Trong
chương
này
tôi
sẽ
thảo
luận
các
phương
pháp
qua
đó
Vi
diệu
pháp
tìm
ra
sự
thật
các
cá
tánh
của
chúng
ta
và
sự
liên
hệ
con
người
với
thế
giới
chung
quanh
mình. Có
hai
cách
mô
tả
con
người
và
sự
liên
hệ
của
con
người
với
thế
giới
chung
quanh,
đó
là
diễn
dịch
(từ
chung
sang
riêng)
và
qui
nạp
(từ
riêng
sang
chung).
Phương
pháp
suy
diễn
(hay
lý
trí)
bắt
đầu
với
ý
tưởng
trừu
tượng
và
áp
dụng
ý
tưởng
đó
vào
kinh
nghiệm
riêng
cho
mình.
Phương
pháp
qui
nạp
(hay
thực
nghiệm)
bắt
đầu
với
các
kinh
nghiệm.
Bằng
cách
quan
sát,
phân
tích,
giải
thích
và
hiểu
biết
các
sự
kiện
này,
chúng
ta
dựng
lên
một
hình
ảnh
về
chúng
ta
và
thế
giới
chung
quanh
mình.
Nói
ngắn
gọn,
phương
pháp
lý
trí
bắt
đầu
với
cái
trừu
tượng
và
cố
gắng
đưa
vào
cụ
thể;
trong
khi
phương
pháp
thực
nghiệm
bắt
đầu
với
cái
cụ
thể
và
dựng
lên
dần
dần
một
hình
ảnh
thực
tế. Hệ
thống
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
dùng
phương
pháp
qui
nạp,
khá
gần
với
phương
pháp
của
khoa
học,
chỉ
khác
là
khoa
học
hướng
ra
phía
ngoài
và
Vi
diệu
pháp
nhắm
vào
bên
trong
và
vào
cái
tâm.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
phương
pháp
mà
Vi
diệu
pháp
dùng,
đôi
khi
được
gọi
là
‘hồi
tưởng’,
‘phản
bổn’
hay
‘quán
chiếu’
(introspection).
Nếu
muốn
dùng
thuật
ngữ
thì
ta
gọi
là
‘thiền
định’. Nói
rằng
phương
pháp
của
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
là
thực
nghiệm,
thực
tế,
là
ý
muốn
nói
về
kinh
nghiệm
tâm
linh.
Ðôi
khi
chúng
ta
nói
rằng
thiền
định
giống
như
kính
hiển
vi
dùng
để
nhìn
cái
tinh
thần
ở
bên
trong.
Nó
điều
tra
kỹ
lưỡng
các
sự
kiện
về
kinh
nghiệm.
Phương
pháp
‘hồi
tưởng’
của
Vi
diệu
pháp
có
được
các
kết
quả
vì
nhờ
thiền
quán,
nó
giúp
các
tiến
trình
tâm
linh
hội
tụ
lại
một
điểm,
từ
đó
chúng
ta
có
thể
thấy
và
hiểu
đúng
các
kết
quả
đó.
Về
mặt
này,
có
sự
song
hành
đáng
chú
ý
giữa
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
và
khoa
học.
Trong
khoa
học,
khi
muốn
tìm
hiểu
một
sự
thay
đổi
đã
xãy
ra
như
thế
nào
thì
chúng
ta
giảm
hoặc
tăng
tốc
độ
nó
lên.
Trong
thiền
định
Vi
diệu
pháp,
chúng
ta
cũng
giảm
hoặc
tăng
tốc
độ
các
tiến
trình
tâm
linh
hầu
giúp
ta
có
thể
thấy
những
gì
thực
sự
đang
xãy
ra.
Nếu
chúng
ta
có
khả
năng
thấy
được
một
đời
người
chỉ
trong
thời
gian
năm
phút,
nó
sẽ
cho
chúng
ta
một
sự
hiểu
biết
to
lớn
vào
sự
sống
của
vũ
trụ.
