Từ
Chương
22
đến
Chương
26,
tôi
đã
cố
gắng
phác
họa
cái
vũ
trụ
theo
kinh
nghiệm
Kim
cương
thừa.
Ðó
là
lý
do
tại
sao
tôi
bắt
đầu
khảo
sát
về
thái
độ
văn
hoá
và
trí
thức
trong
thời
kỳ
mà
Kim
cương
thừa
xuất
hiện
đầu
tiên,
kế
đó
xét
đến
bối
cảnh
tôn
giáo
và
triết
học,
phương
pháp
luận,
huyền
thoại
và
biểu
tượng,
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trụ
học.
Từ
Chương
27
đến
Chương
29,
tôi
sẽ
xem
xét
các
giai
đoạn
hành
trì
theo
con
đường
Kim
cương
thừa.
Nói
chung,
có
3
giai
đoạn:
1.
chuẩn
bị,
2.
hành
nhập
và
3.
hành
trì
thực
sự.
Tôi
phân
chia
giai
đoạn
chuẩn
bị
thành
2
phần:
tổng
quát
và
chuyên
biệt. Như
đã
nói
trong
Chương
22,
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
Kim
cương
thừa
thực
sự
là
2
thành
phần
trong
một
tín
ngưỡng
độc
nhất.
Ðiểm
bắt
đầu
và
mục
tiêu
của
chúng
là
giống
nhau;
chỉ
khác
nhau
là
phương
pháp
sử
dụng
để
đạt
được
từ
điểm
bắt
đầu
đến
điểm
mục
tiêu.
Về
giai
đoạn
chuẩn
bị,
nói
chung
cả
hai
có
rất
nhiều
điểm
tương
đồng. Chúng
ta
cần
nói
rõ
hơn
một
chút
cho
phần
chuẩn
bị
này
để
nhấn
mạnh
là,
các
giai
đoạn
hành
trì
Kim
cương
thừa
không
phải
là
các
nghi
thức
hành
trì
mà
không
có
sự
sửa
soạn
chu
đáo
thích
đáng.
Thực
vậy,
các
sự
chuẩn
bị
tổng
quát
cho
việc
hành
trì
Kim
cương
thừa
cũng
là
những
nghi
thức
được
đòi
hỏi
cho
toàn
bộ
con
đường
Ðại
thừa.
Trong
phần
chuẩn
bị
tổng
quát,
chúng
ta
có
1.
qui
ngưỡng,
2.
quán
tưởng
đau
khổ,
3.
luật
nghiệp
quả,
4.
cái
chết
và
sự
vô
thường,
5.
thân
người
khó
được,
6.
vun
trồng
từ
và
bi,
7.
khởi
sinh
tư
tưởng
giác
ngộ,
8.
vun
trồng
‘định’
(nhất
tâm)
và
‘huệ’
(hiểu
biết
sâu
sắc).
Tất
cả
các
điều
trên
được
xem
là
những
điều
kiện
tiên
quyết
tổng
quát
cho
việc
hành
trì
Kim
cương
thừa
Mật
giáo. Trang
244.
Trừ
một
vài
ngoại
lệ,
còn
thì
nói
chung
các
lối
chuẩn
bị
của
Kim
cương
thừa
tương
tự
với
lối
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Một
trong
những
ngoại
lệ
là
cách
thực
tập
việc
qui
ngưỡng.
Trong
Bắc
truyền
có
ba
nơi
qui
ngưỡng--một
là
đấng
đã
Giác
Ngộ
tức
Phật,
hai
là
giáo
pháp
của
ngài
và
ba
là
Tăng
đoàn
không
thể
bỏ
được
của
các
vị
Bồ
tát,
hoặc
chư
Bồ
tát
đã
đắc
giai
đoạn
thứ
bảy
của
Bồ
tát
giới
(khỏi
trở
lại
thế
gian);
trong
Kim
cương
thừa
Mật
giáo
có
thêm
nơi
qui
ngưỡng
thứ
tư,
đó
là
người
thầy
(preceptor,
guru
or
lama).
Trong
một
vài
phái
phụ
của
Kim
cương
thừa,
có
đến
6
nơi
qui
ngưỡng,
cộng
thêm
2
nữa
là
các
vị
thần
hộ
trì
và
Ðồ
cát
ni
(Dakinis,
quỷ
cái
uống
máu
người).
