu
việc
nghiên
cứu
Phật
giáo
với
một
số
cái
nhìn
khác
hơn
trước. Ở
phương
Tây,
Phật
giáo
có
một
hình
ảnh
khẳng
định
trong
đại
chúng.
Trái
lại,
trong
những
cộng
đồng
Phật
giáo
truyền
thống,
Phật
giáo
có
một
hình
ảnh
khác
biệt
hoàn
toàn.
Cái
thái
độ
xem
thường,
phổ
biến
trong
những
cộng
đồng
đó,
phải
nên
được
khắc
phục.
Chỉ
với
điều
kiện
như
vậy,
con
người
ở
đó
mới
có
khả
năng
thực
sự
bắt
đầu
đánh
giá
đúng
đắn
giáo
lý
của
Phật
giáo.
Và
nhờ
vậy
mới
có
sự
hiểu
biết
khách
quan
cần
thiết
để
tiếp
cận
Phật
giáo
mà
không
bị
ảnh
hưởng
bởi
các
thành
kiến,
chấp
trước
đã
có
của
họ.
Do
vậy,
bài
giới
thiệu
về
Phật
giáo
này
được
viết
cho
người
Tây
phương
và
cho
người
trong
các
cộng
đồng
Phật
giáo
chính
thống.
Ở
đó
Phật
giáo
có
thể
bị
họ
xa
lánh
vì
một
số
lý
do
về
xã
hội
và
văn
hoá.
Dĩ
nhiên,
hình
ảnh
của
Phật
giáo
Tây
phương
cũng
có
thể
bị
giới
hạn
nhưng
tôi
hy
vọng
rằng,
trong
các
chương
sau
đây,
sự
giới
thiệu
đầy
đủ,
rõ
ràng
và
khách
quan
về
các
tông
phái
của
Phật
giáo
sẽ
được
mọi
người
biết
đến. Trang
5.
Trở
lại
với
Phật
giáo
Tây
phương.
Một
trong
những
đặc
điểm
đầu
tiên
là
Phật
giáo
không
bị
giới
hạn
bởi
văn
hóa
tức
là
không
bị
cản
trở
bởi
bất
cứ
xã
hội,
chủng
tộc
hay
nhóm
sắc
tộc
nào.
Có
tôn
giáo
bị
lệ
thuộc
về
văn
hoá:
Do
thái
giáo
là
một
thí
dụ;
Ấn
độ
giáo
là
một
thí
dụ
khác.
Phật
giáo
không
bị
tắc
nghẽn
như
vậy.
Ðó
là
lý
do
tại
sao
chúng
ta
đã
có
sự
phát
triển
của
Phật
giáo
Ấn
độ,
Phật
giáo
Tích
Lan,
Phật
giáo
Thái
lan,
Phật
giáo
Miến
điện,
Phật
giáo
Trung
hoa,
Phật
giáo
Nhật
bản,
Phật
giáo
Tây
tạng,
v.v..Trong
tương
lai
gần,
tôi
không
nghi
ngờ
là
chúng
ta
sẽ
thấy
sự
xuất
hiện
của
Phật
giáo
Anh,
Phật
giáo
Pháp,
Phật
giáo
Ý,
Phật
giáo
Hoa
kỳ
v.v....Tất
cả
đều
có
thể
hiện
thực
vì
Phật
giáo
tự
nó
không
lệ
thuộc
vào
văn
hóa.
Nó
di
chuyển
một
cách
rất
dễ
dàng
từ
bối
cảnh
văn
hoá
này
đến
bối
cảnh
văn
hoá
khác.
Ðó
là
vì
tầm
quan
trọng
của
nó
nhằm
vào
việc
thực
tập
bên
trong
hơn
là
các
hình
thức
xử
thế
bên
ngoài.
Cái
cốt
yếu
của
nó
là
mỗi
hành
giả
phát
triển
tâm
trí
riêng
cho
mình,
không
phải
vào
cách
ta
ăn
mặc,
đồ
ăn
ta
ăn,
cách
ta
đội
nón
v.v... Ðiểm
thứ
hai
xin
bạn
chú
ý
là
tính
thực
dụng
hay
hướng
đi
thực
tiễn
của
nó.
Nói
đến
Phật
giáo
là
nói
chuyện
thực
tế.
Nó
không
quan
tâm
đến
những
câu
hỏi
lý
thuyết
và
những
lý
thuyết
siêu
hình.
Phương
pháp
của
Phật
giáo
là
nhận
diện
một
vấn
đề
có
thật
và
ứng
xử
với
nó
một
cách
thực
tế.
Quan
điểm
này
phù
hợp
rất
nhiều
với
quan
điểm
vị
lợi
và
tính
giải
quyết
vấn
đề
một
cách
khoa
học
của
Tây
phương.
Phương
pháp
của
Phật
giáo
được
thâu
tóm
trong
câu
châm
ngôn,
‘‘Nếu
nó
được
việc
thì
dùng
nó’’.
Quan
điểm
này
là
một
phần
không
thể
thiếu
được
cho
sự
thực
hành
về
chính
trị,
kinh
tế
và
khoa
học
của
Tây
phương. Trang
6.
Phương
pháp
thực
dụng
của
Phật
giáo
được
diễn
tả
rõ
ràng
trong
kinh
Chulamalunkya,
một
tập
kinh
trong
đó
đức
Phật
dùng
chuyện
ngụ
ngôn
về
một
người
bị
thương.
Trong
chuyện
này,
người
bị
bắn
mủi
tên
muốn
biết
ai
bắn,
hướng
từ
đâu
tới,
đầu
tên
bằng
xương
hay
bằng
sắt,
thân
tên
bằng
cây
hay
loại
gì
trước
khi
ông
ta
chịu
để
cho
rút
mủi
tên
ra.
Thái
độ
của
người
bị
thương
giống
như
thái
độ
của
những
người
muốn
biết
nguồn
gốc
vũ
trụ---không
biết
nó
có
vĩnh
cửu
hay
không,
vô
định
trong
không
gian
hay
không
v.v...---trước
khi
họ
chịu
tu
tập
theo
một
tôn
giáo.
Những
người
như
thế
sẽ
chết
trước
khi
được
nghe
trả
lời
những
câu
hỏi
không
thực
dụng.
Giống
như
người
trong
câu
chuyện
sẽ
chết
trước
khi
ông
ta
được
nghe
trả
lời
về
nguồn
gốc
và
đặc
tính
của
mủi
tên. Câu
chuyện
này
chứng
minh
định
hướng
thực
tế
của
đức
Phật
và
Phật
giáo.
Nó
có
nhiều
điều
cho
chúng
ta
biết
về
câu
hỏi
toàn
bộ
về
các
ưu
tiên
và
cách
giải
quyết
vấn
đề
có
tính
cách
khoa
học.
Ta
sẽ
không
tiến
bộ
trong
việc
phát
triển
trí
tuệ
nếu
đặt
những
câu
hỏi
sai
lầm.
Ðây
là
một
vấn
đề
ưu
tiên.
Ưu
tiên
thứ
nhất
cho
tất
cả
mọi
người
là
giảm
bớt
các
phiền
não
sau
đó
diệt
trừ
chúng.
Ðức
Phật
đã
nhận
ra
điều
này
và
đã
chỉ
rõ
chính
xác
sự
vô
ích
của
việc
thắc
mắc
nguồn
gốc
và
tính
chất
của
vũ
trụ
bởi
vì,
giống
như
người
trong
chuyện
vừa
kể,
tất
cả
chúng
ta
sẽ
bị
bắn
gục
bởi
một
mủi
tên,
mủi
tên
của
đau
khổ. Vì
thế
chúng
ta
phải
hỏi
những
câu
hỏi
có
liên
hệ
trực
tiếp
với
việc
diệt
trừ
mủi
tên
đau
khổ
và
không
phí
thời
gian
quí
báu
của
chúng
ta
vào
những
câu
hỏi
không
liên
hệ.
Ý
tưởng
này
có
thể
được
diễn
tả
một
cách
rất
giản
dị.
Mọi
người
có
thể
thấy
rằng
hàng
ngày
chúng
ta
thường
xuyên
làm
công
việc
chọn
lựa,
căn
cứ
theo
ưu
tiên.
Chẳng
hạn,
đang
nấu
nướng
và
trong
khi
chờ
nồi
cơm
chín,
bạn
lau
chùi
bàn
ghế
và
quét
sàn
nhà.
Nhưng
vì
mãi
mê
với
công
việc
sau,
thình
lình
nghe
mùi
cháy
khét,
bạn
phải
chọn
liền:
tiếp
tục
công
việc
quét
tước
hay
chạy
tới
bếp
vặn
lửa
xuống
cứu
buổi
cơm
chiều.
Giống
như
thế,
nếu
muốn
trí
tuệ
tinh
tấn,
ta
phải
định
rõ
các
ưu
tiên
của
mình.
Ðiểm
này
được
đưa
ra
một
cách
rất
rõ
ràng
trong
câu
chuyện
ngụ
ngôn
của
người
bị
thương. Trang
7.
Ðiểm
thứ
ba
tôi
xin
thảo
luận
là
lời
dạy
về
sự
quan
trọng
của
việc
kiểm
tra
sự
thật
bằng
chính
kinh
nghiệm
riêng
của
mỗi
người.
Ðiểm
này
được
đức
Phật
đưa
ra
trong
kinh
Kesaputtiya
trong
một
dịp
ông
khuyến
dạy
bộ
tộc
Kalamas.
Bộ
tộc
này
là
một
cộng
đồng
cư
dân
thành
thị
rất
giống
những
người
trong
thế
giới
hiện
nay.
Họ
nghe
thấy
quá
nhiều
các
sự
thật
được
giải
thích
mâu
thuẩn
và
khác
nhau.
Ði
gặp
đức
Phật,
họ
hỏi
ông
phải
phán
đoán
như
thế
nào
về
sự
thật
của
những
lời
giải
thích
trái
ngược
nhau
do
các
đạo
sư
các
tôn
giáo
đưa
ra.
Ðức
Phật
bảo
họ
đừng
chấp
nhận
bất
cứ
cái
gì
dựa
vào
chức
quyền
hoặc
trong
kinh
sách;
cũng
không
chấp
nhận
những
gì
đặt
trên
căn
bản
công
luận,
nghe
có
vẻ
hợp
lý
hoặc
vì
lòng
tôn
kính
người
thầy.
Ông
còn
đi
xa
hơn
nữa
khi
khuyên
họ
không
chấp
nhận
lời
dạy
của
ông
mà
không
kiểm
nghiệm
sự
thật
của
nó
qua
kinh
nghiệm
riêng
của
mình. Ðức
Phật
yêu
cầu
người
Kalamas
kiểm
lại
những
gì
họ
đã
nghe
thấy
căn
cứ
vào
kinh
nghiệm
riêng
của
mình.
Khi
nào
nhận
ra
là
có
hại
thì
họ
nên
tìm
cách
từ
bỏ
chúng.
Ngược
lại,
khi
thấy
chúng
đem
lại
lợi
lạc
và
bình
an,
lúc
đó
nên
tìm
cách
phát
triển
chúng.
Như
vậy,
ta
phải
biết
phán
xét
các
sự
thật
đã
được
chỉ
dẫn
dưới
ánh
sáng
kinh
nghiệm
riêng
của
mình. Trang
8.
Căn
cứ
theo
lời
khuyên
này,
chúng
ta
có
thể
thấy
rõ
ràng
thuyết
tự
lực
của
đức
Phật
trong
việc
đạt
được
tri
kiến.
Chúng
ta
phải
dùng
tâm
trí
của
mình
làm
một
loại
ống
nghiệm
riêng.
Mọi
người
có
thể
tự
thấy
cho
chính
mình
rằng
khi
có
sự
hiện
diện
của
tham
muốn
và
sân
giận,
chúng
thường
dẫn
tới
bất
an
và
đau
khổ.
Theo
lý
lẽ
đó,
khi
lòng
tham
và
sân
giận
vắng
mặt
khỏi
tâm
trí,
nó
cho
kết
quả
bình
an
và
hạnh
phúc.
Ðây
là
một
điều
thực
nghiệm
cá
nhân
rất
giản
dị
mà
mọi
người
trong
chúng
ta
có
thể
đạt
được.
Sự
kiểm
nghiệm
giá
trị
của
những
lời
dạy
theo
kinh
nghiệm
riêng
rất
quan
trọng.
Những
gì
đức
Phật
dạy
chỉ
có
hiệu
quả
và
thành
công
trong
việc
thay
đổi
cuộc
sống
nếu
chúng
ta
thực
thi
được
cho
cá
nhân
và
biến
điều
đạy
đó
là
của
riêng
mình.
