Thập Thiện giới:
Ðược Thế Tôn dạy rất nhiều
qua các Kinh, dưới hình thức hộ trì ba nghiệp thân, khẩu,
ý. Mười giới này dành chung cả hàng xuất gia và tại gia.
Tuy nhiên, với hàng tại gia thì mức độ hành trì được
giới hạn nhẹ hơn cho thích hợp với căn cơ và điều
kiện sống của mình. Nhưng, nếu cư sĩ nào có điều kiện
để hành trì sâu thập thiện giới này thì kết quả đem
lại cho đời hiện tại và cho cả đời sau tốt đẹp hơn
và giải thoát hơn.
1. Có ba giới về thân là bất
sát, bất đạo và bất dâm. Ba giới này tương tự ba
giới đầu của ngũ giới.
2. Có bốn giới về miệng là
không được nói dối, không được nói hai lưỡi, không
được nói lời độc ác, và không được nói lời phù
phiếm, mộng mị. Bốn giới này tương tự với giới
thứ tư của ngũ giới.
3. Có ba loại về ý là không
được tham lam, không được sân hận, và không được tà
kiến.
Thường thì các giới chỉ tập
trung vào thân và khẩu, vào sự tướng. Ở đây có thêm ba
giới về ý. Tham, sân và si được đề cập trong ba giới
cuối không đòi hỏi người giữ giới phải hoàn toàn đoạn
trừ, mà chỉ cần đoạn trừ ở phần thô.
Với người xuất gia thì thập
thiện giới có nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý
cho thanh tịnh và đi đến đoạn trừ hoàn toàn tham, sân,
si.
Ðặc biệt Kinh Phân Biệt Ðại
Nghiệp (Trung A-hàm, số 174; Ðại 1, 176-b) và Kinh Ðại
Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh, số 86) nêu lên một điểm
rất đặc biệt rằng Thế Tôn dùng thiên nhãn thấy rõ có
một số chúng sanh tuy đời này phần lớn hành mười điều
ác nghiệp, nhưng nhờ thiện nhân đời trước, cuối cuộc
đời khởi lên các cảm thọ lạc và phát khởi tín tâm vào
Tam Bảo, có chánh kiến về các pháp, và trước khi mệnh
chung vẫn giữ lòng tin và chánh kiến ấy thì được sanh
về thiên giới; trong khi đó, một số chúng sanh tuy phần
lớn ở đời này hành mười thiện nghiệp, nhưng vì
nghiệp bất thiện quá khứ khởi lên cảm thọ khổ vào
cuối cuộc đời, và trước khi chết không có chánh kiến và
chánh tín vào ngôi Tam Bảo, nên phải đọa vào ba đường
dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Bên cạnh việc hành mười
nghiệp thiện, người Phật tử cần có chánh kiến và cận
tử nghiệp tốt (có chánh kiến và chánh tín). Chánh kiến,
chánh niệm lúc mệnh chung là yếu tố quyết định cảnh
giới thác sinh cõi trời. Tà kiến, tà niệm lúc mệnh chung
là nhân tố chính quyết định đi xuống ba đường dữ.
Bát quan trai
giới: (Phẩm Ngày Trai Giới, Tăng Chi III Ð, 1981, tr.
232-234; Kinh Trì Trai, Trung A-hàm, số 202).
Ngày trai giới (Uposatha) là ngày mà
một Phật tử tại gia tu tập hạnh xuất gia thanh tịnh theo
hạnh của một bậc A-la-hán. Có tám giới để giữ gìn, hành
trì trong ngày trai giới gọi là Bát quan trai giới. "Do vì
coi tám chi phần (hay tám giới) này như thuộc bậc A-la-hán,
ngang bằng, không khác nên gọi là trai". (Trung A-hàm, Kinh Trì
Trai).
Thế Tôn dạy nếu một ngày một
đêm tu tập Bát quan trai giới này thì sẽ có kết quả
lớn, lợi ích rất lớn. Thế nào là có kết quả lớn,
lợi ích lớn?
Thế Tôn giải thích:
"... Ở đây, có nam hay nữ Phật
tử nào, sau khi thực hành, thành tựu tám chi phần, sau khi
thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên
ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, vô cùng hạnh phúc" (Tăng Chi
III-A, tr. 236).
Cõi trời Tha Hóa Tự Tại có
tuổi thọ là mười sáu ngàn năm. Mỗi năm của cõi trời này
có mười hai tháng; mỗi tháng có 30 ngày. Mỗi ngày đêm
của cõi trời này tính bằng một ngày sáu trăm năm của cõi
người. Thọ mạng của chư Thiên Tha Hóa Tự Tại tính ra
thời gian của con người là: (1.600x30x12x16.000) = 3.216 triệu
năm hay 9,2 tỷ năm (xem Tăng Chi và Trung A-hàm).
Thế nào là Bát quan trai giới?
- Giới thứ nhất: "Cho đến
trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát
sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,
sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và
loài hữu tình. Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn
tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm,
biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc
của tất cả chúng sanh và loài hữu tình".
- Giới thứ hai: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận lấy của không cho,
từ bỏ lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho,
tự sống thanh tịnh không có trộm cắp".
- Giới thứ ba: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đã đoạn tận phi Phạm hạnh, hành
Phạm hạnh, sống từ bỏ dâm dục hèn hạ".
- Giới thứ tư: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận nói láo, chỉ nói
những lời chân thật y chỉ nơi sự thật, chắc chắn đáng
tin cậy, không lường gạt đời".
- Giới thứ năm: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận đắm say rượu men, rượu
nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu".
- Giới thứ sáu: ".... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng dùng mỗi ngày một bữa, không ăn
ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, không ăn phi thời".
- Giới thứ bảy: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng từ bỏ không đi xem múa hát,
nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương
liệu, dầu thoa và các thời trang".
- Giới thứ tám: "... Hôm nay, đêm
này và ngày này, tôi cũng đoạn tận không dùng giường
cao, giường lớn, từ bỏ không dùng giường cao, giường
lớn".
Ðây là tám giới được giữ gìn
trong ngày trai giới. Hạnh phúc của một người có quyền lãnh
đạo cả mười sáu quốc độ (một diện tích rộng lớn
ở Trung Ấn) với đầy đủ châu báu, uy quyền được xem còn
là nhỏ nhoi so với hạnh phúc của cõi Dục giới thiên
thứ nhất (Tứ Thiên Vương thiên) huống nữa là so với cõi
thứ sáu của Dục Giới thiên (Tha Hóa Tự Tại thiên).
Bát quan trai giới như thế là pháp
tu rất truyền thống của người Phật tử tại gia, đã
được kiết tập rõ ràng trong A-hàm và trong Nikàya, hai
Tạng kinh được xem là gần nguyên thủy nhất.
Tu Bát quan trai giới vừa gây được
nhân giải thoát xuất thế, vừa thể hiện được tinh
thần đạo ở trong đời, lại vừa là một ngày sống quân
bình tâm lý, một ngày sống đầy giác tinh mở hướng đi lên
cho tâm hồn, cần được thực hiện thành ngày tu truyền
thống. Ngày Bát quan trai, như được ghi ở Tăng Chi Bộ Kinh
I, được Thế Tôn ấn định vào sáu ngày trong mỗi tháng:
1, 8, 23, 14, 15 và ngày 30 Âm lịch. Ðặc biệt của sáu ngày
này là: vào ngày 8 và 23 thì thường có các đại thần
của Tứ Thiên Vương thiên hạ trần; ngày 14 và 30 thì các
thiên tử của Tứ Thiên Vương thiên hạ trần; ngày 1 và 15
thì chính Tứ Thiên Vương thiên hạ trần để quan sát sự
biểu hiện thiện ác của người đời. Sự hưng vong của
Tứ Thiên Vương thiên có liên quan mật thiết tới cõi Người:
Nếu người đời tu thiện nhiều thì cõi Trời ấy hưng
thịnh; nếu cõi Người đi vào ác hạnh thì cõi Trời kia đi
vào suy vong. Do lẽ đó mà Tứ Thiên Vương thiên đặc biệt
quan tâm nhìn xuống cuộc đời trần thế.