Tuy
nhiên,
vì
việc
này
thường
khó
có
thể
có
được,
nên
chúng
ta
phải
làm
cho
chậm
lại.
Ðây
là
căn
bản
của
thiền
định
Vi
diệu
pháp. Trang
285.
Ðọc
trong
các
kinh
sách
của
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
nói
về
các
yếu
tố
tinh
thần
và
những
điều
tương
tự
có
thể
là
nhạt
nhẽo
vì
chỉ
tuyền
lý
luận,
nhưng
thực
sự
chúng
là
những
dữ
kiện
được
nghiên
cứu
từ
kinh
nghiệm
được
viết
ra
một
cách
rất
cẩn
thận.
Hoàn
toàn
không
dựa
vào
thuần
lý
luận,
kinh
Vi
diệu
pháp
là
kết
quả
của
sự
phân
tích
kinh
nghiệm
cẩn
thận
và
hồi
tưởng
chặt
chẻ.
Các
kinh
sách
đó
đã
nói
rằng,
nếu
bạn
có
nghi
ngờ
chút
nào
về
cách
nghiên
cứu
của
Vi
diệu
pháp
thì
tốt
hơn
hết
là
bạn
nên
ngồi
thiền
để
đạt
được
kinh
nghiệm
thực
tế
cho
chính
bạn.
Ðây
là
một
sự
thực,
vì
trong
các
lời
dạy
của
Phật
giáo,
việc
hiểu
biết
trực
tiếp
hay
gián
tiếp
là
điều
cần
thiết. Với
cái
nhìn
Vi
diệu
pháp,
chắc
chắn
hiệu
quả
sẽ
nhiều
hơn
nếu
hình
ảnh
ta
đạt
được
là
cái
hình
ảnh
trực
tiếp
do
chính
chúng
ta
hoàn
thành
qua
thiền
quán.
Nhưng
dù
cho
đó
là
hình
ảnh
gián
tiếp
qua
việc
nghiên
cứu,
nó
vẫn
có
ích
cho
chúng
ta,
bởi
vì
khi
chúng
ta
tọa
thiền
hẵn
chúng
ta
đã
hiểu
biết
chút
ít
về
tâm
linh
với
hình
ảnh
tổng
quát
mà
ta
cố
gắng
chú
tâm
vào.
Trong
ý
nghĩa
này
việc
nghiên
cứu
Vi
diệu
pháp
vẫn
hữu
ích
trong
việc
đem
lại
kết
quả
hiểu
biết
gián
tiếp
về
chính
chúng
ta
và
thế
giới
chung
quanh
theo
cái
nhìn
Vi
diệu
pháp. Trang
286.
Có
hai
cách
nghiên
cứu
Vi
diệu
pháp:
1.
phân
tích
và
2.
tổng
hợp
(hay
liên
kết).
Căn
bản
cho
2
phương
pháp
này
nằm
trong
các
kinh
sách
đầu
và
cuối
của
Luận
Tạng
(Abhidharma
Pitaka),
quyển
Phân
Loại
Pháp
(Dhammasangani,
Classification
of
Factors)
và
quyển
Luận
Nhân
Quả
(Patthana,
Book
of
Causal
Relations).
Ðây
là
2
quyển
quan
trọng
nhất
của
Vi
diệu
pháp.
Chính
qua
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp
mà
Vi
diệu
pháp
đã
cho
ta
một
sự
hiểu
biết
căn
bản
về
vô
ngã
và
tánh
không. Trước
hết
ta
hãy
xét
phương
pháp
phân
tích,
rồi
đến
phương
pháp
tổng
hợp
và
sau
cùng
kết
hợp
cả
hai
mới
hiểu
hết
sự
lợi
ích
toàn
bộ
phương
pháp
điều
tra
của
Vi
diệu
pháp.
Trong
Kinh
‘Các
Câu
hỏi
của
vua
Mi
lan
đà’
(Milinda
Panha),
người
ta
nói
rằng
Phật
đã
hoàn
thành
một
công
việc
rất
khó
khăn:
Ðức
Na
Tiên
(Nagasena)
trả
lời
với
vua
Mi
lan
đà
rằng:
‘‘Nếu
một
người
đi
tàu
ra
biển,
lấy
một
nhúm
nước
biển
và
phải
nói
với
bạn
nước
nào
là
nước
sông
Hằng,
nước
nào
là
nước
sông
Yamuna,
nước
nào
là
nước
ở
các
sông
khác,
điều
này
chắc
chắn
sẽ
rất
khó
làm.
Cũng
như
vậy,
Phật
đã
lấy
một
kinh
nghiệm
sắc
tướng,
phân
tích
kinh
nghiệm
tâm
thức
đơn
lẻ
ấy
thành
từng
phần
khác
nhau:
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức. Phân
tích
là
sự
mổ
xẻ
tỉ
mỉ
một
toàn
thể,
tưởng
như
có
vẻ
đồng
nhất,
thành
từng
phần
cấu
tạo
nó.
Sự
phân
tích
này
không
chỉ
áp
dụng
cho
cái
ngã,
như
chúng
ta
thấy
trong
khi
phân
tích
kinh
nghiệm
riêng
tư,
mà
còn
cho
các
ngoại
vật:
giống
như
ta
đập
vỡ
ra
các
hiện
tượng
phía
ngoài
thành
các
bộ
phận
cấu
tạo
ra
chúng.
Chẳng
hạn,
chúng
ta
phá
cái
bàn
ra
thành
chân
bàn,
mặt
bàn,
v.v...và
đi
xa
hơn
nữa,
thành
những
phân
tử
và
nguyên
tử
của
các
thành
tố
khác
nhau
để
hợp
lại
thành
cái
bàn. Mục
đích
của
sự
phân
tích
tỉ
mỉ
một
toàn
thể
là
để
xới
lên
sự
dính
mắc
vào
các
hiện
tượng
nội
vi
và
ngoại
lai.
Một
khi
chúng
ta
nhận
ra
được
rằng
cái
ngã
trông
có
vẻ
nhất
thể,
thực
sự
chỉ
là
một
tập
hợp
của
các
thành
phần,
sự
dính
mắc
của
chúng
ta
vào
ý
niệm
cái
ngã
đó
sẽ
trở
nên
yếu
đi;
tương
tự
như
vậy,
một
khi
chúng
ta
nhận
ra
rằng
các
hiện
tượng
bên
ngoài
chỉ
là
những
tập
hợp
của
từng
thành
phần
riêng
rẻ
nhỏ
hơn,
thế
là
sự
dính
dáng
với
chúng
sẽ
yếu
dần.
Ta
được
cái
gì
từ
tiến
trình
phân
tích
trên?
Về
phương
diện
nội
tại,
đây
là
những
dịp
cho
tâm
thức
ta
làm
việc;
về
phương
diện
ngoại
lai,
chúng
ta
chỉ
còn
với
các
nguyên
tử.
Nếu
kết
hợp
được
2
cách
này
với
nhau,
chúng
ta
còn
lại
các
pháp
của
kinh
nghiệm. Trang
287.
Các
pháp
của
kinh
nghiệm
dù
thuộc
về
vật
chất
hay
tinh
thần
tự
chúng
không
đem
lại
cho
chúng
ta
sự
hiểu
biết
sau
cùng
của
thực
tướng,
bởi
vì
chúng
ta
chỉ
còn
lại
những
‘khoảnh’
tâm
thức
và
các
nguyên
tử
vật
chất--tức
các
pháp
của
kinh
nghiệm.
Những
pháp
này
không
còn
có
thể
giảm
bớt
được
nữa
cho
dù
chúng
ta
còn
ở
trong
tiến
trình
mổ
xẻ
tỉ
mỉ
lâu
mau
hay
nhiều
ít.