Chỉ
khi
nào
có
khả
năng
chứng
thực
sự
thật
của
những
lời
giáo
huấn
bằng
sự
quay
về
với
kinh
nghiệm
riêng
của
mình
thì
lúc
đó
chúng
ta
mới
chắc
rằng
đang
tinh
tấn
trên
con
đường
đi
đến
diệt
trừ
đau
khổ. Một
lần
nữa
chúng
ta
có
thể
thấy
sự
tương
tự
hấp
dẫn
giữa
phương
pháp
của
đức
Phật
và
phương
pháp
khoa
học
khi
đi
tìm
tri
thức.
Ðức
Phật
nhấn
mạnh
sự
quan
trọng
của
việc
quán
tưởng
khách
quan.
Ðó
là
chìa
khóa
cho
phương
pháp
của
Phật
giáo
để
đạt
được
tri
thức.
Ðây
là
sự
quan
sát
khách
quan
sinh
ra
điều
đầu
tiên
của
Tứ
Diệu
Ðế,
tức
sự
có
mặt
của
đau
khổ.
Chính
sự
quan
sát
mới
xác
minh
sự
tiến
bộ
của
con
người
trên
từng
bước
đường;
và
cũng
chính
sự
quan
sát
xác
quyết
việc
diệt
trừ
hoàn
toàn
đau
khổ.
Vì
vậy
dù
ở
đầu,
giữa
hay
cuối
con
đường
giải
thoát
của
Phật
giáo,
vai
trò
quan
sát
rất
cần
thiết. Ðiều
này
không
khác
với
vai
trò
quan
sát
khách
quan
trong
tinh
thần
khoa
học
của
phương
Tây.
Tinh
thần
khoa
học
dạy
rằng
khi
quan
sát
một
vấn
đề,
chúng
ta
trước
hết
phải
đề
ra
một
lý
thuyết
tổng
quát
và
kế
đến
một
giả
thuyết
đặc
biệt.
Cũng
phải
có
một
tiến
trình
như
vậy
trong
trường
hợp
của
Tứ
Diệu
Ðế.
Lý
thuyết
tổng
quát
ở
đây
là
tất
cả
mọi
việc
phải
có
một
nguyên
nhân,
trong
khi
giả
thuyết
đặc
biệt
của
nguyên
nhân
đau
khổ
là
sự
tham
muốn
và
si
mê.
Giả
thuyết
này
có
thể
được
chứng
thực
bởi
phương
pháp
thực
nghiệm
trong
Bát
Chánh
Ðạo
(hay
Con
đường
Tám
Bước).
Bằng
phương
tiện
này,
sự
hoàn
thành
đúng
đắn
của
sự
thật
thứ
hai
có
thể
được
thiết
lập.
Ngoài
ra,
sự
thật
thứ
ba
tức
diệt
khổ,
có
thể
được
chứng
thực,
bởi
vì
qua
việc
thực
tập,
tham-si
được
diệt
trừ
và
cuối
cùng
đạt
được
hạnh
phúc
tối
thượng.
Tiến
trình
thực
nghiệm
này
có
thể
lập
lại
được,
phù
hợp
với
sự
thực
hành
khoa
học
đứng
đắn:
không
những
đức
Phật
chứng
đắc
sự
chấm
dứt
đau
khổ
mà
ta
còn
thấy
theo
dòng
lịch
sử
tất
cả
những
người
theo
con
đuờng
của
ông
đều
đạt
đến
đích. Trang
9.
Vì
thế,
khi
xét
kỹ
lời
dạy
của
đức
Phật,
chúng
ta
thấy
rằng
phương
pháp
của
ông
có
rất
nhiều
điều
trùng
hợp
với
phương
pháp
của
khoa
học.
Việc
này
gợi
lên
một
cách
tự
nhiên
mối
quan
tâm
lớn
lao
về
Phật
giáo
trong
con
người
có
đầu
óc
hiện
đại.
Chúng
ta
có
thể
hiểu
tại
sao
Einstein
lại
đưa
ra
một
nhận
xét
như
ta
đã
thấy
ở
trên:
‘Nếu
phải
chọn
một
tôn
giáo,
tôi
sẽ
làm
Phật
tử’.
Cái
hòa
hợp
về
ý
kiến
giữa
phương
pháp
của
Phật
giáo
và
phương
pháp
của
khoa
học
hiện
đại
sẽ
trở
nên
rõ
ràng
hơn
khi
chúng
ta
xét
đến
quan
điểm
Phật
giáo
đối
với
các
sự
kiện
về
kinh
nghiệm.
Chúng
cũng
được
phân
tích
như
các
sự
kiện
khoa
học
vậy. Theo
giáo
lý
Phật
học
(hay
Pháp
Phật),
các
dữ
kiện
kinh
nghiệm
được
chia
ra
hai
thành
phần,
khách
quan
và
chủ
quan.
Ðó
là
các
sự
vật
và
chính
chúng
ta.
Phật
học
đã
từ
lâu
nổi
tiếng
nhờ
phương
pháp
phân
tích
trong
lãnh
vực
triết
học
và
tâm
lý
học.
Cái
ý
ở
đây
là
đức
Phật
phân
tích
các
sự
kiện
của
kinh
nghiệm
thành
nhiều
thành
phần
khác
nhau.
Căn
bản
nhất
của
các
thành
phần
này
là
ngũ
uẩn:
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức.
Năm
uẩn
này
có
thể
được
xét
theo
18
thành
phần
và
kỹ
càng
hơn
nữa
là
72
yếu
tố. Trang
10.
Phương
thức
được
chọn
ở
đây
là
phân
tích,
tức
là
nó
phá
vở
các
sự
kiện
kinh
nghiệm
ra
thành
những
thành
phần
khác
nhau.
Ðức
Phật
không
thỏa
mãn
với
ý
niệm
kinh
nghiệm
mơ
hồ
và
đại
khái.
Ngược
lại,
ông
phân
tích
kinh
nghiệm,
điều
tra
thực
chất
và
phân
ra
thành
những
thành
phần
nhỏ,
cũng
giống
như
chúng
ta
phân
ra
hiện
tượng
loại
xe
chiến
trận
thời
xưa
thành
bánh
xe,
trục
xe,
thân
xe
v.v...Mục
đích
của
việc
làm
này
là
để
đạt
được
một
kiến
thức
chính
xác
hơn
về
sự
vận
hành
của
hiện
tưọng.
Chẳng
hạn
khi
ta
thấy
một
cành
hoa,
nghe
một
bài
nhạc
hay
gặp
một
người
bạn,
tất
cả
những
kinh
nghiệm
này
có
được
là
do
kết
quả
trực
tiếp
của
một
tổng
hợp
từng
thành
phần
lại
với
nhau. Ðiều
này
được
gọi
là
phương
pháp
phân
tích
của
Phật
giáo.
Nó
không
có
một
chút
gì
lạ
lùng
so
với
khoa
học
và
triết
học
hiện
đại.
Chúng
ta
thấy
rằng
phương
pháp
phân
tích
được
áp
dụng
khắp
nơi
trong
khoa
học.
Trong
triết
học,
phương
pháp
phân
tích
là
phương
cách
mà
các
tư
tưởng
của
nhiều
triết
gia
Âu
châu
được
thể
hiện
rõ
ràng
và
mới
vừa
đây
nhất
là
tư
tưởng
của
Bertrand
Russell.
Người
ta
đã
thực
hiện
thành
công
bằng
cách
nghiên
cứu,
so
sánh
triết
học
phân
tích
của
ông
với
triết
học
của
Phật
giáo
cổ
đại.
Do
vậy,
trong
triết
học
và
khoa
học
Tây
phương,
chúng
ta
đã
tìm
thấy
một
sự
song
song
rất
gần
gũi
với
phương
pháp
phân
tích
đã
được
dạy
trong
truyền
thống
Phật
giáo.
Ðây
là
một
trong
những
đặc
điểm
quen
thuộc,
đã
thu
hút
các
nhà
trí
thức
và
khoa
bảng
Tây
phương
cận
đại
với
triết
học
Phật
giáo.
Các
tâm
lý
gia
ngày
nay
cũng
rất
chú
ý
về
sự
phân
tích
các
yếu
tố
khác
nhau
của
Phật
giáo
về
tâm
thức:
thọ,
tưởng
và
hành.
Với
số
người
càng
lúc
càng
tăng,
họ
đang
chuyển
qua
cái
học
cổ
điển
của
Phật
để
đạt
được
sự
sáng
suốt
hơn
cho
riêng
ngành
của
họ. Trang
11.
Sự
chú
ý
về
giáo
lý
của
đức
Phật
tăng
dần---
do
sự
quan
hệ
giữa
tư
tưởng
Phật
giáo
và
những
dòng
khoa
học,
triết
học
và
tâm
lý
học
chính
yếu
hiện
nay---đã
đạt
tới
đỉnh
cao
trong
thế
kỷ
XXI
này
với
những
đề
nghị
gây
ngạc
nhiên
khắp
nơi.
Ðó
là
thuyết
tương
đối,
thuyết
lượng
tử
vật
lý
mà
chúng
tiêu
biểu
cho
các
sự
phát
triển
mới
nhất
trong
khoa
học
lý
thuyết
và
thực
nghiệm.
Ðức
Phật
chẳng
những
tiên
đoán
được
những
phương
pháp
quan
trọng
nhất
của
khoa
học
(đó
là
quán
sát,
thực
nghiệm
và
phân
tích)
mà
còn
trong
một
vài
kết
luận
đặc
biệt
nhất
về
đặc
tính
của
con
người
và
vũ
trụ.
Rõ
ràng
Phật
giáo
và
khoa
học
thực
sự
trùng
hợp
nhau. Chẳng
hạn,
sự
quan
trọng
của
tâm
thức
trong
việc
hình
thành
kinh
nghiệm
đã
từ
lâu
bị
phương
Tây
bỏ
qua,
hiện
đã
được
thừa
nhận.
Cách
đây
không
lâu,
một
vật
lý
gia
nổi
tiếng
nhận
xét
rằng
vũ
trụ
thực
sự
chỉ
là
một
cái
gì
giống
như
một
tư
tưởng
lớn.
Ðiều
này
rõ
ràng
là
theo
bước
chân
của
giáo
lý
đức
Phật,
được
điễn
tả
trong
kinh
Pháp
Cú
(Dhammapada),
ở
đó
ta
đã
được
dạy
rằng
cái
tâm
là
chủ
của
tất
cả
các
sự
vật.
Cũng
như
vậy,
tính
tương
quan
giữa
vật
chất
và
năng
lượng,
tức
sự
thừa
nhận
rằng
không
có
sự
phân
chia
rõ
rệt
giữa
tâm
thức
(danh)
và
vật
chất
(sắc),
hiện
đã
được
xác
định
bởi
sự
phát
triển
mới
vừa
đây
nhất
trong
khoa
học
thực
nghiệm
hiện
đại. Kết
quả
là
trong
bối
cảnh
văn
hoá
Tây
phương
hiện
nay,
các
khoa
học
gia,
tâm
lý
gia
và
triết
lý
gia
đã
tìm
thấy
trong
Phật
giáo
một
truyền
thống
hài
hòa
với
một
số
nguyên
tắc
căn
bản
nhất
của
tư
tưởng
Tây
phương.
Ngoài
ra,
họ
thấy
Phật
giáo
đặc
biệt
đáng
quan
tâm
hơn
vì
tuy
phương
pháp
và
kết
luận
của
khoa
học
Tây
phương
gần
giống
với
Phật
giáo
nhưng
nó
lại
không
đề
ra
một
lối
thực
hành
nào
cho
việc
hoàn
thành
sự
biến
đổi
nội
tâm.
Phật
giáo
đã
có
một
đường
lối
hướng
dẫn
rõ
ràng.
Khoa
học
đã
dạy
chúng
ta
xây
dựng
nhiều
thành
phố,
đường
sá,
xí
nghiệp,
cơ
trại
tốt
đẹp
hơn.
Nó
không
dạy
chúng
ta
xây
dựng
những
con
người
tốt
đẹp
hơn.
Vì
thế
con
người
trong
thế
giới
hiện
đại
đang
quay
về
Phật
giáo,
một
triết
lý
cổ
điển
có
nhiều
đặc
điểm
giống
với
truyền
thống
khoa
học
Tây
phương.
Nó
còn
vượt
ra
ngoài
thế
giới
vật
chất
của
Tây
phương
và
các
giới
hạn
khoa
học
thực
dụng
như
chúng
ta
đã
biết
hiện
nay.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002