Các
vị
thần
hộ
trì
là
những
hình
tượng
đặc
biệt
của
các
vị
Phật
huyền
bí.
Bất
cứ
vị
thần
chính
yếu
nào
của
Mật
giáo
như
Thần
Hevajra
(Không
trí
kim
cương),
Chakrasamvara
v.v...
nếu
được
thiền
quán,
đều
là
con
đường
trọn
vẹn
để
đi
đến
giác
ngộ.
Ðồ
cát
ni
(dakinis)
là
các
thần
nữ
tượng
trưng
cho
sự
không
vững
chắc
(vô
ngã).
Trong
đền
miếu
Kim
cương
thừa
Mật
giáo,
các
thần
nữ
Ðồ
cát
ni
được
xem
tương
tự
như
Tăng
đoàn,
đó
là
những
hình
tướng
đặc
biệt
của
Tăng
đoàn
Kim
cương
thừa
Mật
giáo.
Thực
sự
chúng
ta
có
nhiều
dẫn
chứng
về
6
nơi
qui
ngưỡng
này
trong
một
số
tông
phái
với
một
số
các
sự
kiện,
nhưng
phổ
biến
nhứt
vẫn
là
Tứ
bảo,
đó
là
người
thầy
và
Tam
Bảo. Vai
trò
người
thầy
rất
quan
trọng
trong
Kim
cương
thừa
Mật
giáo.
Cho
tôi
dẫn
chứng
2
ý
tưởng
chứng
minh
vai
trò
và
sự
quan
trọng
của
người
thầy
trong
Kim
cương
thừa.
Ðầu
tiên,
người
thầy
thi
hành
một
chức
năng
tương
tự
như
chức
năng
của
kính
phóng
đại.
Chúng
ta
biết
rằng
mặt
trời
rất
nóng
và
có
khả
năng
to
tát;
tuy
vậy,
nếu
không
có
một
dụng
cụ
như
kính
phóng
đại,
ta
không
thể
khai
thác
sức
nóng
của
nó
để
biến
thành
ngọn
lửa.
Cũng
vậy,
tuy
đức
Phật
và
những
lời
giáo
huấn
của
ông
rất
mạnh
và
vững,
nhưng
nếu
không
có
người
thầy
thì
đức
Phật
và
Pháp
Phật
không
thể
biến
thành
ngọn
lửa
trí
tuệ
cho
đệ
tử
Phật.
Người
thầy
giữ
nhiệm
vụ
làm
phương
tiện
tập
trung
và
khai
thác
năng
lực
của
Phật,
Pháp
và
Tăng
sao
cho
năng
lực
ấy
được
hiệu
nghiệm
và
được
sử
dụng
ngay
cho
các
yêu
cầu
riêng
của
đệ
tử. Trang
245.
Nhận
thức
được
vai
trò
người
thầy
là
điều
quan
trọng
đầu
tiên.
Chúng
ta
sẽ
hiểu
việc
này
nhiều
hơn
nếu
chúng
ta
nghe
câu
chuyện
của
Marpa,
một
trong
những
người
Tây
tạng
nổi
tiếng
nhứt,
đã
vào
Ấn
độ
để
thu
nhận
giáo
lý
Kim
cương
thừa
từ
Naropa.
Marpa
bỏ
ra
3
cuộc
hành
trình
vào
Ấn
độ
để
học
tập
lâu
dài
với
Naropa.
Người
ta
nói
rằng
có
một
lần,
khi
có
sự
xuất
hiện
của
một
vị
thần
giám
hộ,
Marpa
đã
phạm
lỗi
lầm
là
cúi
đầu
trước
vị
thần
thay
vì
trước
người
thầy
Naropa
của
mình.
Cái
nghiệp
quả
của
sự
sai
sót
này
là
Marpa
sau
đó
đã
mất
các
người
con
trong
các
tai
nạn
và
không
có
con
cháu
để
ông
có
thể
bí
truyền
các
lời
giáo
huấn
mà
ông
đã
học
được.
Ðây
là
một
trong
số
các
câu
chuyện
chứng
tỏ
sự
cần
thiết
của
người
thầy
trong
Kim
cương
thừa
Mật
giáo. Trong
Chương
29,
tôi
sẽ
chứng
minh
2
thành
phần
sau
cùng
trong
giai
đoạn
chuẩn
bị,
đó
là
‘định’
(nhất
điểm
tụ)
và
‘huệ’
(hiểu
biết
sâu
sắc)
phải
được
vun
trồng
như
thế
nào
trong
việc
hành
trì
thiền
định
Mật
giáo.
Riêng
bây
giờ,
tôi
xin
lập
lại
là
phần
chuẩn
bị
tổng
quát
này
là
những
điều
kiện
tiên
quyết
không
thể
không
có
cho
việc
hành
trì
nghiêm
túc
Kim
cương
thừa.
Không
có
một
tông
phái
nào
trong
Phật
giáo
Tây
tạng
khuyến
khích
việc
bắt
đầu
hành
trì
Kim
cương
thừa
mà
không
bỏ
ra
một
số
thời
gian
lớn
lao
để
chuẩn
bị.
Tất
cả
các
môn
phái
Kim
cương
thừa
Tây
tạng
đều
có
phần
khẩu
truyền
và
phần
văn
viết
cho
việc
tu
tập
trong
giai
đoạn
chuẩn
bị
này.
Mặc
dù
đôi
khi
đã
xãy
ra
việc
có
hành
giả
thực
hành
Kim
cương
thừa
mà
không
bỏ
ra
một
số
thời
gian
thích
đáng
để
theo
các
điều
căn
bản
đã
chỉ
dạy,
họ
làm
như
vậy
thì
họ
phải
chịu
thiệt
thòi.
Tôi
không
có
ý
nói
để
dọa.
Những
gì
tôi
muốn
nói
là,
nếu
muốn
tiếp
tục
lên
đại
học
mà
bạn
bằng
cách
này
hay
cách
khác,
xoay
sở
không
chịu
trang
bị
cho
giai
đoạn
huấn
luyện
tiền
đại
học,
bạn
sẽ
gặp
nhiều
khó
khăn
trong
sự
nghiệp
sau
này. Trang
246.
Tôi
muốn
xin
xét
thêm
một
lần
nữa
trước
khi
nói
về
các
sự
chuẩn
bị
hành
trì
riêng
biệt,
nhất
là
trong
Kim
cương
thừa.
Tôi
đã
bỏ
ra
khá
nhiều
thì
giờ,
đưa
ra
đặc
tính
đồng
nhất
của
Phật
giáo
Nam
truyền
(Tiểu
thừa),
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
Kim
cương
thừa
Mật
giáo.
Tôi
cũng
đã
cho
thấy
rằng
Mật
giáo
tượng
trưng
cho
sự
nới
rộng
tự
nhiên
các
yếu
tố
được
tìm
thấy
trong
các
tông
phái
Phật
giáo
khác.
Vì
thế,
tôi
xin
các
bạn
quan
tâm
vào
2
bước
chính
trong
các
bước
hành
trì
chuẩn
bị
đặc
biệt
này:
việc
trở
về
qui
ngưỡng
và
việc
đánh
thức
tư
tưởng
giác
ngộ
(hay
sự
chấp
nhận
hành
hạnh
Bồ
tát).
Tôi
muốn
xin
gợi
ý
rằng
điều
này
có
thể
giống
như
những
lễ
điểm
đạo.
Một
lối
hành
trì
khác
có
thể
được
xem
tương
tự
với
lễ
điểm
đạo
là
thời
kỳ
đầu
của
người
mới
tu
(tức
gia
nhập
vào
Tăng
đoàn). Tất
cả
3
bước
hành
trì
này
có
thể
được
xem
như
là
các
bước
khác
nhau
của
lễ
điểm
đạo.
Tãt
cả
đều
liên
hệ
đến
việc
nhập
vào
một
cộng
đồng
với
một
số
lề
lối
đặc
biệt
trong
việc
hành
trì:
trong
trường
hợp
qui
ngưỡng
thì
buổi
lễ
này
tượng
trưng
cho
sự
nhập
vào
cộng
đồng
Phật
giáo;
trong
trường
hợp
của
người
mới
tu,
nó
tượng
trưng
cho
sự
gia
nhập
vào
cộng
đồng
tu
sĩ;
và
trong
trường
hợp
hành
hạnh
Bồ
tát
là
sự
nhập
vào
gia
đình
Phật
tử.
Ba
lễ
này
là
các
lễ
điểm
đạo
liên
hệ
đến
việc
phải
chịu
một
vài
ràng
buộc:
việc
qui
ngưỡng
kèm
theo
sự
cam
kết
cố
gắng
tuân
theo
các
giới
luật
của
một
người
lương;
việc
nhập
Tăng
đoàn
kèm
theo
sự
cam
kết
tuân
theo
các
giới
hạnh
của
một
người
mới
tu;
và
việc
hành
hạnh
Bồ
tát
đem
lại
sự
cam
kết
của
người
Bồ
tát.
Cũng
có
một
số
hành
trì
kèm
theo
với
sự
qui
ngưỡng,
người
mới
tu
và
Bồ
tát
hạnh
giống
với
các
thành
phần
quan
trọng
trong
lễ
điểm
đạo
của
Mật
giáo. Chúng
ta
hãy
tiếp
tục
xét
đến
các
sự
hành
trì
Kim
cương
thừa
Mật
giáo
với
sự
chuẩn
bị
đặc
biệt
của
nó.
Không
phải
là
một
điều
đòi
hỏi
bắt
buộc
và
cũng
không
phải
là
một
mệnh
lệnh
mà
người
ta
phải
hoàn
tất
các
sự
chuẩn
bị
trước
khi
bắt
đầu
thực
hành
Kim
cương
thừa.
Tuy
nhiên,
người
ta
phải
hoàn
tất
chúng
trước
khi
không
còn
hoạt
động
thế
tục
nữa
để
ẩn
cư
cầu
nguyện
và
suy
ngẫm
vào
một
trong
những
nơi
có
thần
thánh
giám
hộ.
Vì
phải
thực
hành
Kim
cương
thừa
nghiêm
túc
nên
mới
có
sự
đòi
hỏi
chuẩn
bị
đặc
biệt
như
vậy. Từ
ngữ
cho
sự
chuẩn
bị
này
là
NGON-DRO,
có
nghĩa
là
đi
trước
(going
before).
Các
sự
hành
trì
này
‘đi
trước’
việc
thực
hành
nghiêm
túc.
Có
4
lối
thực
hành
chuẩn
bị
cho
tất
cả
các
tông
phái
Măt
giáo:
1.
qui
ngưỡng,
2.
thú
tội,
3.
người
thầy
Du
già,
và
4.
cúng
dường
giới
đàn.
Mỗi
giai
đoạn
phải
được
hành
xử
100.000
lần.
Ngoài
4
giai
đoạn
này,
một
vài
tông
phái
đòi
hỏi
hành
động
nằm
úp
xuống
tỏ
sự
qui
phục.
Một
số
tông
phái
khác
đòi
hỏi
các
nghi
thức
khác. Qui
ngưỡng:
Như
đã
nói
ở
trên,
trong
Kim
cương
thừa,
người
ta
qui
ngưỡng
nơi
4
‘đối
tượng’:
Phật,
Pháp,
Tăng
và
người
thầy.
Qui
ngưỡng
có
liên
hệ
đến
việc
hình
dung
đến
các
vật
trú
ẩn
riêng
hay
chung:
(a)
ta
có
thể
hình
dung
người
thầy,
đức
Phật,
kinh
sách
và
Tăng
đoàn
một
cách
riêng
biệt,
hoặc
(b)
người
ta
có
thể
hình
dung
4
đối
tượng
qui
ngưỡng
hợp
nhất
thành
một
nhân
vật
đơn
độc
là
vị
thần
giám
hộ.
Có
thể
bạn
đã
thấy
sự
hình
dung
này
được
mô
tả
trong
các
cuộn
sách
cổ,
trong
đó
các
vật
được
vẽ
ra
trên
cây,
trên
một
ngai
trang
hoàng,
trên
một
bông
sen
hay
trên
đĩa
mặt
trời
hay
mặt
trăng
(muốn
biết
thêm
về
một
vài
những
biểu
tượng
này,
xin
xem
Chương
25).
Với
sự
hình
dung
của
4
vật
qui
ngưỡng,
chúng
ta
đọc
lên
công
thức
đó
100.000
lần. Thú
tội:
Ðể
cho
tiện,
tôi
gọi
lần
hành
trì
có
tính
cách
chuẩn
bị
đặc
biệt
này
là
‘thú
tội’
bởi
vì
nó
thường
được
dẫn
chứng
bởi
từ
ngữ
này.
Tuy
nhiên,
điều
quan
trọng
phải
nhớ
ở
đây
là
chúng
ta
không
xem
thú
tội
là
một
phương
tiện
của
tha
thứ.
Chúng
ta
không
dùng
từ
ngữ
này
với
nghĩa
được
dùng
trong
Thiên
chúa
giáo:
thú
tội
được
theo
sau
bởi
tha
thứ
từ
một
quyền
lực
bên
ngoài.
Trong
Phật
giáo
nói
chung,
Kim
cương
thừa
nói
riêng,
thú
tội
ám
chỉ
sự
thừa
nhận
riêng
của
chúng
ta
cho
các
hành
động
bất
thiện
đã
làm
trong
quá
khứ
và
cái
quyết
tâm
của
ta
không
lập
lại
chúng.
Ðặc
biệt
quan
trọng
trong
việc
thú
tội
các
hành
động
bất
thiện
này
là
Ðại
Hạnh
Phổ
Hiền
Bồ
tát
(Vajrasattva),
một
hình
thức
đặc
biệt
của
một
vị
Phật
tương
tự
với
Phật
của
Năm
Gia
đình.
Bồ
tát
Phổ
Hiền
là
hình
thức
đức
Phật
thể
hiện
sự
giác
ngộ
cho
mục
đích
đặc
biệt
của
sự
thú
tội
và
thanh
tịnh
các
hành
động
bất
thiện. Trang
248.
Ðại
Hạnh
Phổ
Hiền
Bồ
tát
(Vajrasattva)
cũng
xuất
hiện
trong
lăng
đền
Ðại
thừa.
Việc
thú
tội
về
các
hành
động
bất
thiện
là
một
trong
những
sự
chuẩn
bị
được
thi
hành
bởi
tất
cả
những
người
đi
trên
con
đường
Bồ
tát.
Phổ
Hiền
Bồ
tát
có
màu
trắng.
Ông
có
một
mặt
và
2
cánh
tay,
giữ
một
hạt
kim
cương
và
một
cái
chuông,
tượng
trưng
cho
các
phương
tiện
thiện
xảo
và
trí
huệ.
Trong
sự
thực
hành
thú
tội,
chúng
ta
quán
tưởng
Bồ
tát
Phổ
Hiền
(Vajrasattva)
và
tụng
thần
chú
100
vần
của
Bồ
tát
Phổ
Hiền
100.000
lần. Người
ta
nói
rằng
4
quyền
năng
đó
là
kết
quả
bắt
nguồn
từ
việc
thú
tội
và
thanh
tịnh
các
hành
động
bất
thiện.
Quyền
năng
thứ
nhất
là
‘quyền
năng
của
sự
thờ
cúng’,
tức
nói
đến
quyền
năng
của
Bồ
tát
Phổ
Hiền
là
tượng
trưng
cho
sự
thanh
tịnh.
Quyền
năng
đặc
biệt
này
cũng
là
kết
quả
bắt
nguồn
từ
sự
hình
dung
đến
hình
ảnh
Phổ
Hiền
Bồ
tát.
Ðây
là
quyền
năng
tượng
trưng,
giống
như
loại
quyền
năng
thế
gian
như
quốc
kỳ
một
nước
chẳng
hạn.
Quốc
kỳ
có
một
quyền
lực
biểu
tượng;
cũng
vậy,
trong
bối
cảnh
thiêng
liêng
của
thiền
định,
hình
ảnh
Bồ
tát
Phổ
Hiền
có
một
quyền
năng
biểu
tượng
nào
đó. Cái
thứ
hai
của
4
quyền
năng
là
‘quyền
năng
siêu
việt’,
của
sự
‘vượt
ra
ngoài
sự
hiểu
biết
tầm
thường’.
Ðiều
này
muốn
nói
đến
sự
chân
thành
từ
bỏ
các
hành
động
bất
thiện.
Nói
một
cách
khác,
qua
con
đường
thiền
định,
các
hành
động
bất
thiện
buổi
đầu
được
cải
thiện
và
lần
lên
cái
học
chơn
lý
rốt
ráo. Trang
249.
Sức
mạnh
thứ
ba
có
kết
quả
từ
việc
thực
hành
này
là
‘sức
mạnh
của
một
loại
thuốc
giải
độc
các
thói
quen’
hay
là
quyền
năng
sửa
sai
bền
bỉ,
liên
tục,
nó
dẫn
đến
sự
quyết
tâm
thành
thực
không
lập
lại
những
hành
động
bất
thiện
mà
người
ta
đã
làm
trong
quá
khứ.
Ðây
là
cái
quyền
năng
tự
chế
không
làm
những
hành
động
bất
thiện
một
lần
nữa
trong
tương
lai. Cái
quyền
năng
thứ
tư
là
‘quyền
năng
phục
hồi’.
Ðiều
này
dẫn
đến
sự
kiện
là,
một
khi
đã
đạt
đến
bậc
nào
đó
thì
các
hành
động
bất
thiện
đã
được
điều
kiện
hóa
và
chúng
thực
sự
không
thâm
nhập
nỗi
vào
cái
lõi
chơn
tánh
riêng
của
người
đó,
đó
là
cái
tâm
Phật,
hay
đặc
tính
của
tánh
không
hay
chơn
không.
Những
hành
động
bất
thiện
là,
trong
thực
tế,
không
dự
tính
trước.
Chúng
giống
như
chất
dơ
làm
bẩn
miếng
vải
trắng,
hay
đám
mây
đen
làm
tối
bầu
trời
xanh.
Nhờ
thiền
định
dựa
vào
Kim
cương
thừa,
kết
quả
ta
có
là
quyền
năng
phục
hồi,
đó
là
sự
nhận
ra
‘bản
thể
thanh
tịnh’
của
mình. Vị
minh
sư
Du
già
(Yoga).
Sự
chuẩn
bị
thứ
ba
được
gọi
là
vị
minh
sư.
Minh
sư
(guru)
hay
lạt
ma
(lama)
là
một
vị
thầy
toàn
bích
có
thể
ban
các
lễ
thụ
giáo
và
các
sự
chứng
đắc
tâm
linh
đặc
biệt.
Thường
những
người
không
quen
thuộc
với
truyền
thống
Tây
tạng
nghĩ
đến
bất
cứ
vị
sư
Tây
tạng
nào
cũng
là
một
lạt
ma,
nhưng
thật
ra
nó
chỉ
dành
cho
các
vị
thầy
có
đủ
tiêu
chuẩn,
trong
khi
các
vị
sư
bình
thường
được
nói
đến
chỉ
là
tỳ
kheo
(gelong,
bhikshu).
Chữ
Du
già
(Yoga)
nghĩa
là
‘nối
liền’
hoặc
‘nhận
ra’. Mục
đích
của
vị
minh
sư
là
để
thiết
lập
mối
dây
liên
kết
giữa
môn
đồ
với
người
thầy.
Một
lần
nữa,
chúng
ta
có
thể
thấy
cái
quan
trọng
của
người
thầy
trong
Kim
cương
thừa.
Sự
thực
hành
này
có
thể
diễn
ra
dưới
nhiều
hình
thức
có
chút
ít
khác
nhau.
Tuy
nhiên,
nói
chung
nó
có
liên
quan
đến
việc
đọc
tụng
100.000
lần
một
công
thức
diễn
tả
lòng
thành
kín
của
môn
đồ
đối
với
và
hướng
về
đạo
hạnh
của
người
thầy. Tôi
muốn
xin
nói
rộng
ra
những
gì
tôi
đã
nói
trước
đây
về
sự
quan
trọng
của
vị
minh
sư
trong
Kim
cương
thừa
là
tại
sao
nó
phải
như
thế.
Kim
cương
thừa,
trước
hết
và
chủ
yếu
là
tông
phái
khẩu
truyền,
bí
truyền
từ
thầy
qua
trò.
Sự
bí
truyền
từ
thầy
qua
trò
đặc
biệt
rất
quan
trọng.
Sự
bí
truyền
này
dẫn
đến
việc
thành
hình
các
dòng
thiền.
Dĩ
nhiên
dòng
thiền
quan
trọng
không
chỉ
trong
Kim
cương
thừa
mà
còn
trong
Phật
thừa,
đặc
biệt
khi
nó
đến
từ
lễ
thụ
chức
tu
sĩ.
Nếu
bạn
xem
lại
lịch
sữ
về
lối
sống
của
các
tu
sĩ
ở
Tích
lan
hay
Thái
lan,
bạn
hẵn
sẽ
chú
ý
sự
quan
trọng
đó.
Vì
sự
gián
đoạn
của
dòng
thụ
chức
tu
sĩ,
các
viên
đặc
sứ
phải
được
gởi
từ
một
quốc
gia
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
đến
một
quốc
gia
khác
trong
một
số
trường
hợp
chỉ
là
để
tiếp
tục
lại
cái
dòng
đó. Trang
250.
Dòng
thiền
giống
như
một
dòng
điện.
Khi
dòng
thiền
bị
đứt
đoạn,
lễ
thụ
chức
của
các
tân
tông
đồ
không
thể
diễn
ra
được.
Ðiều
này
cũng
đã
xãy
ra
trong
lịch
sữ
tu
sĩ
của
Tây
tạng
khi,
Phật
giáo
bị
ngược
đãi
dưới
triều
vua
Lan-dar-ma,
dòng
thiền
của
lễ
thụ
chức
tu
sĩ
đã
phải
được
tái
thiết
lập
với
sự
giúp
đỡ
của
các
tu
sĩ
Trung
hoa.
Vì
thế,
dòng
thiền
cực
kỳ
quan
trọng.
Nó
quan
trọng
vì
đó
là
sợi
dây
nối
kết
không
đứt
đoạn
giữa
thầy
và
trò
mà
giáo
lý
Kim
cương
thừa
Mật
giáo
được
truyền
thừa
từ
thế
hệ
này
đến
thế
hệ
khác. Nói
về
dòng
thiền
là
nói
đến
từng
mắt
xích
của
dòng
đó,
tức
từng
thành
viên
một.
Kết
quả
là,
người
trò
được
người
thầy
điểm
đạo,
bảo
đảm
được
tánh
danh
giữa
thầy
với
trò
cùng
vị
thần
giám
hộ.
Sau
đó,
người
trò
tạo
dựng
được
khối
liên
kết
và
phát
triển
cái
nhân
tánh
riêng
của
mình
với
người
thầy
và
rồi
với
vị
thần
giám
hộ. Sự
thành
lập
dòng
thiền,
được
thể
hiện
qua
nhân
vật
người
thầy,
vượt
thời
gian
và
không
gian.
Nó
nối
liền
hố
ngăn
cách
chia
rẽ
chúng
ta,
một
bên
là
ngay
hiện
tại
bây
giờ
và
ở
đây,
với
một
bên
là
thời
gian
và
không
gian
và
thực
thể
của
đức
Phật.
Ðây
là
lý
do
tại
sao,
trong
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa
Mật
giáo
và
thực
hành
thiền
định,
người
thầy
được
nhận
dạng
là
vị
thánh
giám
hộ,
và
sau
đó
là
hành
giả
được
nhận
dạng
với
vị
thánh
qua
người
thầy.
Sự
thực
hành
hợp
nhất
với
người
thầy
là
điều
quan
trọng
cho
sự
thiết
lập
nền
móng
liên
hệ
đặc
biệt
giữa
hành
giả
và
người
thầy. Trang
251.
Lễ
giới
đàn
(Mandala
offering).
Lần
thực
hành
chuẩn
bị
thứ
tư
là
lễ
giới
đàn.
Nói
chung,
giới
đàn
là
một
vòng
biểu
tượng,
thiêng
liêng,
bí
thuật.
Trong
bối
cảnh
nghi
thức
lễ
vật,
vòng
giới
đàn
biểu
thị
hình
thức
tượng
trưng
toàn
thể
vũ
trụ
thế
gian
tầm
thường
này,
như
đã
được
vẽ
ra
trong
vũ
trụ
học
Phật
giáo.
Theo
truyền
thống,
vũ
trụ
được
nói
đến
là
Núi
Sumeru
là
trung
tâm,
4
lục
địa
chính
và
một
số
lục
địa
phụ
chung
quanh
Núi
Sumeru
v.v....
Giới
đàn
là
biểu
hiện
tượng
trưng
cho
vũ
trụ
học
truyền
thống
này. Trong
phần
thực
hành
lễ
vật
giới
đàn,
hành
giả
cúng
dâng
cho
4
đối
tượng
qui
ngưỡng
(Phật,
Pháp,
Tăng
và
người
thầy)
tất
cả
công
đức
của
mình,
có
được
là
do
các
hành
động
thiện
lành
dưới
hình
thức
biểu
tượng
của
vũ
trụ.
Người
đó
hiến
tất
cả
hành
động
thiện
lành
của
mình
cho
4
đối
tượng
này,
đó
là
tất
cả
các
phẩm
hạnh
toàn
bích,
nhằm
hướng
tới
sự
giác
ngộ
của
tất
cả
giống
hữu
tình.
Lễ
vật
này
được
thực
hiện
100.000
lần.
Cùng
với
sự
đọc
tụng,
hành
giả
trình
bày
một
nghi
thức
dùng
một
dĩa
kim
loại
đựng
đá,
cây,
gạo,
lúa
mì,
cát.
Qua
phương
tiện
này,
người
đó
tạo
ra
các
đặc
điểm
vũ
trụ
đầy
biểu
tượng
nổi
bật
của
môn
vũ
trụ
học
truyền
thống. Việc
thực
hành
lễ
vật
giới
đàn
là
hữu
hiệu
vì
đây
là
hình
thức
trung
thực
nhất
của
nghiệp
quả.
Có
5
điều
kiện
chuyển
đổi
làm
tăng
cường
nghiệp
lực:
3
chủ
quan
và
2
khách
quan.
Ba
điều
kiện
chủ
quan
là:
1.
sự
kiên
trì
bền
bĩ
hay
sự
lặp
đi
lặp
lại
của
một
hành
động,
2.
quyết
tâm,
3.
không
tiếc
nuối.
Các
điều
kiện
khách
quan
là
4.
phẩm
chất
và
5.
sự
mang
ơn
người
mà
hành
động
được
hướng
tới
(xem
Chương
8). Trong
việc
dâng
lễ
giới
đàn,
chúng
ta
có
tất
cả
điều
kiện
tốt
đẹp
làm
tăng
thêm
nghiệp
lực
thiện
lành.
Chúng
ta
có
sự
kiên
trì
do
sự
dâng
lễ
được
100.000
lần.
Chúng
ta
có
sự
quyết
tâm
của
hành
giả
dâng
tặng
tất
cả
công
đức
của
ông
dưới
hình
thức
tượng
trưng
cho
những
người
được
giác
ngộ.
Chúng
ta
cũng
có
sự
không
tiếc
nuối.
Nếu
dâng
cúng
vật
chất,
ta
có
thể
có
vài
cảm
giác
tiếc
nuối.
Chẳng
hạn,
nếu
tôi
cúng
dường
một
khoản
tài
chính
nào
đó
cho
một
tu
viện,
có
thể
sau
đó
tôi
nghĩ
rằng
đã
cho
quá
nhiều.
Nhưng
với
sự
hiến
dâng
theo
lễ
giới
đàn
này,
không
có
lý
do
gì
cho
loại
cảm
giác
này
nổi
lên,
vì
thế
nghiệp
thiện
được
sinh
ra
mà
không
bị
cản
trở.
Cuối
cùng,
còn
ai
là
người
xứng
đáng
được
cúng
dường
hơn
là
chư
vị
đã
giác
ngộ.
những
người
xứng
đáng
nhất
và
đã
làm
lợi
lạc
cho
chúng
ta,
vì
chính
họ
là
những
người
giúp
đắc
quả
giác
ngộ?
Vì
thế,
sự
thực
hành
lễ
giới
đàn
tạo
ra
được
công
đức
cần
thiết
để
giúp
tiến
bộ
nhanh
hơn
trên
con
đường
Kim
cương
thừa
Mật
giáo. Trang
252.
Nói
tóm
lại,
4
giai
đoạn
thực
hành
chuẩn
bị
chuyên
biệt
có
một
phần
đóng
góp
đặc
biệt
trong
việc
sửa
soạn
cho
việc
thực
hành
Kim
cương
thừa.
Việc
đọc
tụng
các
công
thức
qui
y
tạo
ra
một
nơi
nương
tựa
vững
chắc
bảo
vệ
con
người
khỏi
sự
chán
nản
và
xao
lãng.
Việc
hành
trì
của
người
thầy
thiết
lập
sự
liên
hệ
giữa
hành
giả
với
người
thầy,
sự
liên
hệ
cho
sự
tiến
bộ
trên
đường
tu
tập
Kim
cương
thừa.
Cuối
cùng,
sự
hành
trì
cúng
dâng
theo
giới
đàn
tạo
ra
tiềm
năng
tích
cực,
năng
lượng
lành
mạnh
mà
con
người
cần
có
trong
việc
tạo
ra
những
bước
tiến
bộ
lâu
dài
và
hữu
hiệu.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002