Mặc
dầu
chúng
ta
đạt
được
những
phần
nhỏ
hơn
và
nhỏ
hơn
nữa,
chúng
ta
chỉ
còn
lại
với
một
hình
ảnh
thực
tướng
được
làm
vở
ra
thành
những
mảnh
vụn
nhỏ
do
kết
quả
của
việc
phân
tích
tỉ
mỉ.
Ðiều
này
tự
nó
không
phải
là
một
hình
ảnh
thực
tướng
hoàn
toàn
và
chính
xác. Ðể
đạt
được
hình
ảnh
thực
tướng
sau
cùng,
chúng
ta
cần
cặp
đôi
phương
pháp
phân
tích
với
phương
pháp
tổng
hợp
hay
liên
hệ.
Ðó
là
lý
do
tại
sao
một
đại
học
giả
Phật
tử
mà
cũng
là
một
vị
thánh,
tức
Bồ
tát
Long
Thọ,
có
lần
đã
bày
tỏ
sự
tôn
kính
đức
Phật
như
là
‘vị
thầy
của
lý
đuyên
khởi’.
Mục
đích
của
lý
duyên
khởi
là
thanh
tịnh
hóa
sự
vọng
động
của
tư
tưởng.
Ðây
là
chỉ
dấu
cho
sự
quan
trọng
của
phương
pháp
tổng
hợp,
tương
tác
nhau
trong
việc
muốn
hiểu
tính
chất
thực
sự
của
các
sự
vật.
Ðấy
cũng
là
lý
do
tại
sao
các
học
giả
đã
chú
tâm
vào
quyển
‘Liên
hệ
Nhân
Quả’.
Nó
cung
cấp
cái
phân
nửa
còn
lại
của
phương
pháp
điều
tra
Vi
diệu
pháp. Qua
phân
tích,
chúng
ta
biết
được
‘tính
không
cơ
sở’
(hay
không
thật)
của
cá
tính
và
hiện
tượng
(bởi
vì
chúng
ta
hiểu
được
rằng
chúng
là
do
các
thành
phần
hợp
lại
với
nhau).
Vì
thế,
qua
tiến
trình
điều
tra
liên
hệ
tổng
hợp,
chúng
ta
đạt
được
cái
không
của
cá
tính
và
cái
không
của
hiện
tượng
(bởi
vì
chúng
ta
thấy
rằng
các
thành
phần
cấu
tạo
đều
phải
ăn
chịu
và
tương
duyên
với
nhau).
Chúng
ta
hiểu
được
‘tính
không
cơ
sở’
và
tánh
không
bằng
cách
nhắm
vào
việc
dạy
và
học
lý
duyên
khởi. Trang
288.
Nếu
xét
một
sự
vật,
chúng
ta
có
thể
thấy
là
một
cá
tính
hay
một
ngoại
vật
là
do
các
thành
phần
cấu
tạo
chúng
tùy
thuộc
vào
nhau
cho
sự
hiện
hữu
của
chúng.
Chẳng
hạn,
một
hiện
tượng
đơn
độc,
như
cái
bàn,
trông
có
vẻ
là
một
nhưng
thật
ra
gồm
nhiều
thành
phần
cấu
tạo
(chân
bàn,
mặt
bàn,
v.v...)
chung
hợp
với
nhau
cho
sự
hiện
hữu
của
‘cái
bàn’.
Giống
như
vậy,
cái
bàn
tùy
thuộc
vào
các
‘nhân’
có
trước
(cây,
sắt,
người
thợ
làm
cái
bàn...)
và
các
‘duyên’
theo
sau
(như
cái
sàn
mà
cái
bàn
nằm
ở
đó). Chúng
ta
cũng
có
thể
khảo
sát
tỉ
mỉ
cái
ý
tưởng
tương
hợp
trong
ba
yếu
tố:
thời
gian,
không
gian
và
nghiệp.
Chẳng
hạn,
cái
bàn
tùy
thuộc
vào
thời
gian
ở
chỗ
trước
khi
có
cái
bàn,
một
số
các
diễn
biến
đã
xãy
ra--việc
cắt
gỗ,
hành
động
ráp
cái
bàn,
v.v...Chuỗi
diễn
biến
này
dẫn
đến
việc
xuất
hiện
cái
bàn.
Cũng
giống
như
vậy,
cái
bàn
có
ý
nghĩa
về
phương
diện
không
gian
ở
chỗ
là
nó
nằm
ở
trên
sàn,
v.v...Cái
yếu
tố
thứ
ba
của
tính
tương
duyên
nằm
ra
ngoài
thời
gian
và
không
gian.
Nó
được
giải
thích
bằng
nghiệp.
Nghiệp
có
kết
quả
dựa
vào
thời
gian
và
không
gian,
tuy
thế
nó
không
hiện
thẳng
vào
thời
gian
và
không
gian.
Qua
nghiệp,
một
hành
động
được
làm
ở
một
thời
điểm
trong
thời
gian
và
không
gian
có
thể
có
kết
quả
của
nó
ở
đây
và
bây
giờ.
Sự
ăn
chịu
với
nhau
vì
thế
không
chỉ
thuộc
về
thời
gian
và
không
gian
mà
nó
còn
có
một
ý
nghĩa
nghiệp
quả
nữa. Chúng
ta
hãy
lấy
hai
thí
dụ
để
thiết
lập
một
cách
chắc
chắn
hơn
những
gì
chúng
ta
muốn
nói
bằng
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp.
Hãy
lấy
chiếc
xe
ngựa
chiến
đấu
thời
cổ,
đó
là
một
hiện
tượng,
một
thực
thể
có
thể
nhận
ra
được.
Chúng
ta
áp
dụng
phương
pháp
phân
tích
vào
chiếc
xe
bằng
cách
vỡ
toan
ra
thành
các
thành
phần
cấu
tạo
nhỏ:
bánh
xe,
trục,
thân,
càng,
v.v...Sự
áp
dụng
phương
pháp
tổng
hợp
nhìn
vào
cùng
một
chiếc
xe
về
phương
diện
các
món
đồ
thừa
vụn
vặt,
hành
động
của
những
người
làm
xe
xây
dựng
nó
v.v..
Một
cách
khác,
chúng
ta
có
thể
lấy
những
thí
dụ
cổ
điển
về
ngọn
lửa
của
một
cây
đèn,
nó
tùy
thuộc
vào
dầu
đốt
và
tiêm
mồi.
Còn
về
trường
hợp
một
cái
mầm
thì
tùy
thuộc
vào
hạt
giống,
đất,
ánh
sáng,v.v... Trang
289.
Các
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp
cho
ta
một
hình
ảnh
tuyệt
đối
về
các
sự
vật
đúng
như
thực
tướng
của
chúng.
Ðó
là
nhờ
Vi
diệu
pháp
phân
tích
và
điều
tra
cẩn
thận
tỉ
mỉ.
Chúng
ta
dùng
phương
pháp
phân
tích
để
làm
vỡ
ra
thành
từng
phần
cấu
tạo
của
một
vật
mà
ta
tưởng
là
đã
hoàn
chỉnh,
không
phân
ra
được.
Chúng
ta
tiếp
tục
dùng
phương
pháp
tổng
hợp
để
chứng
tỏ
các
thành
phần
cấu
tạo
không
hiện
hữu
độc
lập
và
tách
rời
nhau
mà
là
tùy
thuộc
vào
những
yếu
tố
khác
để
hiện
hữu. Có
nhiều
chỗ
trong
giáo
lý
nhà
Phật
mà
các
phương
pháp
điều
tra
đã
được
dùng
một
cách
đơn
lẻ
và
kế
đó
tổng
hợp
lại.
Chẳng
hạn,
chúng
ta
áp
dụng
chánh
niệm
đầu
tiên
đối
với
các
hiện
tượng
nội
tại,
kế
đến
là
các
hiện
tượng
ngoại
lai,
và
cuối
cùng
cả
hai.
Bằng
cách
phân
tích
và
liên
hệ
với
nhau,
chúng
ta
khắc
phục
được
nhiều
vấn
đề.
Chúng
ta
không
những
khắc
phục
được
cái
ý
tưởng
về
cái
ngã,
vật
chất
và
cá
tính
mà
chúng
ta
còn
khắc
phục
được
các
vấn
đề
đó
xãy
ra,
nếu
chúng
ta
tin
vào
sự
hiện
hữu
độc
lập
của
các
yếu
tố
tách
rời
và
những
ý
tưởng
như
hiện
hữu
-
phi
hiện
hữu,
giống
nhau
-
khác
nhau. Các
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp
thực
sự
phản
ảnh
trong
quá
trình
biến
đổi
của
bộ
óc.
Các
nhà
chuyên
khoa
về
thần
kinh
học
đã
khám
phá
rằng
bộ
óc
được
chia
ra
thành
2
bán
cầu,
phân
nửa
vận
hành
theo
lối
phân
tích
và
phân
nửa
kia
là
tổng
hợp.
Nếu
hai
nhiệm
vụ
này
không
hòa
hợp,
không
cân
bằng
thì
cá
tính
và
các
xáo
trộn
sẻ
xãy
ra.
Người
nào
quá
phân
tích
sẽ
có
khuynh
hướng
bỏ
qua
khía
cạnh
trực
giác,
năng
động,
dễ
thay
đổi
của
cuộc
đời;
còn
người
nào
quá
tổng
hợp
sẽ
có
khuynh
hướng
thiếu
sự
chính
xác,
rõ
ràng
và
chú
tâm.
Vì
thế
ngay
trong
các
cuộc
sống
riêng
tư,
chúng
ta
cần
kết
hợp
2
lối
suy
nghĩ
phân
tích
và
tổng
hợp. Các
khía
cạnh
tâm
lý
và
não
bộ
của
hai
phương
pháp
này
cũng
hiện
diện
trong
việc
phát
triển
triết
học
và
khoa
học
Tây
phương.
Phương
pháp
phân
tích
trong
triết
học
đã
để
lại
cho
ta
các
hệ
thống
thực
tế,
đa
nguyên
và
cực
nhỏ
như
triết
lý
của
Bertrand
Russell.
Cũng
như
vậy,
với
phát
triển
mới
nhất
của
khoa
học,
như
thuyết
lượng
tử
nói
về
thực
tại,
một
quan
điểm
tổng
hợp
hơn
đã
chiếm
phần
ưu
thế.
Khi
chúng
ta
xét
đến
lịch
sử
triết
học
và
khoa
học
của
Tây
phương,
chúng
ta
có
thể
thấy
rằng
một
trong
hai
phương
pháp
điều
nghiên
này
đã
thắng
thế
hoặc
lúc
này
hay
lúc
khác. Có
thể
chúng
ta
đang
đến
một
thời
điểm
có
thể
kết
hợp
cả
hai
phương
pháp
ngay
trong
khoa
học
và
triết
học
Tây
phương.
Có
thể
chúng
ta
đã
đạt
được
một
quan
điểm
thực
tại
không
quá
khác
với
cái
của
Vi
diệu
pháp
qua
tiến
trình
quán
tưởng
nội
tâm--một
quan
điểm
thực
tại
có
cả
hai
phần
phân
tích
(ở
chỗ
là
nó
không
chấp
nhận
cái
toàn
thể
thuần
nhất)
và
tổng
hợp
(ở
chỗ
là
nó
không
chấp
nhận
ý
tưởng
tách
rời
của
các
phân
tử
nhỏ).
Chúng
ta
sẽ
có
một
quan
điểm
thực
tại
uyển
chuyển
và
‘để
ngỏ’,
trong
đó
các
kinh
nghiệm
đau
khổ
có
thể
chuyển
biến
năng
động
thành
kinh
nghiệm
không
còn
đau
khổ
nữa.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002