DIỆU ÐẾ THỨ
BA: DIỆT (Nirodha)
Sự chấm dứt khổ
Chân
lý cao cả thứ ba là có một lối thoát cho khổ đau, ra khỏi sự tiếp nối
của dukkha. Ðây là chân lý cao cả về sự chấm dứt khổ, gọi là Niết-bàn
(Pàli Nibbàna, hay thông dụng hơn, Sanskrit Nirvàna.)
Muốn tận diệt dukkha người ta phải diệt
cội gốc chính của dukkha là khát ái tanhà, như đã nói trên. Bởi thế
Niết-bàn còn gọi là ái diệt (tanhakkhaya) sự dứt tiệt dục vọng.
Bây giờ bạn sẽ hỏi: "Nhưng Niết-bàn là
gì?" Ðể trả lời câu hỏi khá tự nhiên và đơn giản ấy, nhiều sách vở đã
được viết ra nhưng chỉ làm vấn đề thêm rắc rối hơn là sáng tỏ. Giải
đáp hợp lý duy nhất cho câu hỏi ấy là, ta không thể nào dùng ngôn từ
để giải đáp đầy đủ và thỏa đáng, vì ngôn ngữ con người quá nghèo nàn
để diễn đạt thực chất của Niết-bàn, Chân lý tuyệt đối hay Thực tại tối
hậu. Ngôn ngữ được con người đặt ra và sử dụng để mô tả những sự vật
và ý tưởng thuộc kinh nghiệm giác quan và ý thức. Nhưng một kinh
nghiệm siêu việt con người như kinh nghiệm về thực tại tuyệt đối, thì
không thuộc vào phạm vi giác quan, ý thức. Bởi thế không có từ ngữ nào
để diễn đạt kinh nghiệm ấy, cũng như trong ngữ vựng của con cá không
có danh từ để diễn tả tính chất của đất cứng. Khi rùa trở lại trong
nước kể cho cá nghe nó vừa đi dạo trên đất liền, cá bèn hỏi: "Dĩ
nhiên là anh muốn nói anh bơi lội trên đó chứ?" Rùa cố giải thích rằng
người ta không thể bơi lội trên đất cứng, mà đi trên ấy; nhưng
cá vẫn khăng khăng một mực rằng không thể có chuyện như thế, đấy phải
là chất lỏng như hồ ao của nó, có sóng nước, và ta phải có thể nhào
lộn bơi lội trong đó.
Danh từ chỉ là những ký hiệu để diễn đạt
những sự vật và tư tưởng mà ta biết, nhưng những ký hiệu ấy cũng không
thể chuyên chở bản chất đích thực của cả đến những sự vật thông
thường. Ngôn ngữ được xem là lừa dối và sai lạc trong vấn đề thấu hiểu
chân lý. Bởi thế kinh Lăng già (Lankàvatàra-sutra) dạy, kẻ ngu bị mắc
bẫy danh từ như con voi sa lầy[1].
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể không
cần đến ngôn ngữ. Nhưng nếu Niết-bàn được diễn đạt và giải thích bằng
những từ ngữ khẳng định, thì ta dễ chụp ngay lấy một ý tưởng dính liền
với những từ ngữ ấy, một ý tưởng có thể hoàn toàn ngược lại. Bởi thế
Niết-bàn thường được diễn tả bằng những từ ngữ phủ định[2],
có lẽ đấy là cách ít nguy hiểm hơn. Cho nên Niết-bàn thường được nói
đến bằng những danh từ phủ định như tanhakkaya ái diệt, sự tiêu
diệt của dục vọng; asamkhata vô vi, không bị kết hợp,
không bị giới hạn; viràga vô tham, không tham; nirodha
diệt, sự chấm dứt; nibbàna tịch diệt, sự dập tắt, tắt
ngấm.
Ta hãy xem một vài định nghĩa và mô tả về
Niết-bàn như được tìm thấy trong các nguyên bản Pàli:
"Ðấy là sự chấm dứt rốt ráo của dục vọng;
vứt bỏ nó, chối từ nó, thoát khỏi nó, rứt ra khỏi nó."[3]
"Sự im bặt của mọi sự vật bị giới hạn, sự
dứt bỏ mọi xấu xa, sự diệt dục, sự giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn."[4]
"Hỏi các Tỳ kheo, thế nào là cái tuyệt
đối vô vi (asamkhata)? Này các Tỳ kheo, đấy là sự diệt tham (ràgakkhayo),
diệt sân (dosakkhayo), diệt si (mohakkhayo). Này các Tỳ
kheo, đây gọi là vô vi tuyệt đối."[5]
"Này Ràdha, sự tiêu tan của dục vọng là
Niết-bàn."
[6]
"Này các Tỳ kheo, trong tất cả pháp, dù
là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là
cao cả nhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham[7],
nhổ tận gốc sự chấp thủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải
thoát, chấm dứt, Niết-bàn."[8]
Khi được một du sĩ ngoại đạo (Pariv-ràjaka)
hỏi Niết-bàn là gì, Xá lợi phất (Sàriputta), vị đệ tử lỗi lạc của Phật
cũng đã trả lời giống như định nghĩa trên của Phật về Vô vi: "Sự diệt
tham, diệt sân, diệt si"[9]
"Sự từ bỏ, phá hủy dục vọng khát ái đối
với năm uẩn chính là chấm dứt dukkha."[10]
"Hữu diệt (bhavanirodha) là
Niết-bàn."[11]
Về sau, nói đến Niết-bàn, Phật dạy:
"Hỏi các Tỳ kheo, có cái không sinh,
không trở thành, không bị giới hạn, không được kết hợp. Nếu không có
cái không sinh, không trở thành, không bị giới hạn, không được kết
hợp, thì sẽ không có lối thoát cho cái đã sinh ra, trở thành, bị giới
hạn, được kết hợp. Bởi vì có cái không sinh, không trở thành, không bị
giới hạn, không được kết hợp, cho nên có lối thoát cho cái đã sinh ra,
trở thành, bị giới hạn, được kết hợp."[12]
"Ở đây không có chỗ cho bốn đại đất,
nước, lửa, gió; những khái niệm dài, rộng, thô, tế, xấu, tốt, danh và
sắc đều hoàn toàn bị phá hủy, không có đời này đời sau, không có đến
đi hay đứng, không có chết hay sống, không thể tìm thấy đối tượng giác
quan."[13]
Vì Niết-bàn được diễn đạt bằng những từ
ngữ phủ định như thế, nên có nhiều người đã có một quan niệm sai lầm
rằng nó tiêu cực, và diễn tả sự tiêu diệt bản ngã. Niết-bàn nhất định
không phải là sự hủy diệt của bản ngã, bởi vì không có bản ngã nào để
hủy diệt. Nếu có hủy diệt thì đấy là sự hủy diệt của ảo tưởng mà ý
niệm sai lầm về ngã gây nên.
Nói Niết-bàn là tiêu cực hay tích cực đều
không đúng. Những khái niệm tiêu cực và tích cực đều tương đối, thuộc
phạm vi đối đãi. Bởi thế những từ ngữ ấy không thể áp dụng cho
Niết-bàn là chân lý tuyệt đối vượt ngoài nhị nguyên, tương đối.
Một danh từ phủ định không nhất thiết ám
chỉ một trạng thái tiêu cực. Danh từ Pàli hay Sanskrit để chỉ sức khỏe
là àrogya, một từ phủ định, có nghĩa là "không có bệnh hoạn".
Nhưng sức khỏe thì không ám chỉ một tình trạng tiêu cực. Danh từ "Bất
tử" (Sk. Amrta, Pàli Amata) một đồng nghĩa của Niết-bàn,
là phủ định, nhưng nó không ám chỉ một tình trạng tiêu cực. Sự từ chối
những chuyện tiêu cực thì không tiêu cực. Một trong những tiếng đồng
nghĩa của Niết-bàn mà ai cũng biết, là giải thoát (Pali:
Mutti, Skr: Mukti). Không ai nói giải thoát là tiêu cực.
Nhưng ngay cả giải thoát cũng có một khía cạnh phủ định. Giải thoát
luôn luôn là giải thoát khỏi cái gì chướng ngại, xấu xa, tiêu
cực. Nhưng giải thoát thì không tiêu cực. Bởi thế Niết-bàn, giải thoát
(Mutti hay Vimutti), tự do tuyệt đối, là sự giải thoát khỏi mọi tệ
tập, giải thoát khỏi tham ái, sân hận và ngu si, giải thoát khỏi mọi
danh từ đối đãi, khỏi sự tương đối, khỏi thời gian và không gian.
Trong kinh Phân biệt giới Dhàtuvibhanga
(Trung Bộ kinh 140) ta có thể có một khái niệm về Niết-bàn, chân lý
tuyệt đối. Bài pháp vô cùng quan trọng này đã được Phật thuyết cho
Pukkusàti (đã nói trên) người ngài gặp trong xưởng thợ gốm vào một đêm
yên tĩnh, và nhận thấy là có trí và tu hành nghiêm túc. Cốt tủy những
gì ta cần biết như sau.
Một con người được cấu tạo do sáu giới:
địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Khi phân tích sáu giới họ thấy
không có gì là "của tôi" hay "tôi" hay "tự ngã của tôi". Họ hiểu ý
thức xuất hiện và tan biến như thế nào, những cảm giác vui, khổ, không
vui, không khổ xuất hiện và biến mất ra sao. Do cái biết ấy, tâm họ
hết bị ràng buộc. Khi ấy họ khám phá trong mình một trạng thái bình an
thuần tịnh gọi là tâm xả (upekhà) mà họ có thể vận dụng để tiến
đạt đến bất kỳ cảnh giới tâm linh cao siêu nào, và họ biết trạng thái
xả thuần tịnh ấy có thể kéo dài rất lâu. Nhưng họ nghĩ: "Nếu ta vận
dụng xả thuần tịnh này hướng đến hư không vô biên và phát triển một
tâm tương ứng với không vô biên ấy, thì đấy cũng chỉ là một tạo tác
hữu vi của tâm thức (samkhatam)[14].
Nếu ta vận dụng xả thuần tịnh này vào cõi thức vô biên... vào cõi vô
sở hữu (không có gì cả)... hay vào cõi phi phi tưởng (không có tri
giác cũng không tri giác) và phát triển một tâm tương ứng, thì đấy
cũng chỉ là một tạo tác của tâm thức." Khi ấy họ không tạo tác gì bằng
tâm thức, vì không muốn trở thành (bhava, hữu) hay hủy diệt (vibhava,
phi hữu)[15].
Vì tâm không tạo tác, không muốn hữu hoặc phi hữu, nên họ không bám
víu gì ở thế gian, do không bám víu nên không lo ngại, do không lo
ngại nên hoàn toàn lắng dịu, [ngọn lửa trong họ] hoàn toàn bị thổi tắt
(paccattam yeva parinibbàyati). Và họ biết: "Sự sinh đã chấm
dứt, đời sống trong sạch đã được sống, cái gì phải làm đã được làm,
không còn có gì nữa phải làm."[16]
Bấy giờ, mỗi khi cảm thọ một cảm giác
vui, khổ hoặc không vui không khổ, vị ấy biết cảm giác ấy vô thường,
biết nó không trói buộc được mình, biết nó không phải được cảm thọ với
dục vọng. Dù bất cứ cảm giác gì, vị ấy cảm thọ mà không bị trói buộc
vào nó (visamyutto). Vị ấy biết rằng mọi cảm giác sẽ an tịnh
khi thể xác tan rã, cũng như ngọn đèn tắt khi dầu và bấc đã cháy hết.
"Bởi thế, này các Tỳ kheo, một người được
như vậy là có được trí tuệ thù thắng, vì trí biết về diệt khổ là minh
triết thù thắng.
"Giải thoát của vị ấy có căn bản trên
chân lý, không ai lay chuyển nổi. Này các Tỳ kheo, cái gì phi thực (mosadhamma)
là tà vạy; cái thực tại (amosadhamma), Niết-bàn, là chân lý(sacca).
Bởi thế, hỏi các Tỳ kheo, một người được như vậy là có được chân lý
tuyệt đối. Vì Thánh đế tối thượng (paramam ariyasaccam) là Niết-bàn,
và Niết-bàn là thực tại."
Ở chỗ khác Phật dùng hẳn danh từ Chân lý
thay cho Niết-bàn: "Ta sẽ dạy các người chân lý và con đường đưa đến
chân lý"[17].
Ở đây nhất định chân lý có nghĩa là Niết-bàn.
Bây giờ, gì là Chân lý tuyệt đối? Theo
Phật giáo, Chân lý tuyệt đối là: trên đời không có gì tuyệt đối, mọi
sự đều tương quan, có điều kiện, và vô thường. Không có một thực chất
tuyệt đối không thay đổi, bất diệt được gọi là ngã, linh hồn hay
atman ở trong ta hay ngoài ta. Ðây là Chân lý tuyệt đối. Chân lý
không bao giờ tiêu cực, mặc dù cũng có từ ngữ phổ thông là chân lý
tiêu cực. Sự thấu hiểu chân lý ấy, nghĩa là thấy mọi sự như thật (yathàbhùtam),
không có ảo tưởng hay ngu si (vô minh, avijjà)[18],
chính là sự diệt tắt dục vọng, là đoạn tận ái (tanhakkhaya), là
diệt khổ, là Niết-bàn. Một điều thú vị và bổ ích nếu ta nhớ quan điểm
của Ðại thừa là Niết-bàn không khác với sinh tử
[19].
Cũng một sự việc ấy, nhìn theo lối chủ quan là sinh tử, khách quan là
Niết-bàn. Quan điểm này của Ðại thừa có lẽ đã được triển khai từ những
khái niệm ta gặp trong các kinh bản Pàli của nguyên thủy hay Thượng
tọa bộ (Theravàda), mà ta vừa đề cập một cách vắn tắt.
Thật không đúng nếu nghĩ Niết-bàn là kết
quả tự nhiên của sự dập tắt dục vọng. Niết-bàn không là kết quả của
cái gì hết. Nếu niết-bàn là kết quả, thì niết-bàn thành ra sản phẩm
của một cái nhân; thành ra hữu vi, có điều kiện. Nhưng niết-bàn không
là nhân hay quả, mà vượt ngoài nhân và quả. Chân lý không phải là một
hậu quả hay kết quả. Nó không được sản xuất như một trạng thái thần
bí, thuộc về tâm linh như thiền (dhyàna) hay định (samàdhi).
Có CHÂN LÝ có
NIẾT BÀN. Ðiều duy nhất ta có thể
làm là thấy chân lý, hiểu chân lý. Có một con đường đưa đến sự thấy
hiểu ấy. Nhưng Niết-bàn không phải là kết quả của con đường
[20].
Bạn có thể leo núi dọc theo một con đường, nhưng ngọn núi không phải
là kết quả, hậu quả của con đường. Bạn có thể thấy ánh sáng, nhưng ánh
sáng không phải là kết quả của sự thấy.
Người ta thường hỏi: "Có gì ở sau
Niết-bàn?" Câu hỏi này không vững, vì Niết-bàn là chân lý tối hậu. Vì
nó đã là tối hậu, nên không thể có gì ở đằng sau nó. Nếu có một cái gì
ở sau Niết-bàn thì cái đó - chứ không phải Niết-bàn- thành chân lý tối
hậu. Một thầy tu tên Ràdha đặt câu hỏi ấy với Phật dưới một hình thức
khác: "Niết-bàn là để dùng vào mục đích gì?" Câu hỏi ấy giả thiết có
một mục đích hay cứu cánh nào cho Niết-bàn. Phật trả lời: "Này Ràdha,
câu hỏi ấy không nhằm chỗ. Người ta sống đời thánh thiện nhắm đến
Niết-bàn như là chân lý tuyệt đối, mục đích của đời sống phạm hạnh,
cứu cánh tối hậu của đời sống ấy."[21]
Vài từ ngữ thông dụng sai lạc như "Phật
nhập Niết-bàn hay vào Bát Niết-bàn (Parinirvàna) sau khi Ngài chết" đã
làm phát sinh nhiều tư duy tưởng tượng về Niết-bàn[22].
Khi nghe nói Phật nhập Niết-bàn hay Bát Niết-bàn ta tưởng Niết-bàn là
một cõi, một lãnh vực, một hoàn cảnh trong đó có một loại hiện hữu nào
đó, ta cố tưởng tượng nó qua ý nghĩa danh từ "hiện hữu" mà ta đã biết.
Từ ngữ thông dụng "nhập Niết-bàn" không có cái gì tương đương trong
nguyên bản. Không có gì gọi là "nhập Niết-bàn sau khi chết". Có một từ
ngữ Parinibbuto dùng để chỉ cái chết của một vị Phật hay
A-la-hán đã chứng Niết-bàn, nhưng nó không có nghĩa "nhập vào
Niết-bàn". Parinibutto chỉ có nghĩa "hoàn toàn đi mất", "hoàn
toàn thổi tắt", hay "hoàn toàn diệt", vì Phật hay A-la-hán không còn
sinh tử trở lại sau khi chết.
Bây giờ một câu hỏi khác được đặt ra:
"Cái gì xảy đến cho Phật hay một vị
A-la-hán sau khi chết hay bát Niết-bàn?" Câu hỏi này thuộc vào loại
những câu hỏi không giải đáp (bất thuyết, avyàkata)
[23].
Ðức Phật khi nói về điều này cũng đã dạy rằng không từ ngữ nào trong
ngữ vựng con người có thể diễn tả cái gì xảy đến cho một vị A-la-hán
sau khi chết. Khi trả lời Vaccha, một du sĩ ngoại đạo (parivràjaka),
Phật dạy "sinh" hay "không sinh" không áp dụng cho vị A-la-hán vì
những pháp sắc thọ tưởng hành thức liên kết với "sinh" và "không
sinh", đã hoàn toàn bị hủy diệt, nhổ tận gốc, không còn tái xuất hiện
sau khi chết.[24]
Một vị A-la-hán sau khi chết được ví như
một ngọn lửa tắt ngấm khi không đun thêm củi, hay như đèn đã hết bấc
và dầu[25].
Ở đây cần phải hiểu một cách rõ ràng minh bạch rằng, cái được ví với
ngọn đèn đã tắt không phải là Niết-bàn mà cái được ví với lửa tắt là
"con người" năm uẩn vì đã thực hiện Niết-bàn. Ðiểm này cần được nhấn
mạnh vì nhiều người, ngay cả vài học giả uyên bác, đã hiểu lầm và giải
thích sai ẩn dụ này khi nói đến Niết-bàn. Niết-bàn không bao giờ được
so sánh với một ngọn lửa tắt hay một ngọn đèn tắt.
Lại một câu hỏi nữa thường được đặt ra:
"Nếu không có ngã, không có atman, thì ai thực hiện Niết-bàn?" Trước
khi nói về Niết-bàn ta hãy đặt câu hỏi: "Nếu không có ngã, thì ai đang
suy nghĩ đây?" Ta đã thấy trước đây rằng chính tâm là cái đang suy
nghĩ, rằng không có người suy tư ở đằng sau tư tưởng. Cũng thế, chính
trí tuệ (panna) thực chứng. Không có cái ngã nào đằng sau sự
thực chứng. Trong lúc bàn về nguồn gốc của dukkha chúng ta đã thấy
rằng bất cứ cái gì - người, vật hay một tập thể - nếu trong nó có bản
chất của sinh thì cũng có luôn trong nó bản chất, mầm mống của sự chấm
dứt, hủy diệt. Mà khổ, sinh tử, luân hồi có bản chất của sự sinh, nên
cũng phải có bản chất của sự hủy diệt. Dukkha phát sinh vì khát ái, và
nó chấm dứt do Tuệ (Panna, Bát nhã). "Dục" và "tuệ" cả hai đều
ở trong ngũ uẩn, như đã thấy trước đây.[26]
Như thế mầm mống của sự sinh ra Ngũ uẩn
cũng như mầm mống của sự chấm dứt Ngũ uẩn đều ở trong Ngũ uẩn. Ðây là
ý nghĩa chân thật của lời Phật dạy: "Chính ngay trong thân này, ta nói
có sự xuất hiện thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường đưa
đến sự chấm dứt của thế giới"[27].
Ðiều này có nghĩa rằng tất cả Tứ diệu đế đều được tìm thấy trong Ngũ
uẩn, nghĩa là ngay trong ta (ở đây danh từ "thế giới"- loka
được dùng thay cho danh từ dukkha, khổ). Ðiều này cũng
còn có nghĩa rằng không có một quyền năng nào bên ngoài phát sinh ra
nguyên nhân và sự chấm dứt của khổ.
Khi được mở mang, được tu tập theo diệu
đế thứ tư (sẽ bàn kế tiếp), trí tuệ thấy được bí mật của sự sống, thấy
thực chất mọi sự đúng như thật. Khi bí mật đã được khám phá, khi chân
lý được tìm ra, thì tất cả những năng lực cuồng nhiệt trong ảo tưởng
đã sản sinh ra dòng tiếp nối sinh tử, bây giờ trở nên vắng lặng, không
thể tạo thêm nghiệp mới, vì không còn ảo tưởng, không còn khát ái để
duy trì dòng tương tục tái sinh. Việc này cũng như một tâm bệnh tự
nhiên chấm dứt, khi bệnh nhân khám phá ra nguyên nhân, thấy rõ bí ẩn
của chứng bệnh.
Trong hầu hết mọi tôn giáo, hạnh phúc
tối cao chỉ có thể đạt được sau khi chết. Nhưng Niết-bàn thì có thể
thực hiện ngay trong cõi đời này, không cần phải đợi đến lúc chết mới
đạt đến.
Người đã thực chứng Chân lý, Niết-bàn, là
người hạnh phúc nhất trần gian. Họ giải thoát khỏi mọi "mặc cảm", ám
ảnh, phiền não, rắc rối, những vấn đề khiến người ta điêu đứng. Họ có
được sức khỏe tinh thần toàn hảo. Họ không hối tiếc quá khứ, không bận
tâm về tương lai, mà sống trọn cái hiện tại
[28].
Bởi thế họ thưởng thức, vui hưởng mọi sự một cách thuần túy, không một
bóng dáng nào của ngã chấp. Họ vui vẻ, hoan hỉ, thưởng thức sự sống
thuần khiết, các giác quan hài hòa, bình an và trong sáng, thoát mọi
âu lo[29].
Vì đã giải thoát khỏi dục vọng ích kỷ, khỏi hận thù, vô minh, kiêu
căng, ngã mạn và tất cả mọi chướng ngại, nên họ trong sạch, đầy từ bi,
tử tế, thiện cảm, hiểu biết và bao dung. Họ phục vụ kẻ khác một cách
trong sạch nhất, vì không còn nghĩ đến mình. Họ không tìm kiếm lợi
lộc, không tích trữ bất cứ gì, kể cả tài sản tâm linh, vì đã thoát
khỏi ảo tưởng về ngã và sự khao khát trở thành.
Niết-bàn siêu việt mọi danh từ thuộc nhị
nguyên, tương đối. Bởi thế nó vượt ngoài những khái niệm thông thường
ta có về thiện ác, phải trái, hữu phi hữu. Ngay cả danh từ "hạnh phúc"
(lạc, sukha) dùng để tả Niết-bàn ở đây cũng có một ý nghĩa hoàn
toàn khác biệt. Một hôm Xá lợi phất bảo: "Hiền giả, Niết-bàn là hạnh
phúc! Niết-bàn là hạnh phúc!" Khi ấy Udàyi liền hỏi: "Nhưng thưa hiền
giả Sàriputta, có thể có hạnh phúc gì khi không có cảm giác?" Câu trả
lời của Ngài Xá lợi phất vô cùng thâm thúy, vượt khỏi tầm hiểu biết
thông thường: "Chính sự không có cảm giác ấy mới là hạnh phúc."
Niết-bàn vượt ngoài lý luận và phán đoán
(atakhàvacara). Dù ta cố lao vào những bàn cãi siêu hình - một
trò tiêu khiển vô bổ của tri thức - về Niết-bàn hay Chân lý tối hậu
hay Thực tại, ta cũng sẽ không bao giờ hiểu được Niết-bàn bằng cách
ấy. Một trẻ em còn học mẫu giáo thì không nên tranh cãi về luật tương
đối, mà nên theo đuổi sự học kiên tâm và cần mẫn, thì một ngày kia có
lẽ sẽ hiểu được luật ấy. Niết-bàn là "để cho những bậc trí giả tự mình
chứng nghiệm."(Paccattam veditabbo vinnùhi). Nếu ta theo con
đường một cách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh
lọc bản thân, nếu ta đạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một
ngày kia ta có thể thực chứng Niết-bàn ngay trong ta, không cần phải
nhọc trí vì những danh từ lớn lối bí hiểm.
Thế nên bây giờ ta hãy quay sang Con
Ðường đưa đến sự thực chứng Niết-bàn.
Ghi chú:
[1]
Lanka, p.113.
[2]
Cũng có những từ ngữ khẳng định được dùng để chỉ Niết-bàn như siva
"lành", "tốt", Khema "an ổn", Suddhi "sự trong sáng", Dipa "hòn
đảo", Sarana "Nơi trú ẩn", Tana "sự che chở", Parà "bờ bên kia",
Santi "an tịnh".... Có 32 đồng nghĩa của Niết-bàn trong Asamkhata
Samyutta, phần nhiều đều có tính ẩn dụ.
[3]
Mhvg (Alutgama, 1922), p.10; SV p. 421. Cũng nên chú ý ở đây rằng
định nghĩa này về Diệt "chấm dứt dukkha", được tìm thấy trong bài
thuyết pháp đầu của Phật ở Sarnath, không chứa đựng chữ Niết-bàn,
mặc dù định nghĩa ấy muốn nói đến Niết-bàn.
[4]
S I, p.136.
[5]
S IV, p.359.
[6]
S III, p.190
[7]
Ở đây chữ Pipàsà có nghĩa "khát khao".
[8]
A (PTS) II, p.34.
[9]
S (PTS) IV, p.251
[10]
Lời đức Xá-lợi-phất. M I (PTS), p. 191.
[11]
Lời Musila, một đồ đệ của Phật. S II (PTS), 117.
[12]
Ud. (Colombo, 1929), p.129.
[13]
Ibid, p.128, D I (Colombo, 1929), p.172.
[14]
Nên để ý rằng mọi trạng thái tâm linh thần bí, dù thuần khiết và cao
cả bao nhiêu, cũng chỉ là những sáng tạo của tâm thức, có điều kiện
và do kết hợp (samkhata, hữu vi). Chúng không phải là thực tại,
không phải là chân lý (sacca).
[15]
Ðiều này có nghĩa vị ấy không tạo thêm nghiệp mới vì đã giải thoát
khỏi khát ái, ý dục.
[16]
Câu này có nghĩa vị ấy đã chứng quả A-la-hán.
[17]
SV (PTS), p.369
[18]
Cf. Lanka, p.200, "Này Mahàmati, Niết-bàn có nghĩa là thấy mọi sự
như thật".
[19]
Long Thụ nói rõ rằng "sinh tử không khác Niết-bàn, Niết-bàn không
khác sinh tử" (Trung quán luận Kệ XXV, 19).
[20]
Nên nhớ trong chín pháp siêu thế (navalokuttaradhamma), Niết-bàn ở
ngoài đạo (Magga) và quả (Phala).
[21]
S III (PTS): p.189
[22]
Có vài người viết "sau khi Phật niết-bàn" thay vì "sau khi Phật Bát
Niết-bàn". Từ ngữ đầu vô nghĩa, không có trong văn học Phật giáo.
Luôn luôn phải là "sau khi Phật Bát Niết-bàn"
(parinirvàna).
[23]
S IV (PTS), p.375 f.
[24]
M I (PTS), p.486
[25]
M I (PTS), p.487; III, p.245; Sn (PTS), v.232 (p.41)
[26]
Xem "Hành uẩn", Chương Hai và Chương Ba.
[27]
A (Colombo, 1929), p.218
[28]
S I (PTS), p.5
[29]
M II (PTS), p.121