Tương giao xã
hội: (Kinh Singàla, Trường Bộ Kinh IV; Kinh Thiện Sinh,
Trường A-hàm, số 16; và Trung A-hàm, số 135, đã đề cập
sơ lược ở chương Phật Bảo).
Ðức Thế Tôn, bên cạnh việc
giảng dạy con người giải thoát khổ đau, sinh tử. Ngài
rất quan tâm đến hạnh phúc của người đời, những người
sống ở gia đình, có nhiều trách nhiệm gia đình và xã
hội.
Thế Toân, trong Kinh Singàla và
Kinh Thiện Sinh, nhìn mối tương hệ của con người là tương
hệ thiêng liêng, đáng tôn kính. Ngài xem mối tương hệ này
là tương hệ Phạm thiên. Có sáu mối tương hệ đáng tôn
kính, đáng đảnh lễ của người đời.
Trong khi chàng thanh niên Singàla đảnh
lễ sáu phương trời, thì Thế Tôn dạy chàng nên quay về
đảnh lễ sáu phương trong giáo pháp của bậc Thánh, của
Thế Tôn. Ðây chính là sáu mối liên hệ ở đời.
1. Tương hệ giữa cha mẹ và con
cái:
Phương Ðông là cha mẹ. Cha mẹ là
thiêng liêng, cao cả, đáng tôn kính đảnh lễ của con cái.
Ý nghĩa của đảnh lễ là nhấn mạnh bổn phận của con cái
đối với cha mẹ. Thế Tôn rất thiết thực, đưa Singàla
trở về thực tế với những bổn phận đối với cha mẹ
mà không phải là hình thức lễ bái. Khi cha mẹ còn sống,
người con phải biết vâng lời, làm vui lòng cha mẹ; phải
biết hầu hạ giúp đỡ cha mẹ một số công việc khi cha
mẹ cần đến; phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già, phải
biết giữ gìn gia phong, tiếng tăm, danh dự của gia đình,
phải biết bảo vệ tài sản của cha mẹ để lại; phải
biết giới thiệu đạo giải thoát đến với cha mẹ; nếu
có thể, phải lo tang lễ cho cha mẹ hẳn hoi.
Ðáp lại, cha mẹ có bổn phận
nuôi dưỡng và giáo dục con cái tốt; lo cho con học chữ và
học nghề; giúp đỡ con gần bạn lành và xa bạn xấu; đưa
con vào điều thiện và xa điều ác; lo việc cưới gã con vào
các gia đình tốt; chia tài sản cho con cái đúng lúc.
2. Tương hệ giữa thầy giáo và
học trò:
Phương Nam chính là thầy giáo. Tương
hệ giữa thầy và trò là một tương hệ cao cả, đẹp đẽ,
đáng tôn kính.
Học trò cần kính trọng và vâng
lời thầy; cần học hành chăm chỉ và thực hiện tốt các
điều thầy chỉ dạy; giúp đỡ và phục vụ cho thầy giáo
trong những khi thầy giáo cần sự giúp đỡ.
Ðáp lại, thầy giáo có bổn
phận phải dạy tốt, cung cấp kiến thức chuyên môn tốt;
giúp học trò thấy rõ bổn phận và hướng đi của tự thân
trong xã hội; giúp học trò chọn nghề nghiệp thích hợp và
tạo điều kiện cho học trò có cơ sở làm ăn khi rời
khỏi nhà trường.
Thật là thực tiễn khi Thế Tôn
dạy thầy giáo hướng nghiệp cho học trò và kiếm việc
(nhiệm sở) cho học trò sau khi học xong!.
3. Tương hệ giữa chồng và vợ:
Phương Tây là chỉ mối quan hệ
giữa vợ chồng. Mối tương hệ này là thiêng liêng, đáng
được tôn kính đảnh lễ. Ý nghĩa thực sự của đảnh
lễ chính là công việc xây dựng mối tương hệ tốt và
hạnh phúc giữa hai người.
Người chồng cần phải yêu thương,
kính trọng và trung thành đối với người vợ, săn sóc chu
đáo đời sống kinh tế của người vợ với sự cung cấp
đầy đủ các tiện nghi vật chất; nuôi dưỡng tình cảm,
thường tặng quần áo, đồ trang sức.
Qua lời dạy này, chúng ta thấy rõ
mối quan tâm của Thế Tôn như thế nào đến hạnh phúc
lứa đôi. Thương yêu chưa đủ, hạnh phúc còn đòi hỏi các
nhu cầu thực tiễn hơn thế nữa. Thông thường thì khi đã
là vợ chồng, có người thường thiếu sự cảnh giác trong
thái độ đối xử với nhau; đây là một thiếu sót. Kính
trọng là một thái độ cần thiết trong tương giao của
vợ chồng; thái độ này nói lên sự kính trọng đầy tính
người, vừa làm cho tình yêu rực rỡ thêm trong đón nhận
an lạc và hạnh phúc. Thái độ kính trọng cần được
thực hiện từ đáy lòng và bền chặt; do vì kính trọng nên
không được gây tổn thương đến danh dự, giá trị của
nhau bằng bất cứ việc làm nào; yêu người khác là gây
một tổn thương lớn cho người bạn đời, do đó đòi
hỏi phải trung thành với nhau.
Hạnh phúc giữa hai người còn
thực tế liên hệ đến đời sống vật chất, kinh tế gia
đình; người vợ cần được người chồng bảo đảm các
tiện nghi sống. Khi lòng yêu thương và kinh tế gia đình
ổn định, mối tình cảm, tương hệ cũng cần được nuôi
dưỡng liên tục; thỉnh thoảng sắm quà tặng cho người
vợ, đấy là cách tỏ bày tình thương yêu, quý mến và lòng
trung thành của người chồng. Ði đâu xa về mà người
chồng có quà dành cho người vợ thì người vợ sẽ yên tâm
rằng người chồng luôn luôn nghĩ đến mình và không để
lòng yêu thương người khác. Thế là tương giao đã thắm
thiết trở nên càng thắm thiết.
Áo mặc và đồ trang sức là món
quà rất phù hợp với mong chờ của phái nữ. Quà loại này
vừa nói lên tính thực tế trong việc sử dụng nó, vừa nói
lên tính tâm lý làm phát khởi niềm hoan hỷ và thiện cảm
nơi người nhận.
Ðáp lại, người vợ phải thương
yêu, kính trọng và trung thành với chồng. Ðây là đòi
hỏi tất yếu.
Trong khi người chồng bận rộn
với công việc xã hội, thì bổn phận người vợ là quản
lý giỏi các công việc và của cải làm ra của gia đình,
khéo điều hành và khéo đối xử; niềm nở đón tiếp
những người ở gia đình chồng với sự kính trọng; vui
vẻ với láng giềng. Người vợ không được ỷ lại vào
sự săn sóc yêu thương của chồng; lại không được
ngoại tình, không được sai khiến chồng như bà chủ, không
được phung phí tài sản. Nếu người vợ ngoại tình, sai
khiến chồng và phung phí tài sản thì sau khi chết sẽ đoạ
địa ngục (Tăng Chi III, phẩm Bảy Pháp). Người vợ cư
xử với chồng trong tư cách của người vợ, người yêu,
người bạn, và có khi như là vai trò của người mẹ, người
chị hay người em gái của chồng. Với các thái độ cư
xử này, sau khi chết, người vợ sẽ được hưởng phước
báo sanh thiên.
Qua những lời dạy trên của
Thế Tôn (Trường Bộ IV, và Tăng Chi III), vợ chồng cư xử
với nhau hiện rõ trong ba vai trò: người chồng (hay vợ), người
yêu và là người bạn. Vai trò của người chồng (hay vợ)
như là vai trò của bổn phận; vai trò của người yêu là
vai trò tình cảm đặc biệt của đôi vợ chồng; vai trò người
bạn là vai trò nói lên tính bền bỉ và chia xẻ của tương
hệ của vợ chồng. Ba vai trò đó cần được thường xuyên
vận dụng hợp thời và hợp chỗ. Khi một người bị
bệnh, thì người kia đóng vai trò săn sóc của người cha
(hay mẹ), của anh, em (hay chị, em). Trong các công việc gia
đình, xã hội thì cần sự bàn bạc, hợp tác, chia xẻ;
bấy giờ cặp vợ chồng xuất hiện như là hai người
bạn. Lúc yêu thương, đấy là vai trò của người yêu. Vai
trò này cần được duy trì cho đến trọn đời, chứ không
phải trong buổi đầu gặp gỡ.
Về hạnh phúc gia đình trong đời
sống hiện tại, Thế Tôn dạy cả hai người cần thực
hiện bốn điều:
1. Làm việc giỏi, siêng năng,
quản lý giỏi, giàu nghị lực.
2. Bảo vệ tất cả của cải
đã được làm ra một cách hợp pháp.
3. Tiêu dùng đúng việc, đúng
mức: không phung phí, cũng không keo rít.
4. Giao du với bạn bè có tính
khoan dung, cởi mở, có tín, thí, giới và tuệ.
Hoặc thực hiện bốn điều này:
1. Tháo vác, làm ra nhiều của
cải.
2. Quân bình chi thu. Thu phải
trội hơn chi. Lợi tức làm ra cần được sử dụng 1/4
cho việc chi tiêu hàng ngày, 1/4 cho bất thường chi, và 2/4
dùng vào vốn để đầu tư.
3. Quân bình sức khỏe và tâm lý.
Cần làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi có tiết độ. Không
nên buồn nản, cũng không nên để mình quá vui, quá bận
rộn.
4. Giao du với bạn có tín, thí,
giới và tuệ.
Về hạnh phúc gia đình cho mai sau
(cho kiếp sau), Thế Tôn dạy cần thực hiện bốn điều:
1. Tín: Có lòng tin vào ngôi Tam
Bảo. Tin rằng Thế Tôn là bậc giác ngộ hoàn toàn. Tin
rằng Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết giảng có khả
năng đoạn trừ tham, sân, si, tất cả khổ đau. Tin rằng
chúng Tăng là đoàn thể hoà hợp, sống cao thượng trong
Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, đáng được tôn kính, cúng
dường và học hỏi.
2. Thí: Cần có lòng khoan dung và
thương người, giúp đỡ các người khác với các của
cải mình có; thường cứu giúp người nghèo và cúng dường
chư Tăng.
3. Giới: Cuộc sống cần có
giới hạnh; giữ gìn năm giới cấm một cách nghiêm
chỉnh.
4. Tuệ: Hiểu biết khổ đau,
con đường đi ra khỏi khổ đau, và có chí cầu tu tập để
giải thoát khổ đau.
Thực hiện được các lời dạy
trên thì người Phật tử sẽ tìm thấy hạnh phúc tương đối
trong hiện tại và trong các đời sau. (Theo Tăng Chi II, phẩm
Bốn pháp).
Người Phật tử xây dựng một
nếp sống như vậy thì rất thiết thực và vừa với cấp
độ giá trị của con người, có thể tìm thấy hạnh phúc
rất là người và vừa có thể hướng về giải thoát cao hơn.
4. Tương hệ bạn bè:
Phương Bắc chỉ bạn bè. Mối tương
hệ này cũng cao cả, cần được tôn kính. Con người cần
đối xử nhân từ với nhau, nói năng từ ái, hòa nhã;
phải sống hòa hợp mà không gây gỗ, cãi vã; giúp ích cho
nhau trong những khi cần, và không bỏ nhau khí khó.
Tương giao như thế là mối tương
giao đầy tình người. Bạn bè cũng là một như cầu sống
của con người. Hẳn sống ai cũng cần có bạn, và bạn
phải là bạn tốt để đem lại an vui cho nhau. Tình bạn
được xây dựng tốt cũng là một thứ hạnh phúc của tương
giao.
5. Tương hệ giữa chủ và người
cộng sự:
Phương Dưới chỉ liên hệ giữa
chủ và người cộng sự. Mối liên hệ này cũng cao quý,
thiêng liêng. Người chủ nhà (hay chủ cơ sở) có nhiều
bổn phận đối với các cộng sự: giao công việc vừa
khả năng và sức khỏe; trả tiền thù lao thích đáng; cung
cấp các thuốc men trị bệnh; và thỉnh thoảng an ủi, khích
lệ và tưởng thưởng hay tặng quà.
Ðáp lại, người cộng sự cần
phải làm việc cần mẫn, giỏi dắn, lương thiện, thành
thực và không xảo trá. Liên hệ này cũng thể hiện đầy
tình người, đầy tình tương thân tương ái, tạo nên một
không khí tương giao của cuộc sống rất nhẹ nhàng và an
lạc. Ai cũng có thể đón nhận một cảm giác rằng sống là
để hạnh phúc, xây dựng mà không phải là để làm việc,
để khổ đau cho dù có phải làm việc trọn ngày.
6. Tương giao giữa các tu sĩ và cư
sĩ:
Phương Trên là chỉ các tu sĩ và
mối tương giao giữa các tu sĩ và cư sĩ. Ðây là liên hệ
thiêng liêng, là liên hệ Phạm thiên, đáng tôn kính.
Các Phật tử thì săn sóc ủng
hộ các tu sĩ các nhu cầu vật chất tối thiểu (y áo,
thuốc men, giường chiếu và thực phẩm) và biểu lộ chân
thành lòng thương yêu, kính trọng. Các tu sĩ thường bị ràng
buộc bởi giới luật nên không nói rõ các Phật tử các
nhu cầu trên. Các Phật tử cần rõ điều này, đến gần các
tu sĩ để biết các vị đang cần gì để hộ trì. Hộ trì
tu sĩ có nghĩa là hộ trì Chánh pháp, mong muốn Chánh pháp
được tồn tại lâu dài giữa đời. Chánh pháp tồn tại lâu
dài thì cuộc đời được thêm phần an lạc. Hộ trì tu sĩ
như thế có nghĩa là đóng góp vào việc xây dựng an lạc
cho cuộc đời, cho chính tự thân người hộ trì.
Ðáp lại, người tu sĩ vốn là vô
sản, trọn ngày chỉ học Phật Pháp, khất thực và hành
Thiền định, chỉ có trao cho người cư sĩ tấm lòng từ
mẫn, lân mẫn, các hiểu biết về các pháp, và giới
thiệu các cư sĩ con đường chân chính đoạn khổ, xây
dựng hạnh phúc ở đời. Tương hệ này là đầy tình đạo
và tình người.
Vị tu sĩ chỉ trao truyền kiến
thức và kinh nghiệm tu tập cho các Phật tử, cung cấp các
kiến thức, trao truyền năm giới, mười giới, bát quan trai
giới, và khích lệ các Phật tử giác tỉnh vô thường mà
phát khởi tinh tấn tu tập.
Thiếu lòng từ mẫn, thiếu kinh
nghiệm của học hỏi và tu tập Phật pháp thì dù có đầy
đủ ý thức trách nhiệm đối với cư sĩ, các tu sĩ cũng
không đóng được vai trò của mình, cũng không giữ được
thiên chức thiêng liêng cao cả của mình. Nhận sự hộ trì
của các tu sĩ là nhận lãnh trách nhiệm giáo dục của mình,
là chấp nhận mối tương giao rất hợp lý, đầy tình người
và tình đạo, như Thế Tôn đã dạy về mối tương hệ
ấy.
Mối tương hệ đó như là sự
trao đổi hai chiều các nhu cầu của mỗi phía một cách công
bằng và có tính cách tự nguyện mà không ràng buộc nhau,
không gây thiệt thòi cho phía nào. Người tu sĩ không phải
chỉ giảng dạy Phật pháp và con đường tu tập, mà còn đảm
trách thêm việc giáo dục hướng dẫn về kinh tế, quản lý
gia đình và các tâm lý cá nhân, xã hội, những gì trực
tiếp ảnh hưởng đến hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã
hội.
Tóm lại, nhu cầu người cư sĩ
chờ đợi ở tu sĩ là nhu cầu giáo dục (theo nghĩa rộng),
và nhu cầu người tu sĩ chờ đợi ở cư sĩ là nhu cầu
kinh tế. Hai nhu cầy ấy bổ sung cho nhau trong một hòa điệu
của sự hưng thịnh của Phật giáo và sự an lạc, hạnh phúc,
phồn vinh của cuộc đời.
Sáu mối tương quan trên còn có
ý nghĩa rằng sống là tương quan tương duyên, rằng con người
là con người của tương giao xã hội, và xã hội là xã
hội của các cá nhân con người. Ðấy là mối tương hệ
không thể cắt xén: không thể sống mà chỉ biết có cá nhân,
cũng không thể sống mà cá nhân bị đánh mất hoàn toàn.
Về giải thoát, thì phải là vấn đề cá nhân; nhưng về
hạnh phúc tương đối ở đời thì phải là hạnh phúc
của tương giao. Lo cho hạnh phúc tương giao là vấn đề lo
cho hạnh phúc của tập thể, toàn thể. Khi dạy về hạnh
phúc cá nhân, chính Thế Tôn lại nói đến hạnh phúc của
gia đình và tập thể.
Thiết lập tương giao tốt giữa
con người, đấy là một nghệ thuật sống. Nghệ thuật này
được xây dựng trên các yếu tính: kính trọng nhau, chấp
nhận nhau, thành thực với nhau, và thương yêu giúp đỡ
lẫn nhau vì hạnh phúc chung.
Nếu trước đây Thế Tôn đã
cặn kẽ dạy chàng thanh niên Singàla hướng về tôn kính, xây
dựng sáu mối tương giao kia, thì ngày nay người tu sĩ cũng
cần hỗ trợ cho các Phật tử tại gia công việc tương
tự. Ðể thể hiện tốt vai trò hướng dẫn, chỉ đạo
của mình, vị Tỷ-kheo cũng cần có kiến thức về tâm lý,
về kinh tế, xã hội. Ðời sống vị Tỷ-kheo, qua mối tương
giao này, không chỉ giới hạn trong khuôn viên nhà chùa, mà
cần phải đi vào sự quan tâm đến hạnh phúc của người
đời với thái độ dấn thân tích cực hơn.
Kinh nghiệm lịch sử, đặc biệt
là lịch sử Việt Nam, cho thấy thời đại nào mà có
nhiều tu sĩ Phật giáo chân chính hành đạo với kiến
thức uyên bác, dấn thân giúp đỡ xã hội thì Phật giáo hưng
thịnh và dân tộc cũng hưng thịnh, như đời Lý, Trần;
thời đại nào các vị Sư thu mình về trong khuôn viên nhà
chùa, trong tinh thần lánh thế, hay đi xa con đường thực hành
Giới, Ðịnh, Tuệ thì thời đại ấy Phật giáo suy vong,
hay đi vào suy vong, và dân tộc cũng không hùng cường, như
cuối đời Lý, cuối đời Trần và qua triều Lê, Nguyễn.
Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa cần được hiểu một cách sáng
tỏ là làm dậy sức sống giải thoát trong mỗi người, đem
lại an lạc cho mình và người, chứ không phải để buộc
chân người cứu thế, độ đời.
Người tu sĩ và người cư sĩ đều
cùng lúc có hai bổn phận chính yếu: một bổn phận đi vào
giải thoát và một bổn phận xây dựng hạnh phúc cho đời.
Xây dựng được mối tương giao thứ sáu tốt đẹp là làm
tròn hai bổn phận đó. Và ngược lại.
Sáu mối tương hệ trên có thể
được học đường ngày nay đem vào nền giáo dục nhân
bản, giáo dục con người rất người bên cạnh các kiến
thức chuyên môn.
(Xin xem tiếp đoạn kế)
-oOo-
Bài
trước
|
Mục lục | Ðoạn
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục