"Này các Tỳ-kheo, có thể có vị
Tỳ-kheo nói: "Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của bậc
Đạo Sư”. Này các Tỳ-kheo, các Thầy
không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của vị Tỷ-kheo ấy, không
tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ
lưỡng và đem so sánh với kinh, đem đối chiếu
với luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ứng với
luật thì các thầy có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là
lời Thế Tôn, và vị Tỷ-kheo đã thọ giáo
sai lầm".Và này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng. Khi
đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật,
và nếu chúng phù hợp với kinh, tương ứng với luật, thời các thầy có
thể kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn. Và vị
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chân chánh".
Chúng ta phải thận trọng, không
hủy báng, không tán thán, học hỏi từng chữ, từng câu, rồi
đem đối chiếu với kinh, đối chiếu với luật;
có phù hợp mới chấp nhận, không phù hợp thời không chấp nhận. Thái
độ suy tư chín chắn, phối hợp thích nghi,
thật là một phương pháp hữu hiệu và thực tiễn, khi phải
đối trị với những phức tạp tuyên
truyền xuyên tạc.
Đức Phật trả lời, với thái độ
suy tư, trầm lặng trong sáng như hồ nước trong của những
tâm hồn sáng suốt:
"Phải
đấy, hỡi những người Kalama, các người hoài
nghi, hoang mang là phải; các người nghi ngờ những
điều đáng nghi ngờ. Này các Kalama,
chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có
tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được
kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có
tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì
đánh giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì
phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc
Đạo Sư của mình. Này các người Kalama,
khi nào các người biết rằng: "Những việc này là xấu, những việc này là bất
thiện, những việc này bị người có trí chỉ trích, những việc này nếu tuân
theo và thực hiện sẽ mang lại tai hại và xấu xa", thì các người hãy từ bỏ
chúng... Này các người Kalama, khi nào các người biết rằng: "Những việc
này là tốt, những việc này là thiện, những việc này
được người có trí tán thán, những việc này
nếu tuân theo và thực hành sẽ mang lại lợi ích tốt
đẹp”, thì các người hãy chấp nhận
chúng"(Tăng Chi I,
Đại Tạng, Kinh Các vị ở Kesaputta,
trang 336).
Chúng ta thấy rõ,
đức Phật bao giờ cũng kính trọng sự suy tư,
nhận xét và quyết định của chúng ta,
Ngài không muốn chúng ta nhắm mắt tuân theo Ngài, vâng theo sự phán
xét của Ngài. Ngài không muốn chúng ta đóng
vai trò thụ động, nhắm mắt tin theo
truyền thống, tin đồn hoặc dựa vào uy tín cá nhân hay của Thầy mình
để khỏi phải suy tư, quyết đoán. Ngài
đòi hỏi ở những Phật tử một sự suy tư
chín chắn, một ý thức kinh nghiệm bản thân, rồi mới
đánh giá sự việc là thiện hay ác, tiếp
đến mới có thái độ tuân theo hay từ bỏ. Chúng
ta sung sướng vì đức Phật trọng chúng
ta, vì đức Phật tin ở khả năng suy tư
chín chắn của chúng ta, vì chính thái
độ rất “người” trong chúng ta có những tiềm năng nhận xét khá chính xác,
khỏi đóng vai trò thụ động, nô lệ cho
ai cả.
Khi nói
đến giáo dục, chúng ta thường liên
tưởng đến đào tạo kiến thức, huấn
luyện khả năng chuyên môn cho học
viên. Nếu có đề cập đến tác phong đạo đức,
thời xem vấn đề này như một vấn đề
luân lý đạo hạnh, ấn định bởi truyền thống hay tập tục xã hội. Quan
niệm này không đi ra ngoài mục
đích và
đường hướng giáo dục đương thời, nhưng đã bỏ rơi hay không
đánh giá đúng mức quan trọng hai khía cạnh
“thái độ” và "phương pháp" của giáo dục mà theo chúng tôi nghĩ phải
đóng một vai trò quan trọng
để xây dựng một nền giáo dục gọi là
toàn diện hay trọn vẹn.
Vấn
đề sở dĩ đặt ra ở đây là vì con người
của chúng ta khi đối mặt với các sự vật bên
ngoài hay những khái niệm bên trong đều có
những phản ứng, những thái độ, những cử chỉ của thân thể, của miệng nói
hay của ý thức, những danh từ mà đạo
Phật gọi bằng danh từ chuyên môn là Kàyakamma (thân nghiệp), Vacikamma
(khẩu nghiệp) và Manokamma (ý nghiệp). Một người thích uống rượu bia, cảm
thấy sung sướng khi có chai rượu trước mặt mình và có cử chỉ
đem chai rượu về cho mình
để uống. Trái lại một người ghét rượu thời
cảm thất khó chịu khi có chai rượu trước mặt và muốn xua
đuổi chai rượu như xua đuổi ruồi, muỗi. Còn
nếu không ghét cũng không thích rượu, thời
đối với rượu có cử chỉ thản nhiên, tự tại.
Tóm lại, con người của chúng ta
đứng trước các đối tượng bao giờ cũng có một
trong ba phản ứng: Một là ưa thích,
đem về cho mình đối tượng mình
ưa thích; hai là ghét bỏ, đẩy xa mình
đối tượng ấy; thứ ba là thản nhiên,
không ưa thích cũng không ghét bỏ. Đạo Phật
gọi cử chỉ đem về cho mình là tham (lobha), cử chỉ
đẩy xa mình ra là sân (dosa), và cử
chỉ thản nhiên là xả (upekkhà). Định nghĩa này
không bao hàm một ý nghĩa luân lý, đạo đức gì
mà chỉ là một phản ứng của con người trước những
đối tượng sai khác. Đức Phật với cái nhìn
tâm lý của Ngài, thấy con người luôn luôn bị chi phối, bị ảnh hưởng bởi sự
vật bên ngoài, không tự tại, không tự chủ. Và phương pháp giáo dục ở nơi
đây là nhằm huấn luyện con người
được tự chủ, tự tại đối với các đối tượng.
Nói một cách khác, con người phải được giáo dục như thế nào
để con người trở thành một người chủ
đối với đối tượng, chứ không phải là
một người nô lệ của đối tượng.
Đức Phật đi xa hơn, Ngàỉ
tìm nguyên nhân của tham và của sân. Ngài tìm hiểu tại sao con người lại
có hai phản ứng trái ngược đối với đối tượng,
và Ngài tìm thấy rằng sở dĩ có tham vì hiểu lầm có một tự ngã, nên
đem về cho mình cái gì tự ngã ưa
thích; sở dĩ có sân, vì hiểu lầm có một tự ngã, nên hất xa mình ra cái gì
tự ngã ghét bỏ. Sự hiểu lầm ở nơi đây, đạo
Phật gọi là si hay moha.Chúng ta có tham vì có si, chúng ta có sân
vì có si, tham luôn luôn đi đôi với si và
sân luôn luôn đi đôi với si chớ tham không
khởi lên một lần với sân. Và giáo dục ở nơi
đây nhằm trừ diệt si hay thay đổi một quan
điểm sai lầm bằng một quan điểm đúng đắn, thay hiểu lầm (vô minh) bằng trí
tuệ. Nói một cách khác, giáo dục theo đạo Phật chú trọng lấy trí
tuệ (Duy tuệ thị nghiệp) diệt trừ si mê, si mê trừ, thời tham và sân cũng
được diệt trừ luôn. Chỉ cần có một kiến thức,
một quan điểm, một cái nhìn đúng đắn
(giác ngộ), thời mọi hành vi thiện ác, tham sân
đều được diệt trừ (giải thoát). Vấn
đề giáo dục không còn là vấn
đề đạo đức, luân lý nữa, mà là vấn
đề kiến thức, vấn đề tri kiến, vấn đề trí
tuệ, vấn đề thái độ, vấn đề phản ứng.
Lời khuyên sau
đây của vua A-dục, trong Bia ký số XII
có thể khiến nhiều người không bằng lòng: "Người ta không nên chỉ kính
trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn giáo của kẻ khác, mà
phải kính trọng tôn giáo kẻ khác vì lý do này hay lý do khác. Như thế ta
có thể làm cho tôn giáo mình phát triển và giúp
đỡ các tôn giáo nữa. Nếu không, tức là
ta đã đào
huyệt cho chính tôn giáo của mình và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào
chỉ kính trọng tín ngưỡng của mình và bài xích những tín ngưỡng khác, thực
ra họ đã làm thế vì sùng tín ngưỡng
của riêng mình, nghĩ rằng: "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của tôi". Nhưng
trái lại, khi làm thế họ đã tổn thương
tôn giáo mình một cách trầm trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hài là tốt
đẹp: Mọi người nên lắng nghe và có
thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà người khác
đề xướng”. (Con Đường Thóat Khổ W. Rahula –
Thích Nữ Trí Hải dịch, trang 20).
Chúng ta hiểu rằng: Là Phật tử,
không phải nghĩa là theo một tôn giáo tên Phật giáo mới
được gọi Phật tử, mà chính cần có cử
chỉ tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng khác mới là Phật tử. Cử chỉ
trầm lặng bình thản trước sự vô thường của
đức Thế Tôn cùng cử chỉ tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng
khác với mình là hai thái độ, hai cử chỉ,
biểu hiện chất liệu giải thoát và khoan dung của
đạo Phật. Giáo hóa, giáo dục ở nơi đây chính
giúp chúng ta có một thái độ, có một cử chỉ thích nghi, hợp lẽ khi chúng
ta phải đối diện với những tình trạng
đa diện của xã hội ngày nay.
Có người sẽ bảo, giáo dục như
vậy khiến con người trở thành cây đá, không tình
cảm, không ham muốn, thời đời còn gì
là thú vị nữa. Thật sự vấn đề ở đây không
phải đời thú vị hay không thú vị. Vấn đề chính là nơi phản ứng con
người trước muôn vàn đối tượng, và con
người cư xử, hành động, phản ứng như một
người chủ hay như người nô lệ, chỉ có thế thôi.
Đạo Phật còn
đi xa hơn, đức Phật xem con người là
tổng hợp của hai năng lực mà danh từ
chuyên môn gọi là Sắc mạng căn (Rùpajìvitind
riya) và Danh mạng căn
(Nàmajìvitindriya). Những động lực làm
con người sống, con người lớn và già, những sức mạnh khiến máu chạy, tim
đập, mạch nhảy, phổi thở, những năng lực
khiến tóc dài, xương cứng dần và dài thêm, những sức mạnh khiến tay
chân cử động, khiến con người có cử chỉ này,
có lời nói nọ... ; đạo Phật gọi là
Sắc mạng căn. Những sức mạnh khiến con người
cảm thấy vui buồn, sung sướng hay đau khổ, tham muốn vật này, chán
ghét vật khác, khi suy tư như thế này, khi lo nghĩ như thế kia, tất cả
động lực làm thế giới tình cảm, thế
giới trí thức, thế giới tâm linh họat động,
tất cả động lực sức mạnh ấy gọi là Danh mạng căn.
Và con người là sự tổng hợp của hai sức mạnh, khả năng,
năng lực ấy. Hai năng lực này liên quan mật thiết với nhau, tương
quan và tương trợ lẫn nhau. Những món ăn của
chúng ta không những ảnh hưởng đến thể chất chúng ta mà còn ảnh
hưởng đến thế giới tình cảm, thế giới
trí thức của chúng ta. Trái lại, những điều
chúng ta lo nghĩ, những tư tưởng chúng ta suy tư, những sách vở chúng ta
đọc, lòng tham, lòng sân của ta đều có
những phản ứng tương xứng đến thân thể của chúng ta. Vì con người
của chúng ta là sự tổng hợp của hai năng lực
như vậy, nên trong con người của chúng ta phát ra những quang
tuyến, những sức mạnh vô hình ảnh hưởng đến
cảnh vật xung quanh. Có người mới gặp lần đầu đã trìu mến cảm phục
chúng ta. Có người mới thấy, đã thù
ghét chúng ta ngay, không cần phải suy nghĩ
đắn đo. Lời nói của chúng ta, bộ điệu của chúng ta, dáng mặt của chúng ta,
tư tưởng của chúng ta đều phát tiết những sức mạnh, những ảnh hưởng chi
phối người và vật mà ta tiếp xúc; đạo
Phật dùng một danh từ mahesakkà, người có thế lực và appesakkà,
người ít thế lực (Đức Phật và Phật
pháp trang 306); để chỉ cho khả năng chi phối
của con người. Như vậy chúng ta thấy sự tu hành hay nói cho
đúng hơn là sự giáo dục ở nơi
đây là làm thế nào
để huấn luyện cho mỗi cá nhân hàm chứa
và phát triển những khả năng, nhưng sức mạnh
chi phối tốt đẹp đối với người hay cảnh vật mà mình tiếp xúc. Ở nơi
đây, vấn đề kiến thức không còn
được đặt ra mà chính vấn
đề khả năng, vấn đề vận dụng sức mạnh tâm
linh, sức mạnh đạo đức được đặc biệt chú trọng. Nhưng để tránh những hiểu
lầm, chúng ta cần xác định những sức mạnh này không có hàm nghĩa
luân lý, dù rằng chúng có thể có những tác dụng gọi là
đạo đức.
Như vậy con người biến thành
một trung tâm có những năng lực hấp dẫn và
xua đẩy đối với sự vật và sự vật cũng
có khả năng hấp dẫn và xua
đẩy con người, mà danh từ chuyên môn
của đạo Phật gọi là tham (lobha), và
sân (dosa), dù rằng đó không có một tác dụng
luân lý. Chúng ta để hai kim địa bàn gần nhau,
đầu kim chỉ Bắc của địa bàn này tìm
đến và dính liền với
đầu kim chỉ Nam của địa bàn kia, trái
lại xua đẩy đầu kim chỉ Bắc. Sự hấp dẫn và
xua đuổi này chỉ là một
định lý thuận ứng và nghịch ứng, không
có tính cách luân lý. Với định lý này,
chúng ta thử tìm hiểu những hiện tượng đã
xảy ra mà chúng ta thường cho là định mệnh
hay may rủi do một sự thường phạt của một đấng thiên liêng nào.
Chúng ta thấy có người chỉ chậm
bước có một phút mà thoát chết nạn phi cơ, hay nhờ thình lình cúi xuống mà
tránh được viên
đạn bắn phải. Nhiều khi chết sống, trở thành
vấn đề đường tơ kẻ tóc. Viên
đạn mà chúng gọi là vô tình hình như
lựa chọn người này tránh né người kia. Quả bom mà chúng ta gọi là vô tình,
hình như lựa chọn chỗ mà rơi, tìm chỗ mà trúng. Chúng tôi nói hình như,
thực sự không có gì là hình như cả mà chỉ bị sự chi phối của
định lý thuận ứng và nghịch ứng,
định lý hấp dẫn và phản hấp dẫn. Và
hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy vấn đề giáo
hóa hay giáo dục ở nơi đây hoàn toàn hướng về
đào tạo cho cá nhân những sức mạnh Sắc
mạng căn và Danh mạng căn
như thế nào, để con người trở thành
một chủ lực tác động chi phối hơn là
một tha lực thụ động, bị chi phối.
Hào quang của
đức Phật chỉ là sự tinh tụ lại những
phản xạ giác ngộ và thanh tịnh của Sắc mạng căn
và Danh mạng căn của Ngài,
không có gì gọi là bí mật hay luân lý cả. Trở lui về thế giới con người và
bước vào địa hạt thực tế hơn, chúng ta thấy rõ
con người hiện tại bị dao động mãnh
liệt trước sự chi phối của chính trị, kinh tế, xã hội trước sự hấp dẫn của
vật dục. Con người hiện tại sống dao động,
hoang mang, lo âu, sợ hãi, nghi ngờ, bối rối, thiếu hẳn sự bình
tĩnh của những con người không bị dao động,
mất hẳn thái độ tự tại của những tâm hồn tự chủ, vắng bóng hẳn nét thản
nhiên của những tư thái quân bình. Cho nên một nền giáo dục gọi là
toàn diện, ngoài sự đào tạo cho tuổi
trẻ những kiến thức tổng quát, những khả năng
chuyên môn, còn phải luyện cho tuổi trẻ một tâm hồn quân bình, một
thái độ tự tại và một tư thái thanh
thản.
Lời
đức Phật dạy thật là giản dị, vì chỉ
có người sáng suốt mới thốt ra những lời giản dị. Nhưng những lời giản dị
ấy lại được ví như tiếng rống con sư tử, làm
tà ma ngoại đao khiếp đảm, làm hung
thần ác quỷ run sợ. Như vậy lời dạy của Ngài hàm chứa cả một sức mạnh phi
thường, một khả năng chi phối mãnh
liệt. Chúng ta hãy tìm hiểu hiệu năng của lời
Phật dạy đối với vấn đề lãnh đạo,
nguyên tắc lãnh đạo, nhất là vấn
đề lãnh
đạo Giáo hội. Vì đây là một vấn
đề hết sức quan trọng đã chi phối bao
nhiêu hoạt động của tu sĩ cũng như cư sĩ và
làm một số người phải thắc mắc phân vân.
Thấy
đức Phật già yếu,
Đề-bà-đạt-đa
từ lâu muốn chiếm ngôi vị Giáo chủ, đến thưa với đức Phật: “Bạch Thế Tôn,
hãy yên tâm tu Thiền nhập định và
giao trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội Tăng già
cho tôi, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm". Lời
đức Phật trả lời thật dứt khoát rõ
ràng. "Ta còn không giao trách nhiệm lãnh đạo
Giáo hội cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, huống nữa là cho Thầy,
vừa vô trí, mà nhỏ nhen tâm địa. (Vinaya, II
trang 188)”. Chúng ta dễ hiểu vì sao
đức Phật không giao cho Đề Bà Đạt Đa
đứng ra lãnh đạo Giáo hội. Nhưng điều
làm chúng ta phân vân thắc mắc là vì sao
đức Phật từ chối cả với hai Ngài Xá
Lợi Phất, trí tuệ đệ nhất và ngài Mục
Kiền Liên thần thông đệ nhất. Đoạn kinh sau này,
trích trong kinh Mahà-Parinibbàna (Những Ngày và Những Lời Dạy Cuối Cùng
của Đức Phật trang 47, 48), giúp trả lời sự
phân vân của chúng ta. Ngài A Nan lo sợ
đức Phật nhập diệt mà không có lời
trối trăn cho Giáo hội, đức Phật trả lời: “Này
Ananda, chúng Tỳ kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta? Này Ananda, Ta
đã giảng Chánh pháp, không có phân
biệt trong ngoài, vì này Ananda, đối với các
pháp, đức Như Lai không bao giờ là vị
Đạo sư còn nắm tay (mitthi-àcarya). Này Ananda, những ai nghĩ rằng:
"Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo hay chúng
Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này Ananda, Như Lai không
có nghĩ rằng: "Ta sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ
kheo, hay chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của Ta”, thời này Ananda,
làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỳ kheo?" (trang 100).
Trong
đoạn kinh này,
đức Phật đã khiêm tốn từ chối vai trò
lãnh đạo của mình, và không chịu xem
chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn của mình. Chúng ta chắc chắn
đức Phật không bao giờ có những cử chỉ khiêm
tốn hão, những lời nói đưa đẩy, những lời nói
để mà nói. Ngài từ chối sự lãnh đạo, vì
vai trò của Ngài chỉ là một vị chỉ đường:
“Tumhchi Kiccam àtappam".
"Tathàgoto akkhàtaro"
Dhammapada, số 276, "Các người hãy nỗ lực cố gắng,
đức Như Lai chỉ là vị chỉ
đường”.
Lời khuyên tiếp của
đức Phật cho ngài Ananda nêu rõ
đường hướng giáo hóa Tăng, Ni của đức Phật,
nếu chúng ta muốn xem đức Phật là một nhà giáo hóa:
"Vậy nên, này Ananda, hãy tự
mình là ngọn đèn cho chính mình; hãy
tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, chớ nương tựa một gì khác".
"Này Ananda, những ai, sau khi
Ta diệt độ, tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự mình y tựa
chính mình, không y tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác; những vị ấy, này Ananda, là
những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của Ta" (trang l01). Và
để làm an lòng ngài Ananda, và một lần
nữa, cá nhân của mình để đạo pháp lên
trên, đức Phật nhắc nhủ các đệ tử của Ngài
những lời dạy, an ủi cuối cùng: "Này Ananda, nếu trong các người, có người
nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo sư không còn
nữa. Chúng ta không có bậc Đạo sư. Này
Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy". Này Ananda, Pháp và Luật, Ta
đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta
diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là
Đạo sư của các người”.
Như vậy,
đức Phật có hai thái độ giáo dục hay giáo hóa
rất rõ rệt. Đối với các đệ tử, Ngài
không đóng vai trò lãnh
đạo, mà chỉ
đóng vai trò người chỉ
đường. Các đệ tử phải tự mình nỗ lực,
phải nương tựa nơi chính mình. Cá nhân lãnh
đạo tuy không phải không quan trọng, nhưng cá nhân lãnh
đạo phải nhường bước cho nguyên tắc
lãnh đạo, đường hướng lãnh
đạo, và
đối với Giáo hội, đường hướng nguyên tắc lãnh
đạo là Chánh pháp.
Hai quan niệm lãnh
đạo này hết sức giản dị nhưng hàm chứa
những sức mạnh phi thường, vô cùng mãnh liệt vì làm
đảo lộn những quan niệm lãnh
đạo đương thời và mở
đường cho những đường hướng tư tưởng thật là
triệt để. Lãnh
đạo, giáo hóa hay giáo dục ở nơi đây, không
phải từ trên áp đặt xuống, không phải
từ ngoài vào, mà phải là từ bên trong phát ra, trách nhiệm nhà lãnh
đạo, nhà giáo dục là khơi dậy, kích
thích làm cho sống động và phát triển
những tiềm năng sẵn có trong lòng mỗi
người, và hướng dẫn, hướng thượng những tiềm năng
ấy phát triển và nảy nở hướng đến
những mục tiêu tốt đẹp hơn.
(Bài thuyết giảng cho sinh viên Trường Cao cấp Phật học
Việt Nam khóa III 1993 - 1996).
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục