(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
- Thọ Lạc (Somanassa) hay cảm giác vui, hạnh phúc. Hợp với cảm giác đau đớn (dukkha) và sung sướng (sukha) về vật chất
thì có tất cả năm loại thọ. Thọ vô ký, không vui sướng, hạnh
phúc, cũng không đau đớn, ưu phiền còn có tên upekkhà mà ta không nên
lẫn lộn với tâm xả, bình thản trong Tứ vô lượng tâm. Trong thực tế khi tinh thần được hạnh phúc thì vật chất cũng vui thích
và trái lại, khi thể xác được thích thú thì tinh thần cũng khoan khoái.
Vậy, ta có thể gom hai cảm giác vui thích tinh thần và vật chất làm một,
gọi chung là sukha. Cùng một thế ấy, ta gom hai cảm giác đau khổ tinh
thần và vật chất, làm một và gọi chung là dukkha. Ðến đây thọ,
hay cảm giác còn ba: Sukha, cảm giác vui thích tinh thần và vật chất. Dukkha,
đau khổ tinh thần và vật chất và Upekkhà cảm giác vô ký. Trong ba cảm
giác này Upekkhà rất yếu ớt, hầu như không có. Còn lại hai loại thọ:
Thọ Lạc và Thọ Khổ. Do thọ, ái phát sanh vì vô minh vẫn luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm.
Ái ở đây có thể là ưa thích hay ghét bỏ -- vì ghét chỉ là hình thức
tiêu cực của ưa thích, là ưa ở một mức độ nào. Khi ta nói tôi "ghét
tiếng ồn" có nghĩa là tôi "ưa không có tiếng ồn". Do ái
phát sanh thủ, do thủ phát sanh hữu và do hữu có sanh, lão, bệnh, tử, ưu
phiền, sầu muộn v.v... Vòng lẩn quẩn cứ thế trở đi trở lại triền
miên, mãi mãi, từ vô lượng kiếp. Nơi đây ta thấy có ba thì: Do vô minh và hành ở quá khứ -- trong đó
tiềm tàng ngủ ngầm ái, thủ và hữu -- ta hành động bằng thân, khẩu,
ý. Dầu hành động của ta thiện hay bất thiện, đều tạo
nghiệp vì vẫn còn nằm trong vô minh. Năm nhân quá khứ -- vô minh, hành,
ái, thủ và hữu -- tạo duyên cho năm quả trổ sanh ở hiện tại là thức,
danh sắc, lục căn, xúc thọ. Cùng thế ấy, ái, thủ, hữu, vô minh và
hành trong hiện tại tạo duyên cho năm quả, thức, danh sắc, lục căn, xúc,
thọ ở tương lai. Vị lai trở thành hiện tại và hiện tại trở thành
quá khứ, bánh xe đời sống liên tục lăn tròn trên con đường thời gian vô
tận. Thập nhị nhân duyên Ðể giải đáp câu hỏi của Upatissa, về sau là Ngài Sàriputta (Xá
Lợi Phất), "Giáo lý của vị Tôn sư ra sao? Vị Tôn sư của Ngài tuyên
ngôn như thế nào?" Ðại Ðức Assaji (A Tư Ðà) đúc kết trọn
vẹn giáo lý của Ðức Thế Tôn như sau: "Ye dhammà hetuppabhavà - tesam hetum tethagato " Về các pháp phát sanh do một nhân - Nhân ấy Như Lai đã chỉ
rõ - Toàn thể sự vật trong thế gian nằm dưới sự chi phối của định luật
nhân quả, hành động và hậu quả của hành động. Phật giáo dạy rằng tất cả
pháp hữu vi đều khởi sanh, nhất thời tồn tại và chấm dứt. Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, khi bắt đầu giảng Tứ Diệu Ðế,
Ðức Phật dạy rằng: "Sanh là Khổ". Nói vậy, không phải chỉ nghĩ
đến cảnh mang nặng đẻ đau của bà mẹ và cảnh bị nhốt nằm trong cái
bọc của đứa bé mà sâu xa thâm diệu hơn, nên nhận thức rằng chính
cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên tạo cho đau khổ bám vào.
Nếu không sanh tức không có sống. Không sống tức không có khổ. Vì lẽ ấy
mục tiêu cứu cánh của người Phật tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử triền
miên tiếp diễn. Nhưng, bản chất của chúng sanh là cố bám vào sự sống.
Ái dục trong hình thức ham sống, là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn
luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong mỗi người. Ái dục là nguyên nhân
sanh đau khổ và sanh là cơ hội tạo duyên cho đau khổ phát khởi. Có sanh tức
có già, có bệnh v.v... có đau khổ. Vừa lúc bình minh sau đêm Ngài thành đạt Ðạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác, Ðức Phật đọc lên bài kệ hoan hỷ: "Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi Ðức Thế Tôn nhìn nhận cuộc đi thênh thang bất định trong nhiều
kiếp sống đầy đau khổ và phiền lụy. Ngài phải đi bất định và do
đó, phải chịu khổ đau, bởi vì chưa tìm ra người thợ đã xây dựng cái
nhà, tức nguyên nhân tạo nên cơ thể vật chất này. Trong kiếp sống
cuối cùng, giữa khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu
vào công trình hành thiền mà Ngài đã dày công trau giồi từ trong quá
khứ xa xôi, trải qua cuộc hành trình bất định, Ngài khám phá ra anh thợ cất
nhà hằng mong mỏi muốn biết. Anh thợ này không phải ở ngoài mà sâu kín
ẩn tiềm bên trong Ngài. Ðó là Ái Dục, sự tự tạo, một thành phần tinh
thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Như vậy, ái dục trong quá khứ làm nguyên nhân đưa đẩy tôi đến
đây. Nếu vẫn còn lơ đễnh để cho cuộc sống buông lung lôi cuốn, ái
dục trong hiện tại sẽ là nguyên nhân đưa đẩy tôi vào một cuộc sống
mới, với những đau khổ mới. Nhưng trong hiện tại, và chỉ trong hiện
tại, tôi có thể khắc phục ái dục để thoát ra khỏi những hình thức
đau khổ của những kiếp sanh tồn này. Từ vô lượng kiếp ta mãi sống trong ảo mộng. Những suy tư lời nói và
hành động của chúng ta, dầu thiện hay bất thiện, đều nằm trong vô
minh. Vô minh là không nhận thức thực tướng của vạn pháp hay không thấu đáo
hiểu biết chân tướng của chính mình. Chính màn vô minh, như lớp mây
mờ bao phủ, che mất mọi hiểu biết chân chính tức là Chánh
Kiến. Vô minh là nguyên nhân chánh làm động lực thúc đẩy, chuyển
động "bánh xe đời sống". Ðức Phật dạy: "Vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy chúng sanh
quây quần lẫn lộn" "Hành" phát sanh tùy thuộc nơi vô minh. Tất cả những tư tưởng,
lời nói và việc làm , dầu thiện hay bất thiện, đều là hành.
Mỗi hành động bằng thân, khẩu hay ý của chúng ta, trực tiếp bắt
nguồn từ vô minh và ái dục, hay vô minh và ái dục gián tiếp thúc đẩy,
đều nhất định phải tạo nghiệp và có khuynh hướng đưa đi tái sanh,
kéo dài thêm cuộc hành trình xa xôi của vòng luân h ồi. Ái Dục là gì? Phạn Ngữ mà thường được phiên dịch là "Ái" hay
"Ái Dục" là Tanha (Bắc Phạn là trushna). Ái dục, Tanha, bao gồm tất
cả những hình thức thèm khát, tham ái, khát vọng, ước mong , dục vong, ham
muốn, nóng lòng, bám níu, luyến ái. Các danh từ trên diễn đạt những sắc
thái khác nhau của Ái, nhưng không có chữ nào nói lên một cách trọn vẹn
ý nghĩa của phạn ngữ Tanha. Tanha luôn luôn bao hàm một ý niệm vị
kỷ. Con người chấp giả làm thiệt, khư khư bám vào ngũ uẩn vô
thường mà cho đó là "Ta", một cái "Ta" trường tồn không
biến đổi, rồi ham muốn, khát khao v.v... lấy cái ta làm trung tâm của
mọi sự vật và cố đem vào càng nhiều càng tốt và bám lấy càng chặt
càng hay. Vì lẽ ấy khi chuyển ngữ thành ham muốn, ước mong, v.v... ta nên
hiểu rằng tanha chỉ nằm trong phần xấu của những danh từ này mà thôi. Thí
dụ như ham muốn. Ta cũng có thể ham muốn điều xấu xa mà cũng có
thể ham muốn những việc tốt đẹp, đáng ngợi khen và khuyến khích,
như muốn phục vụ, muốn bố thí, muốn có đời sống đạo đức v.v... Tanha chỉ
diễn đạt phần vị kỷ xấu xa của sự ham muốn, sự khát khao, lòng ước
muốn cho chính mình, sự luyến ái, bám níu giữ cho cái "Ta". Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có ba loại ái dục: Ái dục duyên theo ngũ dục trần (Kama tanha) Ái dục duyên theo những khoái lạc vật chất, có liên quan đến chủ
trương thường kiến (Bhava tanha). Có nghĩa là trong lúc
thọ hưởng dục lạc nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu và khoái
lạc này sẽ mãi mãi tồn tại. Ái dục duyên theo những khoái lạc vật chất có liên quan đến chủ
trương đoạn kiến (Vibhava tanha). Trong lúc thọ hưởng,
nghĩ rằng tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Chết là hết. Bhava tanha có khi được giải thích là sự luyến ái đeo níu theo Sắc
Giới, và Vibhava tanha là sự luyến ái đeo níu trong Vô Sắc Giới. Về điểm này Ðại Ðức Piyadassi viết trong quyển "The
Buddha's Ancient Path": "Kẻ thù của toàn thể nhân loại là ái dục, ham muốn, luyến ái,
bám níu, khát vọng và xuyên qua đó, tất cả những điều bất hạnh
đến với chúng sanh. Ðây không phải chỉ lòng ham muốn hay luyến ái
duyên theo nhục dục ngũ trần, tiền của, tài sản và tham vọng đánh
bại, lấn lướt kẻ khác hay xâm lăng những quốc gia khác, mà cũng là sự cố
chấp, khư khư dính mắc trong những lý tưởng, ý niệm, quan kiến
và tín ngưỡng (dhamma tanha) thường dẫn đến phỉ báng và hoại diệt
và đem lại đau khổ không thể tả đến toàn thể quốc gia, hay trong
thực tế, toàn thể thế gian." Chính yếu tố "vị kỷ" trong ái dục, tanha, gây bao nhiêu tai
hại cho con người. Ái dục không bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn. Khi một
điều mong muốn được thành tựu thì lại có ước vọng mới. Con người
luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới, cố rượt theo để bám
lấy những ảo ảnh, để chụp cho được cái mà thật sự chỉ là những hình
bóng ảo huyền và như thế, con người luôn luôn châm nhiên liệu,
dưỡng nuôi và bảo trì ngọn lửa của kiếp sinh tồn. Chính lòng tham
muốn ích kỷ, tâm luyến ái vô độ lượng, vô trật tự và sự bám níu
đam mê vào những sự vật trên thế gian đã lôi cuốn và đẩy đưa con
người trôi giạt đó đây trong đại dương của đời sống. Ðó là tác động của ái dục ở trong con người dưỡng nuôi nó. Còn tác
động của nó ở bên ngoài người ôm ấp nó, ở người khác thì sao? Ðức Phật
dạy: "...Quả thật vậy, này chư Tỳ Khưu, do ái dục vua này gây chiến
với vua kia, hoàng tử với hoàng tử, tu sĩ với tu sĩ, dân với dân, mẹ gây
gỗ với con, con gây mẹ, cha cãi vã với con, con cãi cha, anh chị với em, em
với anh chị, bạn bè với bạn bè." Trong bài "The Significane Of The Four Noble Truths", đạo hữu Gunaratne
viết: "Ái dục là một thúc đẩy hùng mạnh, một thúc đẩy nguy hiểm, tai
hại. Ái dục là nguyên nhân hầu hết những tệ hại trên đời. Hầu
hết những xáo trộn chính trị trong nhiều quốc gia, những vấn đề
xã hội và kinh tế rất phiền phức chỉ có thể giải thích được
bằng ảnh hưởng nguy hại của tanha. Ái dục vị kỷ là động cơ chính
yếu đưa đến hầu hết những cuộc tranh chấp và thúc đẩy mọi
cố gắng của con ngừơi mê muội. "... Ðôi khi trong ái dục, sự biểu hiện của lòng vị kỷ có
phần lộ liễu, hiển nhiên. Lắm khi rất tế nhị. "... Tình thương không mấy khi không đượm nhuần tính chất vị kỷ.
Ðó là một thứ tình thương thiết tha mong muốn được nhận ra và đòi
hỏi được đáp lại. Tóm tắt, đó là tự thương mình, là tình thương của
mình đối với mình. Trong phần lớn các trường hợp , người này thương
người kia là để tự thương mình nhiều hơn, là bởi vì mình thiết
tha mong muốn tự cho mình cái vui được thương người và cái vui được
người thương trở lại. Như vậy, tiềm tàng dính liền theo tình thương
người có một ẩn ý tự thỏa mãn và tình thương kẻ khác chỉ là tình
thương mình trá hình." "Ái dục sanh sầu muộn. Ái dục sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn
dập tắt ái dục không còn sầu muộn, càng ít lo sợ." (Kinh Pháp Cú, câu
216) Ðể khuyên dạy một vị Tỳ Khưu vô lễ, mặc dầu thông suốt Giáo Pháp
nhưng lòng còn chứa đầy ái dục, và kiêu mạn khinh rẻ các vị khác Ðức
Phật thốt ra Phật ngôn: "Trên thế gian này sầu muộn của người bị khát vọng khắn
khít và đê hèn tràn ngập sẽ sinh sôi nẩy nở như cỏ birana được tưới
nước đầy đủ. Sầu muộn sẽ tách rời người đã khắc phục ái dục bất trị
và đê hèn ấy như giọt nước rời lá sen. Ðiều này, Như Lai dạy các
con: May mắn thay cho tất cả các con, những người tụ họp tại đây! Hãy
đào xới ái dục tận gốc rễ như người ta đào lấy rễ ngọt của cỏ
birana. Chớ để Ma Vương mãi mãi đè bẹp các con như trận lụt làm rạp
đám lát." ( Kinh Pháp Cú, câu 335-337) Một lần khác, trong lúc đi dài theo đường Ðức Phật trông thấy một con
heo nái. Ngài mỉm cười. Ðức Ananda nhìn thấy một vừng hào quang phát tủa ra
từ miệng Ðức Phật liền bạch hỏi, "Bạch hóa Ðức Thế Tôn, vì
lý do nào Ngài mỉm cười?" "Hàng ngày gà tìm thức ăn bên ngoài chánh điện trong khi một nhóm
Tỳ Khưu tu thiền đọc lên những bài kinh về thiền minh sát. Chỉ
nhờ nghe được âm thanh mà không hiểu ý nghĩa lời kinh nên sau khi
chết, gà tái sanh vào hoàng cung làm công chúa có tên là Ubbari. "Ngày nọ Công Chúa Ubbari nhìn thấy một đống giòi. Ngay lúc ấy bà
liền gom tâm, quán niệm về đống giòi và đắc Sơ Thiền. Trong
phần còn lại của kiếp sống ấy bà sống trong Sơ Thiền và, do đó sau
khi qua đời, tái sanh vào cảnh Trời. Lúc tuổi thọ ở cảnh Trời chấm dứt,
nghiệp lực tốt đã hết. Vì trong một tiền kiếp xa xôi bà mê
say đắm chìm trong ái dục, do hậu quả của nhiều kiếp xấu đã gieo nay
trổ sanh, bà tái sanh trở lại làm heo nái. Khi nghe Ðức Phật thuật lại lý
lịch con heo nái như vậy chư Tăng lấy làm xúc động, nhận thức rằng cho
đến khi thành đạt Ðạo quả Tu Ðà Hườn cuộc thênh thang trong vòng luân
hồi quả là bất định. Nhân cơ hội Ðức Phật truyền dạy: "Như cái cây mà rễ còn vững chắc và không bị động đến mặc
dầu bị đốn ngã, vẫn còn đâm chồi nở tược, cùng thế ấy, bao giờ lòng
ái dục tiềm ẩn chưa bị tận diệt, sầu muộn ấy còn phát sanh trở đi
trở lại triền miên." ( Kinh Pháp Cú, câu 338) Ngài giảng về hậu quả tai hại của ái dục như sau: "Dòng ái dục tràn ngập khắp nơi. Loài dây leo ái dục đâm chồi
và bám vững (đeo níu theo lục trần). Ðã thấy loài dây leo đâm chồi, hãy
dùng trí tuệ bứng tận gốc rễ." " Bên trong chúng sanh, hỷ lạc phát khởi và cuồn cuộn chảy trôi
theo ngũ trần và những chúng sanh ấy đam mê say đắm trong ái dục. Nghiêng
ngã theo dục lạc, họ đi tìm thỏa thích. quả thật vậy, người như thế
đi đến sanh rồi đến hoại." "Kẻ bị phủ vây trong ái dục kinh hoàng như thỏ nằm trong rọ.
Bị thằng thúc và những trói buộc tham ái, sân hận, si mê, ngã mạn và tà
kiến xiết chặt, kẻ ấy còn đau khổ triền miên lâu dài." (Kinh
Pháp Cú, câu 340, 342). Từ xa xôi trong quá khứ ta bị màn vô minh che lấp và đám mây mù si mê bao
phủ làm cho tâm không thấy được Chân Lý của vạn pháp. Thấy bóng ta
tưởng hình, thấy ảo tưởng thực, thấy những giọt nước kế tiếp
trôi chảy gọi là con sông, thấy những hột cát chồng chất trải dài xem
đó là bãi biển, một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, thấy những
tế bào, những nguyên tử, những điện tử giả hợp cho đó là con
người, người nam hay người nữ, anh, chị hay tôi, rồi chấp thủ vào cái
"Tôi" ấy. Khi người Phật tử quán trạch bản thân mình một cách sâu sắc và rốt ráo
thì nhận thức rằng con người là sự cấu hợp của hai thành phần, vật chất và
tâm linh, sắc và danh. Phần vật chất, thân hay sắc, không phải là một thực
thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi mà là một tiến trình
luôn luôn tiếp diễn, luôn luôn trở thành một cái gì khác. Phần tâm linh
bao gồm thọ, tửơng , hành, thức, chuyển biến càng mau lẹ hơn. Bốn loại hiện tượng tâm linh -- thọ, tưởng, hành, thức -- hợp với
một hiện tượng vật lý, sắc, là sự kết hợp vô cùng phức tạp của
năm thành phần cấu tạo chúng sanh. Mỗi cá nhân đều do năm uẩn cấu
thành. Trong khi những thành phần của năm uẩn ấy luôn luôn biến đổi thì
có cách nào sự tổng hợp của năm uẩn, tức con người, lại không biến
đổi từng khoảnh khắc. Trong hai khoảnh khắc kế tiếp không thể có
một người nguyên vẹn không đổi thay bởi vì trong người ấy có thành phần
vật chất lẫn thành phần tâm linh đều không ngừng biến đổi. Khi tôi
viết trên gĩay hai chữ "tôi viết" thì người viết chữ
"viết" đã không còn là người viết chữ "tôi", vì
trong thời gian giữa lúc tôi viết chữ đầu và chữ sau bao nhiêu thay đổi,
cả vật chất lẫn tinh thần, đã xảy diễn bên tôi. Ðức Phật dạy, "Na ca
so, na ca anno", không tuyệt đối là một người, cũng không hẳn là hai
người hoàn toàn khác biệt vì cả hai đều nằm trong một tiến trình
sống, một dòng sinh tồn. Chỉ có một luồng sống, một diễn tiến của đời
sống hay một sự liên tục. Tuy nhiên, sự liên tục đổi thay này đã xảy ra nhanh chóng đến độ ta
không thể phân biệt một cách hiển nhiên. Chính hai yếu tố liên
tục và nhanh chóng đã làm cho ta lầm tưởng có một thực thể đơn thuần
không biến đổi. Một cây nhang cháy trong đêm tối chỉ là một đốm sáng. Khi cây nhang
được quay nhanh theo một vòng tròn thì ta thấy một vòng ánh sáng. Trong thực
tế không có vòng tròn ánh sáng mà chỉ có một điểm sáng di
chuyển liên tục và nhanh chóng theo vòng tròn. Xem chớp bóng, ta thấy cảnh vật di động trên màn ảnh, nhưng thực ra chỉ
có những bức ảnh riêng biệt liên tục tiếp diễn theo một tốc độ nào
và cho ta cảm giác đang nhìn một loại hoạt cảnh liên tục. Cùng thế ấy, vì sự biến đổi liên tục của những thành phần ngũ
uẩn nhanh chóng nên ta có cảm tưởng như có những thực thể đơn thuần,
nguyên vẹn, không biến đổi, gọi là người, anh, tôi, thú v.v... Thực ra toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm vật
lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan rã, sanh rồi diệt. Không thể có
cái gì bền vững thường còn mà ta có thể gọi là "Ta" hay
"Của Ta", hay một linh hồn trừơng cửu, một bản ngã vĩnh tồn. Ðức Phật dạy: "Như có người kia không phải mù lòa, đi dài theo sông Ganges
(Hằng), trông thấy bong bóng nước trên mặt sông, nhìn lại kỹ và quan sát
tận tường. Sau khi quan sát tận tường người ấy thấy rằng bên trong bong bóng
thật trống rỗng, không có thực chất, không có thể chất vững bền.
Cũng dường thế ấy vị Tỳ Khưu trông thấy sắc, thọ, tưởng, hành,
thức trong quá khứ, trong hiện tại hay ở vị lai, bên trong hay ở ngoài, thô
kệch hay vi tế, cao thượng hay thấp hèn, xa hay gần, và vị Tỳ khưu
nhìn lại kỹ càng và quan sát tường tận ngũ uẩn. Sau khi quan sát ngũ uẩn
một cách tận từơng vị tỳ khưu thấy nó rỗng không, không thực, không có
thực chất vững bền... "Sắc giống như một khối bọt, thọ như bong bóng nước,
tửơng như một ảo cảnh, hành mỏng manh như tàu lá chuối, thức như trò ảo
thuật." (Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm) Nhưng vì mãi bị màn vô minh che lấp, người đời xem đó là "Ta",
là tự ngã của ta. Một câu chuyện thuật rằng có người kia nhà nghèo, sống với đứa con
nhỏ trong một túp lều tranh ở ngoại ô thành phố. Hôm nọ anh đi làm,
để con ở lại nhà. Một tên gian manh, thừa lúc vắng người lớn vào nhà
định vơ vét tài vật. Nhưng khi lục soát cùng khắp mà không thấy gì đáng
giá thì anh ta tức giận, nổi lửa đốt nhà và dắt luôn đứa bé theo. Khi đi làm về người cha nghèo thấy nhà cửa chỉ còn là một đống tro,
còn con thì đâu mất. Tin chắc rằng con mình đã bị chết thiêu trong đám
hỏa hoạn, anh moi đống tro tàn để tìm những gì còn lại của đứa con yêu
qúy và bỏ vào bị. Từ đó anh luôn luôn mang theo mình cái bị và trum trủm
giữ gìn như một bảo vật, lúc ngủ cũng để bên mình và hết lòng
thiết tha trìu mến. Ngày tháng trôi qua. Ðứa bé lớn lên, tìm cách trốn thoát tên gian manh,
tìm về với cha. Người cha đang ở trong nhà, thấy có chàng thanh niên
đến và tự giới thiệu là con anh thì lấy làm ngạc nhiên, quả
quyết phủ nhận: " Em nào phải là con tôi, tôi chỉ có một con".
Rồi anh chỉ vào bị khẳng định, đây là con tôi. Anh nhất quyết như vậy.
Không làm sao giải thích cho anh biết rằng đó chỉ là tưởng tượng , kỳ
thực tro kia không phải là con anh. Nghe qua câu chuyện ta có thể nghĩ rằng anh kia quá dại dột, quả
thật là mê lầm. Ðúng vậy. Nhưng bất hạnh thay! Hầu hết chúng ta là như
vậy -- vì thế chúng ta còn quanh quẩn ở đây. Chúng ta mãi mãi ở trong ảo mộng mà cho đó là thực tế. Chúng ta sống
với những quy ước và những khái niệm và quả quyết rắng đây là
"Ta", kia là cha, là mẹ, là anh, chị cô, bác, họ hàng thân thuộc
"Của Ta", nhà cửa "Của Ta", xe cộ "Của Ta" v.v...
trong khi "...chính thân này còn không phải là của ta thì con cái nào là
của ta, sự nghiệp nào là của ta?" ( Kinh Pháp cú, câu 62) Chắc mỗi người trong chúng ta còn nhớ rằng lúc thiếu thời, vào một
buổi chiều nào đó, chúng ta nhìn lên trời thấy một cái móng (cầu vồng)
màu sắc rực rỡ, đóng trên một vừng mây. Lúc ấy chúng ta rất cảm kích,
tửơng chừng như mình có thể đến gần và sờ nắm được cái móng, vì
nó rành rành còn hơn rặng cây mờ mờ trong đám khoí ở phiá sau . Trên thực
tế, nó không có gì là thực chất mà chỉ là những làn ánh sáng chiếu
suyên qua hằng triệu, hằng tỷ tỷ giọt nước ly ty, vởn vơ trong
không gian. Từ thuở ấy đến nay còn biết bao nhiêu lần khác, trong bao nhiêu
trường hợp khác nhau ta lầm tưởng giả là thật. Hằng ngày, vào buổi sáng ta
thấy mặt trời lú lên từ chân trời ở hướng Ðông, và buổi chiều sụp
xuống ở hướng Tây. Một cách quy ước ta nói rằng mặt trời mọc buổi sáng
và lặn buổi chiều. Thực ra, và ta hiểu rõ như vậy, không có mặt trời
mọc và mặt trời lặn mà chỉ có quả địa cầu, vừa xoay vần theo một trục
vừa vận chuyển quanh mặt trời. Tiến trình nhân và quả diễn tiến vô cùng tận. Cây sanh trái, trái
sanh cây, xem hình như không bao giờ chấm dứt. Nhưng nếu ta biết, đập
hột đi ắt trái không còn sanh cây và như thế chấm dứt luồng diễn
tiến. Quả phát sanh vì nhân. Nếu không có nhân tức không có quả.
Nhân diệt tức quả diệt. Hãy trở lại nhìn vào bánh xe của đời sống, cũng được gọi là pháp
Tùy Thuộc Phát Sanh (Paticca samuppada), hay Thập Nhị Duyên Khởi hay Thập Nhị
Nhân Duyên. Từ vô thủy ta bị trói buộc, dính mắc trong vòng lẩn quẩn của Thập Nhị
Nhân Duyên. Nếu để nó trôi chảy theo dòng diễn tiến tự nhiên mà
không có sự cố gắng mà để khắc phục và vượt thoát ra khỏi, thì dưới
sự chi phối của tham ái, sân hận và si mê cố hữu của con người, nó sẽ lôi
cuốn ta mãi triền miên vô cùng tận. Phải đập bể cái hột và chấm
dứt vòng luân hồi. Câu hỏi được nêu lên là: Phải thoát ra ở giai đoạn
nào ở mười hai vòng khoen? Hai vòng khoen đầu, Vô Minh và Hành, nằm trong thời quá khứ. quá khứ đã
qua, nghiệp đã được tạo, ta không thể đi ngược dòng thời gian
để sửa sai. Vậy, không thể làm gì. Hai vòng khoen cuối cùng, Sanh và Lão Tử, thuộc về tương lai. Tương lai
chưa đến. Ta cũng không thể đi trước thời gian để sắp xếp
sự vật. Tám vòng khoen còn lại nằm trong thời hiện tại. Năm trong tám vòng ấy:
Thức, Danh sắc, Lục căn, Xúc, Thọ là quả, trổ sanh trong hiện tại do
nghiệp đã tạo ở quá khứ. Nhân đã gieo trong quá khứ ắt quả dĩ nhiên
phải trổ, ta không thể sửa đổi. Cũng không thể làm gì. Còn lại ba là Ái, Thủ, Hữu. Ðây là phản ứng của ta đối với những quả
ấy. Phản ứng này rất quan trọng vì sẽ làm nhân tạo quả trong tương lai.
Ðó là yếu tố then chốt trên con đường. Nơi đây ta có thể bị lôi
cuốn mãi mãi đi vòng quanh mà cũng tại nơi đây ta có thể mở đường
vượt thoát ra khỏi vòng luân hồi. Nếu trong khi thọ, ta ái -- ưa thích
hay ghét bỏ -- tức có luyến ái, đeo níu, bám chặt (thủ) rồi tiếp nối
vòng quanh. Nếu hiểu biết bản chất thật sự của thọ là vô
thường, khổ, vô ngã ta sẽ không chấp thủ mà buông bỏ. Tức nhiên không có
ái. Không ái tức không thủ, không hữu và đó là đập nát cái hột, chấm
dứt luân hồi. Trong các bài kinh giảng về thọ trong bộ Tạp A Hàm (Vedana-samyutta)
Ðức Phật hỏi: " Này chư Tỳ Khưu, một người thế gian không có
học Giáo Pháp, kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ, và
kinh nghiệm thọ vô ký. Một Thánh Ðệ tử thông suốt Giáo Pháp,
cũng kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ và kinh nghiệm
thọ vô ký cùng một thế. Vậy thì có gì khác biệt, có
điểm nào dị đồng giữa hai người? "Khi người thế gian bị đau đớn, nhức nhối thì lo âu và phiền
muộn, người ấy ta thán, đấm ngực khóc than và thất vọng. Như thế anh
ta kinh nghiệm hai loại thọ, thọ khổ ở thân và thọ ưu ở tâm.
Cũng như đã bị một mũi tên rồi lại bị một mũi tên thứ nhì, anh đau khổ
cả thân lẫn tâm. "Bị thương đau nhức, người ấy phẫn uất, bất mãn và có khuynh hướng
tìm cách khỏa lấp. Trong sự đau khổ người ấy đi tìm lạc thú ở đời. Tại
sao người ấy hành động như vậy? Này chư Tỳ Khưu, người thế gian không
có học Giáo Pháp, không biết phải làm thế nào để thoát ra
khỏi sự đau khổ của mình, ngoại trừ tìm cách hưởng thụ dục lạc để
khỏa lấp. Bên trong con người thích thú hưởng thọ dục lạc thì khuynh
hướng khát khao nhục dục ngũ trần ngày càng sâu đậm. Người ấy không
biết đúng sự thật bản chất sanh diệt của thọ, không biết hậu
quả tai hại của lòng ham muốn thỏa mãn dục vọng mà cũng không biết
làm cách nào để thoát ra. Bên trong con người kém hiểu biết như
thế khuynh hướng si mê đối với thọ vô ký càng sâu đậm. Khi
thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký người như thế ấy tự trói
buộc, xiết chặt mình vào đời sống. Này chư Tỳ Khưu, người như thế
ấỵ bi dính mắc và mãi mãi lăn trôi trong vòng sanh, lão, bệnh, tử, lo
âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và tuyệt vọng. "Trong trừơng hợp của bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp, này
chư Tỳ Khưu, khi bị đau đơn nhức nhối vị ấy không lo âu, phiền muộn và
ta thán, không đấm ngực khóc than và thất vọng. Người ấy chỉ kinh
nghiệm một loại thọ, đau đớn về thể xác, nhưng tâm vẫn bình
thản. Cũng giống như người bị mũi tên, không bị mũi tên thứ nhì. Cũng
dường thế ấy, bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp sẽ không lo âu
sầu muộn và ta thán, sẽ không đấm ngực khóc than và thất vọng. "Bị thương đau nhức người ấy không phẫn uất bất mãn, do đó không
có khuynh hướng tìm cách kháng cự. Trong sự đau khổ người ấy không tìm
thọ hưởng lạc thú trần gian để khỏa lấp. "Tại sao? --Vì đã thông suốt Giáo Pháp bậc Thánh Ðệ Tử hiểu
biết làm thế nào để thoát khổ, ngoài phương cách thỏa mãn dục
vọng. Bên trong người không tìm thỏa mãn dục vọng không còn khuynh
hướng đi tìm thích thú trong dục lac. Người ấy thấu đạt chân chánh bản
chất sanh diệt của thọ, mối hiểm họa của lòng ham muốn dục lạc
và cũng hiểu biết con đường thoát ra khỏi những thọ cảm ấy. Bên
trong người hiểu biết như thế ấy không còn khuynh hướng si mê
đối với thọ vô ký. Khi thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký
người ấy không bị trói buộc. Người như thế ấy, này chư Tỳ Khưu,
được gọi là bậc Thánh Ðệ Tử thông suốt Giáo Pháp, là người không
tự trói buộc mình vào và không lăn trôi theo vòng sanh, lão, bệnh, tử, lo
âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và thất vọng. "Ðó, này chư Tỳ Khưu, là sự khác biệt, là điểm dị dồng
giữa người thế gian không biết Giáo Pháp và vị Thánh Ðệ Tử
thông suốt Giáo Pháp ." Một lần khác Ðức Phật dạy: "Này chư Tỳ Khưu, trên không trung có nhiều luồng gió thổi: gió
từ hướng Ðông, từ hướng Tây, gió từ hướng Bắc, hướng Nam, gió co mang
theo buị bặm và gió không bụi, gió nóng, gió lạnh, gió giông bão, có gió
lượng nhỏ thổi, có gió lượng lớn thổi. Cũng vậy, này chư Tỳ Khưu, trong
thân này có nhiều loại thọ sai biệt khởi lên: Thọ lạc phát
sanh, thọ khổ phát sanh và thọ vô ký phát sanh. "Nhưng vị Tỳ Khưu nhiệt thành tin tấn và không dễ duôi lơ đễnh
buông lung, luôn luôn giác tỉnh chú niệm và hiểu biết rõ ràng bản
chất của mỗi loại thọ. Thấu đạt từng thọ cảm, vị ấy sẽ tận
diệt ô nhiễm trong chính kiếp sống này. Ðã thuần thục hiểu
biết và vững vàng trong đường lối của Giáo Pháp, khi kiếp sống này
chấm dứt, cơ thể rã tan, vị Tỳ Khưu ấy vượt lên khỏi mọi hình thức
khái niệm của thế gian." Một cách chính xác, chính thọ (vedanã) cảm giác một đối tượng, khi
đối tượng ấy tiếp xúc với Lục căn. Thọ cảm nhận quả lành hay quả
dữ của những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Chính tâm sở
tác ý (cetanã), tức ý nằm bên trong hành động, là "người gieo
nghiệp" và tâm sở thọ là "người gặt hái quả". Ngoài hai
tâm sở tác ý và thọ không có một linh hồn hay một bản ngã, một cái
"Ta" nào tạo nghiệp hay thọ quả. Khi thấy một hình sắc, nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm một vị, sờ
chạm một vật hay nảy sanh một ý nghĩ con người có một cảm giác, một
loại thọ. Nhưng ta không thể nói rằng tất cả mọi chúng sanh
đều cảm một loại thọ giống nhau trứơc một đối tượng giống nhau.
Một đối tượng có thể tạo thọ lạc cho người này mà gây thọ khổ
cho người kia và thọ vô ký cho một người khác nữa, vì khuynh hướng
tâm tánh trong luồng nghiệp (anusaya) của mỗi người mỗi khác. Một
ly rượu mạnh có thể là nguồn khoái lạc cho một người và là độc dược
cho người khác. Lại nữa, cùng một người cùng một đối tượng, ở hai thời
kỳ khác nhau hay trong những hoàn cảnh khác nhau thọ cũng có thể khác
nhau. "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Chúng ta chấp những yếu tố của ngũ uẩn luôn luôn biến đổi là
"Ta". Ðó là nguồn gốc của tất cả những phiền phúc, những lo âu,
những quấy nhiễu, những điều bất hạnh, những hoàn cảnh khổ đau. Tại sao? * Khi cái được gọi là "Ta" bám níu, duyên theo người hay vật
mà nó ưa thích, tất có thân yêu, luyến ái hay trìu mến. Trong những trừơng hợp khác nhau Ðức Phật dạy rằng: "Thân yêu... Trìu mến... Luyến ái... Tham dục... Ái dục...
sanh sầu muộn, sanh lo sợ. Người đã trọn vẹn dập tắt thân yêu... trìu
mến v.v... không còn sầu muộn, càng ít lo sợ." (Kinh Pháp Cú, câu
212-216) " ....Phiền não không bao giờ đến với người không luyến
ái danh sắc và không còn dục vọng." (câu 221) * Khi cái "Ta" bất mãn với người hay vật không ưa thích tất cả
sự ghét bỏ, phiền giận hay hận thù. Kinh Pháp cú dạy rằng: Lòng sân hận không thể nguôi ngoai trong tâm người ôm ấp những
ý nghĩ, "Nó lăng mạ tôi", "Nó đánh đập tôi", "nó
chiến thắng tôi", "nó cướp giật của tôi". (Pháp Cú, câu 3) "Trên thế gian này sân hận không bao giờ dập tắt sân hận. Duy
có tình thương mới diệt tâm sân. Ðó là định luật nghìn thu."
(Pháp Cú, câu 5) * Khi cái "Ta" thất bại, tất có sự đau khổ, âu sầu, phiền
muộn, hối hận và tuyệt vọng sâu xa, có thể đưa đến cảnh tự
quyên sinh hay gây tổn hại cho người khác. * Khi cái "Ta" lâm nạn, tất cả lo âu sợ sệt. Tại sao ta lo sợ?
Phân tích đến mức cùng tột chỉ có một câu trả lời: Chúng ta lo sợ vì
mang nặng trong lòng những tư tưởng " Ta" và "Của Ta". Chúng
ta trông mong chờ đợi, bồn chồn mong mỏi cho ta và những ai hay những gì ta
yêu qúy, được châu toàn, trong một thế gian không ngừng biến đổi.
Kẻ cất nhà cát trên bãi biển ắt phải nơm nớp lo sợ sóng biển. Kẻ
nào lấy tiền của làm vật bảo đảm ắt phải luôn luôn làm nô lệ cho
tiền của. Kẻ nào tìm lẽ sống trong công cuộc làm ăn và để hết
tâm trí vào đấy như một việc nhất quyết phải thành tựu cho kỳ
được, kẻ ấy không thể yên ổn trong lòng, không thể có tâm thanh
bình an lạc. Vậy là ta lo sợ cho chính "Ta", cho tiền của, sự
nghiệp "Của Ta", cho con cái ta, bạn bè ta, cho những cái gọi
là "Của Ta". * Khi cái "Ta" bị giới hạn trong ích kỷ hẹp hòi tất có chia
rẽ, ganh tị, thèm muốn, tham vọng. * Khi cái "Ta" được thổi phồng, tự cao tự đại, tất có ngã mạn
kiêu căng. Người đã khai triển tuệ Minh Sát và thấu triệt thực tướng của
vạn pháp sẽ có quan điểm chân chánh về kiếp sinh tồn. Người ấy
nhận thức rằng tất cả sự vật trên thế gian phù du huyền ảo và tạm
bợ nhất thời này tựa hồ như "giọt sương buổi sáng lóng lánh trên
lá cây, ngọn cỏ, rồi sớm tan biến khi những tia nắng bình minh bắt
đầu rọi xuống, như bong bóng nước, như lằn gạch trên mặt nước, như
cái chớp trong đêm tối, như một khối bọt, như ảo ảnh, như giấc
mơ..." Hãy lắng nghe lời khuyên dạy của Ngài Mahasi Sayadaw: "Người đã có đức tin nơi Giáo Pháp và đã thâu thập một vài
kiến thức căn bản về danh (nãma), sắc (rũpa), vô thường (anicca), khổ
(dukkha) và vô ngã (anattã), hãy cố gắng hành thiền minh sát. Ðây là
pháp nhằm ghi nhận danh và sắc -- luôn luôn trong trạng thái chảy trôi như
một dòng suối trường lưu bất tức -- nơi sáu cửa (lục căn), đúng như
được chỉ dạy trong Kinh Tứ Niệm Xứ. Ghi nhận những gì mắt thấy, ghi nhận
những gì tai nghe, ghi nhận những gì mũi ngửi, ghi nhận những gì lưỡi
nếm, ghi nhận những gì thân xúc chạm, ghi nhận những gì tâm suy tư, chừng
đó hành giả sẽ nhận thức tất cả những gì cần phải được nhận thức,
tương xứng với trình độ mà mình đạt đến. "Khi chuyên cần chú niệm như vậy, định lực của hành giả trở nên
vững chắc và mạnh mẽ, tâm trong sạch. Chừng đó hành giả có thể phân
biệt rõ ràng "danh", cái tâm hay biết, và "sắc", cơ
thể vật chất, cái được hay biết. Hành giả sẽ nhận chân rằng không
có cái gì có thể là attã, bản ngã, hay "Ta". Sự ghi nhận thường
xuyên lặp đi lặp lại sẽ dẫn hành giả đến trạng thái thông suốt nhân
và quả trong danh sắc. Cuối cùng mọi ý niệm về bản ngã trừơng
tồn sẽ tan biến một cách rõ rệt. Trước khi thực hành minh sát hành
giả có thể còn nghi ngờ không biết cái Ta đã có hiện hữu không
trong quá khứ, có vẫn còn hiện hữu không trong hiện tại, và sẽ còn
hiện hữu không trong tương lai. Sau khi thực hành, tất cả mọi nghi ngờ
đều chấm dứt vì hành giả đã thấu triệt tận tường bản chất thật
sự của mọi hiện tượng. "Tiếp tục ghi nhận thêm, hành giả sẽ thấy rằng trần cảnh (sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp) cùng với những thức liên hệ (Nhãn thức, nhĩ
thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức) cũng đều tan biến.
Tất cả đều vô thường. Tất cả đều phát sanh và tự nhiên hoại
diệt. Những gì vô thường ắt không thể làm thỏa mãn một cách
trọn vẹn. Không có chi thật sự có thể chất vững bền. Như vậy thì
có cái chi để bám níu vào mà gọi nó là "Ta" hay "Của
Ta". Tất cả mọi liên hệ đều ở trong trạng thái di động,
chuyển biến, chảy trôi, vừa sanh đã diệt. Quán xét rốt ráo như
vậy ta có thể xác quyết tin chắc và loại bỏ ý niệm một bản
ngã trừơng tồn." Lúc bấy giờ người ấy đã vượt ra khỏi cái "Ta". Cái gọi là
"Tự Ngã" của người ấy đã chan hòa và đồng nhất với tất cả, tất
có lòng vị tha bất cầu lợi, có tình huynh đệ tương thân tương ái với
tất cả chúng sanh, có tâm từ vô lượng vô biên, có lòng bi mẫn dồi dào và
có sự thuận hòa điều hợp với tất cả. Ánh sáng trí tuệ dần dần
đánh tan đêm tối của vô minh, tận diệt si mê, tham ái và sân hận.
Người ấy đã thoát ra khoỉ mọi hình thức ái dục và tiến gần
đến giải thoát toàn vẹn ra khỏi luân hồi, khỏi mọi đau khổ, đúng
như lời Phật day: "Như ta nhìn bọt nước, như ta nhìn ảo ảnh, nếu người kia nhìn
thế gian như vậy Tử Thần không còn thấy người ấy nữa." Như vậy, thời điểm để thoát ra khỏi vòng quanh đau khổ là khoảng
giữa hai vòng khoen "Thọ" và "Ái", tức phản ứng của ta
đối với thọ. Bằng con đường nào? Bằng Con Ðường Xưa Cũ mà chư Phật
đã trải qua . Ðó là Bát Chánh Ðạo.
1993/2536
- Thọ Khổ (Domanassa) hay cảm giác buồn, đau khổ và
- Thọ vô ký (adukkhamasukha) .
Aha tesan ca yo nirodho - evan vadi maha smano"
Và Như Lai cũng đã chỉ dạy phương pháp để chấm dứt - Ðó là giáo
huấn của bậc Ðại Sa Môn" (Maha vagga)
Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai đi tìm mãi mà không gặp,
Tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại cuộc sống quả thật là đau khổ.
Này hỡi người thợ làm nhà
Như Lai đã tìm ra ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa,
Tất cả sườn nhà đều gẫy,
Cây đòn dông của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng quả Vô Sanh Bất Diệt,
Và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục." (Kinh Pháp Cú, câu 153,154)
(Sutta Nipata câu 730)
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com