.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(6)
Công Ðức và Phước Ðức
Trong mùa Vu Lan hằng năm, nhân dịp
chư tăng mãn hạ tự tứ, sau ba tháng an cư kiết hạ tu học, vào dịp lễ
trung ngươn, tức rằm tháng bảy, chúng ta thường cùng nhau làm các Phật sự
như bố thí, phóng sanh, cúng dường trai tăng, in kinh ấn tống, đúc chuông,
tạo tượng, với tâm nguyện hồi hướng cho tổ tiên phụ mẫu quá vãng
được siêu sanh tịnh độ, cầu cho cha mẹ hiện tiền được tăng long
phước thọ, với niềm báo đáp trọng ân dưỡng dục của các bậc
sanh thành, noi gương tôn giả đại hiếu Mục Kiền Liên ghi trong kinh
sách. Khi làm các Phật sự trên đây, chúng ta thường nghĩ là được
nhiều công đức và thường được tán dương đã làm được vô lượng
công đức, cho nên cứ tiếp tục làm hằng năm. Nhân mùa Vu Lan năm nay,
chúng ta hãy dành thời gian để tìm hiểu một vấn đề khá quan
trọng, đó là: "Công Ðức và Phước Ðức khác nhau thế nào?"
Ngày xưa, khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang
Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đến gặp Vua Lương Võ Ðế. Trong lúc luận
bàn đạo lý, nhà vua hỏi: "Trẫm một đời cất chùa, độ tăng, bố
thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có
được công đức gì chăng?". Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời một cách rõ
ràng rằng: "Những việc làm ấy thực không có công đức gì cả!".
Vấn đề này làm cho nhiều người thắc mắc, không biết tại làm sao
như vậy lại không có công đức gì cả? Bởi vì, theo lịch sử ghi chép lại
thì Vua Lương Võ Ðế xây cất hằng trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu
hành rất đông, thiết trai bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng,
ấn tống kinh sách nhiều vô số kể. Nhà vua suy nghĩ làm như vậy tức
nhiên được rất nhiều công đức, nhưng không ngờ khi đem vấn đề này
ra hỏi, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trả lời: Không! Tại sao vậy? Có người không
hiểu giáo lý nên giải thích là: Vua Lương Võ Ðế không đích
thân ra "công" thực hiện những việc làm đó, chỉ sai người
khác làm, nên không có "công đức" gì cả!
* * *
Thời gian sau đó, có người đem sự việc này thưa
hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được Lục Tổ dạy như sau: Quả thực là không có
công đức gì cả. Vua Lương Võ Ðế vì không biết Chánh Pháp, nên lầm
lẫn hai chữ "Công Ðức" và "Phước Ðức"! Nghĩa là cất hàng
trăm ngôi chùa, độ tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường,
bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, chỉ là những việc
làm "bên ngoài", có ích lợi cho mọi người, những việc làm
cầu phước, nên gọi là phước đức. Phước đức có công năng giúp chúng
ta giảm thiểu nghiệp chướng, tiêu trừ quả báo, để được tai qua
nạn khỏi, để được may mắn và sung sướng trên đường đời, để bớt
chướng ngại trên đường đạo, chứ không giúp chúng ta thoát ly khỏi vòng
trầm luân sanh tử. Phước đức có tính cách "hữu lậu" hay "hữu
vi", nghĩa là con người hưởng phước vẫn còn trong lục đạo luân hồi.
Khi thụ hưởng hết phước rồi thì bị đọa lạc để đền trả
quả báo.
Còn công đức là công phu tu tập "bên trong",
có ích lợi cho chính mình, nhờ hành trì theo lời Phật dạy trong các kinh
điển, luôn luôn niệm Phật, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định,
phát huy trí tuệ bát nhã. Nghĩa là chúng ta tu tập tam vô lậu học
"Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu", nhằm
mục đích cứu kính là: thoát ly khỏi lục đạo sanh tử luân hồi. Công đức
có năng lực giúp chúng ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ
giác ngộ và giải thoát. Công đức có tính cách "vô lậu" hay
"vô vi", nghĩa là không còn trong lục đạo sanh tử luân hồi nữa.
Công đức giúp con người chuyển hóa tâm tánh từ phàm phu tục tử trở
thành bồ tát, thành Phật.
Chúng ta làm những việc như lập chùa hay góp phần
xây cất chùa, tham gia phát triển chùa, phát huy các sinh hoạt, các hoạt
động của chùa, của giáo hội, giúp cho mọi người khác có được cơ sở
để tu học, để hành đạo, giúp cho Phật giáo có cơ hội phát
triển mạnh mẽ hơn, rộng rãi hơn, vững chắc hơn, độ được nhiều
người hữu duyên hơn nữa. Những việc làm này đem lại lợi ích cho
nhiều người như vậy, tức nhiên sẽ đem lại cho chúng ta thực nhiều
phước đức. Còn riêng bản thân mình thì không biết tu tâm dưỡng tánh,
không học kinh điển, không biết trì giới, không tu tập thiền
định, không phát huy trí tuệ bát nhã, cho nên tất cả việc làm trên
đây chỉ là những việc làm bên ngoài, có ích lợi cho nhiều người,
nhưng không ích lợi cho bản thân mình về phương diện giác ngộ và
giải thoát. Tại sao vậy?
Bởi vì, tâm tham lam, sân hận, si mê bên trong chẳng
những không giảm bớt mà lại có chiều hướng tăng thêm, vô minh phiền
não không tan biến chút nào mà lại có phần dầy đặc hơn. Vì chấp chặt
mình đã làm được bao nhiêu việc ích lợi như vậy, dễ có mấy ai làm
được như mình, nên tâm cống cao ngã mạn, phách lối ngày một tăng thêm,
mục hạ vô nhân, khen mình khinh người. "Bản ngã" đáng lẽ ngày một
tiêu mòn tới chỗ "vô ngã" mới hy vọng đạt được đạo cả.
Trái lại, bản ngã ngày một tăng lớn thêm, con người không còn thích nghe
lời khuyên bảo của bất cứ ai, cứ chấp chặt định kiến sẵn có mà đi
tới. Thậm chí có người chấp chặt pháp tu của mình, không muốn thay đổi,
không muốn nghe lời chỉ dẫn của bất cứ ai, dù là bực trưởng thượng, dù là
thiện hữu tri thức, lại còn dám tuyên bố: cho dù Ðức Phật Thích Ca thị
hiện bảo họ đổi pháp tu đang thực hành, họ cũng không nghe! Thậm
chí nguy! Thậm chí nguy! Bởi vậy, cho nên chư Phật Tổ dạy rằng: Những
việc làm như vậy quả thực là không có "công đức" chút nào cả,
chính là nghĩa đó vậy!
Những việc làm khác như góp phần ấn tống kinh sách
cho người khác đọc, còn mình thì không đọc, góp phần bố thí cúng
dường, giúp đỡ người hoạn nạn, nghèo khó, nhưng không hiểu ý nghĩa
cao cả của những việc làm đó, lại sanh tâm cầu mong được "trả công
bội hậu" ở cõi thiên đàng sau này. Tất cả những việc làm đó chỉ
tạo nên phước đức mà thôi. Thí dụ như có người bố thí cho nhà nghèo,
hoặc cúng chùa một số tiền nào đó, với tâm mong cầu được trúng số
độc đắc, được buôn may bán đắt, được nhất bổn vạn lợi, được thi đâu
đậu đó, được gia đạo bình an, được tình duyên may mắn, được vạn sự
bình yên, được muôn sự như ý, muốn gì được nấy. Như vậy, lòng tham
lam tăng thêm quá mức thì "làm sao có công đức được!". Làm như
vậy, chỉ có phước đức hạn chế theo số tiền đã bỏ ra mà thôi. Gieo
nhân nhỏ thì chỉ nhận được quả nhỏ, không thể khác được.
Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu
gì cả, thi ân bất cầu báo đáp, cúng chùa để chùa có thêm phương
tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để cho người
qua cơn khó khăn, túng thiếu, không đắn đo, không suy nghĩ, không tính
toán gì thêm nữa, chúng ta sẽ bớt đi tâm tham lam, bỏn sẻn, tăng trưởng tứ
vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Như vậy, những việc làm đó vừa ích
lợi cho người, vừa ích lợi cho mình. Nghĩa là vừa được phước đức vừa
được công đức. Chúng ta hãy tinh tấn làm tất cả những việc thiện,
rồi quên hết đi, không chấp chặt vào đó, để kể lể công lao,
hay mong cầu phước báo về sau, tâm cầu danh của chúng ta sẽ bớt đi, tâm
chấp ngã cũng nhẹ hơn trước, thì những việc làm đó vừa ích lợi cho
người và cho mình, tạo nên phước đức và công đức vậy.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
"Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư
Phật giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả các việc bất
thiện, không làm những việc ác, tránh những việc tổn người hại
vật, cố gắng làm tất cả những việc thiện, những việc ích lợi cho
người khác, nhưng đừng ghi nhớ, đừng chấp chặt vào những việc ích lợi
đã làm, thì tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là tu tâm
dưỡng tánh, đó là điều cốt yếu chư Phật mười phương ba đời muốn
dạy như vậy. Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai
mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không
được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý. Nếu như quên
đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi
ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta
sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn.
Trong Kinh Tâm Ðịa Quán, Ðức Phật dạy: "Tâm
địa bình thì thế giới bình". Nghĩa là tâm địa của chúng ta
bình an thì thế giới chung quanh chúng ta cũng bình an. Tâm địa chúng ta
không tham lam thì những người chung quanh khỏi lo canh chừng đồ đạc. Tâm
địa chúng ta không sân hận thì những người chung quanh khỏi điếc lỗ
tai, khỏi mỏi cái miệng, khỏi nhức cái đầu. Tâm địa chúng ta không si
mê thì những người chung quanh ăn ngon ngủ yên, khỏi lo khỏi sợ. Kể gần
thì có vợ chồng con cái, xa thì có bà con hàng xóm láng giềng, các bạn
đồng nghiệp trong sở làm, cũng được hưởng sự bình an. Nếu chúng ta
đạt được tâm bình an hiện đời, thì ngay thế gian này chính là
miền cực lạc, là cõi thiên đàng, đâu phải đợi đến kiếp sau
mới hưởng được, đâu phải đợi lời cầu chúc "sớm tiêu diêu nơi
miền cực lạc", hoặc "chóng siêu thăng lên cõi thiên đàng",
trên báo chí!
Cũng có câu: "Bình an dưới thế cho người
thiện tâm". Nghĩa là ở ngay tại thế gian này, người có tâm
hiền thiện thì đương nhiên được sự bình an trong tâm hồn. Bởi vì
người thiện tâm không phải bận tâm suy nghĩ phương cách, mưu kế hại
ai, cho nên không lo sợ bị ai hại, không phải bận tâm trừng phạt ai, cho nên
không lo sợ bị ai trừng phạt. Sự bình an không do đấng nào ban cho cả, không
do cầu nguyện mà được. Sự bình an chỉ có từ thiện tâm mà thôi.
Ngược lại, người không có thiện tâm thì tự họ không có được sự
bình an. Rất là đơn giản. Rõ ràng là như thế, không nghi! Như vậy,
chúng ta hiểu rằng "phước đức" rất cần thiết trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta. Nhờ phước đức chúng ta qua được, giảm được những
nghiệp báo, những chướng nạn trong cuộc đời, cũng như những trở ngại
trên đường tu tập. Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như
chúng ta có tiền tiết kiệm để dành trả những nợ đã vay từ
nhiều kiếp trước và kiếp này vậy. Tiền tiết kiệm
nhiều chừng nào thì mau dứt nợ chừng ấy.
Tuy nhiên, Ðức Phật có dạy chúng ta gieo nhân làm
phước, tu phước nhưng hãy hồi hướng những phước đức đó, nguyện đời
đời được gặp Chánh Pháp, được gặp thiện hữu tri thức, được nhắc
nhở việc tu tập, cho đến ngày được giác ngộ và giải thoát, chứ
đừng mong cầu hưởng quả phước sau này. Tại sao vậy? Bởi vì làm phước thì
hưởng phước, nhưng đến khi hết phước thì bị đọa, cứ vẫn loanh
quanh luẩn quẩn ở trong vòng sanh tử luân hồi, chưa thoát ra được. Ví như
mũi tên bắn lên không trung, khi hết trớn, tức nhiên rớt trở xuống đất
rất nhanh vậy. Chúng ta hãy thử nhìn những người giàu có, những người
quyền thế, những ông vua, những ông hoàng, những bà hoàng, những quận
nương, những công chúa đã và đang thụ hưởng phước báo, được giàu sang
sung sướng, xinh đẹp tuyệt trần, danh vọng tột đỉnh, vinh hoa phú
quý, đến khi hưởng hết phước báo, cuộc đời của họ kết
thúc bằng đủ mọi cách hết sức bi thảm. Luật nhân quả giải thích
được các hiện tượng đó của thế gian, đúng trong ba thời: quá khứ,
hiện tại, vị lai. Rõ ràng "mình làm mình hưởng, mình làm mình
chịu", chứ không do một đấng thượng đế nào ban phước giáng họa
một cách tùy tiện cả.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng:
"Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội
cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là
"bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm
niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh
người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường,
tùy hỷ công đức. Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để
khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ,
liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi
lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ
chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được
"công". Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có
vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng
tưởng và tạp niệm. Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết
kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm
khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruỗi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng
ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh
tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép,
cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai
cũng có "Chơn Tâm Phật Tánh" như nhau, mọi người ai ai cũng có
ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không
thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi,
không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có
nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng. Như vậy
chúng ta được nhiều người thương mến, gần gũi. Như vậy chúng ta có
được "đức". Thêm nữa, người Phật Tử muốn có công đức thì bên
trong không có tâm chấp ngã, tâm chấp pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên
ngoài hành động luôn luôn ngay thẳng, bình đẳng, công minh, chính trực. Hãy
phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chánh Pháp mà hành theo,
tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công
đức là ở "Pháp Thân", phát sanh trí tuệ bát nhã, không do tu
phước, không do làm những việc phước thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa,
giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy
Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô
biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng
sanh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà! Chúng ta cần
nên biết nếu chỉ niệm Phật A Di Ðà sơ sơ, qua loa, rồi cầu mong
vãng sanh về cõi tây phương cực lạc là biểu hiện của tâm tham
lam, tánh lười biếng, làm ít muốn hưởng nhiều! Muốn tu hành mà không
chịu học kinh điển, không gần các bực thiện hữu tri thức, nên
chúng ta không rõ chư Phật dạy phải hành trì như thế nào mới được
vãng sanh.
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng:
"Cực lạc quốc độ chúng sanh sanh giả, giai thị a bệ bạt trí, kỳ trung
đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi,
đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết. Chúng sanh văn giả, ưng
đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Ðắc dữ như
thị chư thượng thiện nhơn câu hội nhứt xứ. Bất khả dĩ thiểu
thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc". Nghĩa là cõi
Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bực bồ tát "nhứt sanh bổ
xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật,
những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi. Những người
còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não
thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể
chỉ lấy có một chút ít thiện căn phước đức làm nhân duyên, để
cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không
thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi
cứu độ chúng ta. Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta,
nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi
theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc
hiện đời và vãng sanh mai sau. Có người quan niệm "đới nghiệp
vãng sanh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ
biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sanh
về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn. Ðiều này có
vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng
đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng
phước đời đời, không cần biết đó là người như thế nào!
Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực
sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này,
đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê
lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi. Dù
có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi
về trở lại mà thôi! Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần
phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt
thì đâu cần phải tu nữa. Cũng như người còn nhiều phiền não quá,
nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không
quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu
không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh
thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy: "Nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Ðà Phật, chấp trì
danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ
nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Ðà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại
kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di
Ðà Phật cực lạc quốc độ". Nghĩa là nếu có thiện nam, thiện
nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu
đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một
ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày,
đạt được tâm yên không loạn. Khi thọ mệnh hết, người như vậy
giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sanh cõi nước tây
phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy? Bởi vì khi tâm của
người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn
loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm
ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự
đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là
"tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tánh Di
Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn
động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tánh",
tức là "Pháp Vô Sanh", không còn sanh tử luân hồi, tức đắc vãng
sanh tây phương cực lạc. Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận
kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn
động, làm sao vãng sanh được mà mong cầu! Cõi tây phương cực lạc hay
cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng
tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba
hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức
tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát!
Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin
cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng
nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động
như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh,
không loạn động, không điên đảo. Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh
tịnh, chúng ta vừa có phước đức vừa có công đức đầy đủ, phước tuệ
trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phước Tuệ
Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa
đó vậy.
Trong Kinh Tịnh Danh, Ðức Phật có dạy:"Tâm tịnh
thì độ tịnh". Nghĩa là tâm có thanh tịnh, trong sạch, yên tĩnh,
chúng ta mới có thể sống trong cõi tịnh độ, tức là cảnh giới thanh tịnh
và an lạc được. Tâm có hiền thiện, ngay thẳng chân thật, chúng ta
mới sống trong cõi thiên đàng được. Bình an dưới thế cho người
thiện tâm. Rõ ràng là như thế! Như vậy cõi tịnh độ ở ngay trong tâm
của chúng ta, ngay hiện đời, nếu như tâm của chúng ta không còn tham
lam, sân hận và si mê nữa. Ngày xưa, sau khi thành đạo, Ðức Phật Thích Ca
sống trong cảnh giới an lạc, cảnh giới tịnh độ, ngay hiện đời, ngay trên
cái thế giới gọi là ta bà khổ đối với mọi chúng sanh khác. Tâm
của ngài thanh tịnh, ở mọi nơi Ngài đều có thể sống yên tịnh
được, dù trong tịnh xá hay trong núi rừng, dù nơi vắng vẻ hay chốn đông
người, tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Trên thế gian này, chung quanh chúng ta có đủ hạng
người, có đủ loại người. Có người tạo thuận cảnh dễ dãi, giúp đỡ chúng
ta tu tập, cũng có người tạo nghịch cảnh, gây phiền hà, khó khăn, khổ
đau, để thử thách công phu tu tập của chúng ta. Tất cả mọi người
đều là thiện hữu tri thức của chúng ta cả. Nếu ai ai cũng hiền
thiện hết, không ai làm phiền mình hết, làm sao biết chúng
ta nhẫn nhịn được tới đâu? Ví như người học sinh đi học, được
thầy dạy cho kiến thức, được bạn bè giúp đỡ, rồi cũng cần có vị giám
khảo để kiểm tra trình độ, hạch hỏi, thử thách, nếu vượt qua
được, mới cấp văn bằng chứ.
Có câu chuyện hai con chim như sau: Một hôm, con chim
bồ câu thấy hàng xóm là con chim cú vọ sửa soạn dọn tổ đi, liền
hỏi: Chị định dọn đi đâu? Con chim cú vọ đáp: Dân ở đây hung ác
quá, mỗi lần gặp tôi, cứ lấy đá ném, lấy cây đánh, nên tôi định
dọn về phương tây ở, bên đó nghe nói dân chúng hiền thiện
hơn. Mong vậy lắm thay! Con chim bồ câu bèn nói: Chỗ hàng xóm láng
giềng, tôi xin nói thực, chị đừng giận tôi nhé. Theo quan điểm của
tôi, nếu chị thành tâm, chịu khó sửa cái giọng kêu ghê rợn của chị,
cho dễ nghe hơn, thì chắc không còn ai ném đá, không còn ai lấy cây đánh
chị nữa đâu. Nếu như chị không chịu sửa cái giọng khiếp đảm
khó nghe đó, thì dù có ai rước qua phương tây, chị cũng không ở yên bên
đó được đâu. Thực như vậy đó! Câu chuyện trên ngụ ý chúng ta
nên xoay lại quán chiếu, tu sửa tâm tánh của chính mình, đừng nhìn ra
ngoài trách cứ, phê phán, chỉ trích người khác, thì cực lạc hay thiên đàng
chính là đây, hiện tiền ngay tại thế gian này, ngay trong tâm của
mỗi người, rất đơn giản, rất thực tế, không cần cầu nguyện,
khỏi phải mơ tưởng viễn vông, khỏi nhọc công, không phí sức, khỏi bị
gạt gẫm, không cần tìm kiếm đâu xa.
* * *
Tóm lại, vì không biết rõ đâu là Chánh Pháp, cho
nên chúng ta không thể thực hành lời Phật dạy, một cách tường tận, một
cách đúng đắn, để thoát ly sanh tử luân hồi, thoát ly phiền não và
khổ đau. Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên
mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là mọi người phải tìm
hiểu, học hỏi Chánh Pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi
với ngọn đuốc trí tuệ Phật, bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên
tầm kinh điển, rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, giữ
gìn giới luật, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã.
Nhờ giữ gìn giới luật nên tâm trí được thanh tịnh và trí tuệ bát nhã
khai mở. Ðó chính là tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam
tuệ học "Văn Tư Tu", có khả năng đưa chúng ta đến
chỗ giác ngộ và giải thoát.
Kinh sách có câu: "Phước Tuệ Lưỡng Toàn
Phương Tác Phật". Nghĩa là chúng ta hãy phát tâm bồ đề dũng mãnh,
làm tất cả những việc tạo phước đức trong các dịp lễ thượng ngươn,
trung ngươn, hạ ngươn, và tất cả dịp nào tùy duyên, tùy khả năng, tùy
hoàn cảnh trong suốt năm, suốt đời. Ðồng thời chúng ta cũng làm tất cả
những việc tạo công đức như Văn Tư Tu, Giới Ðịnh Tuệ, để phát
triển trí tuệ bát nhã. Ðầy đủ "Phước và Tuệ" chúng
ta sẽ sống trong an lạc và hạnh phúc hiện đời và về cõi Phật sau
này, không nghi. Cũng như con chim có đủ hai cánh sẽ bay thăng bằng và bay
được xa.
Có câu: "Ai ăn nấy no. Ai tu nấy chứng". Ðó
là lẽ công bằng tuyệt đối. Cũng vậy, thực rõ ràng "Mình làm mình
hưởng. Mình làm mình chịu". Vì thế cho nên, ngay từ bây giờ, chúng
ta hãy phát tâm, tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của mình, thường
xuyên về chùa lạy Phật, nghe thuyết pháp, tham dự các khóa tu học
bát quan trai giới, để được học Phật Pháp một cách tường tận, trong
bầu không khí tu học đầy đạo vị, không phân biệt người mới phát
tâm, hay người đã tham gia tu học từ lâu, chúng ta cùng hướng dẫn nhau,
nương tựa nhau, giúp đỡ nhau, trên bước đường tu giác ngộ và giải thoát.
Ðược như vậy, chúng ta có "Công Ðức và Phước Ðức",
một cách viên mãn, một cách lưỡng toàn.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục