.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Thất
Giác
Chi
Thất
Giác
Chi
(Satta
Sambojjhanga)
hay
Thất
Bồ-Đề
Phần
là
một
trong
những
thắng
pháp
(Paramattha
Dhamma)
của
Đức
Phật,
đã
được
đề
cập
đến
nhiều
lần
trong
Tam
Tạng.
Có
người
tin
rằng
khi
nghe
bài
kinh
nầy
bệnh
nhân
có
thể
chóng
khỏi
những
cơn
đau
đớn
và
sớm
bình
phục,
vì
thế
họ
thường
trì
tụng
như
một
phương
pháp
ngừa
bịnh
hay
trị
bịnh.
Chúng
ta
có
thể
đọc
được
đoạn
kinh
sau
đây
trong
kinh
nguyên
thủy:
"Ta
nghe
như
vầy,
một
thuở
nọ
Đức
Thế
Tôn
ngự
trong
vườn
sóc,
tại
Trúc
Lâm,
Vương
Xá.
Lúc
bấy
giờ
Đại
Đức
Ma
Ha
Ca
Diếp,
ở
tại
động
Pipphali
đang
lâm
trọng
bịnh.
Vì
thế,
vào
một
buổi
chiều,
Đức
Thế
Tôn
đi
đến
chỗ
Đại
Đức
Ma
Ha
Ca
Diếp
đang
tĩnh
dưỡng.
Sau
khi
an
tọa,
Ngài
dạy
Đại
Đức
Ma
Ha
Ca
Diếp
như
vầy
:
--
Nầy
Ca
Diếp,
sức
khỏe
ông
như
thế
nào?
Cơn
đau
có
trầm
trọng
lắm
không?
Bịnh
tình
của
ông
đang
phát
tác
hay
đã
thuyên
giảm?
Biến
chứng
thuận
lợi
hay
bất
lợi?
--
Bạch
Đức
Thế
Tôn,
cơn
đau
rất
trầm
trọng,
biến
chứng
càng
ngày
càng
nguy
hiểm,
không
thuận
lợi.
--
Nầy
Ca
Diếp,
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
đã
tu
chứng
và
đã
phát
triển
tròn
đủ
là
Thất
Giác
Chi,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Bảy
Giác
Chi
ấy
là
gì?
Niệm
Giác
Chi
(Sati
sambojjhanga),
điều
mà
Như
Lai
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Trạch
Pháp
Giác
Chi
(Dhammavicaya
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Tinh
Tấn
Giác
Chi
(Viriya
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Hỷ
Giác
Chi
(Piti
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Thư
Thái
Giác
Chi
(Passaddhi
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Định
Giác
Chi
(Samadhi
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Xả
Giác
Chi
(Upekkha
Sambojjahanga),
điều
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn.
Thật
vậy,
nầy
Ca
Diếp,
đó
là
bảy
nhân
sinh
trí
tuệ
mà
Như
Lai
đã
giác
ngộ,
tu
chứng
và
phát
triển
tròn
đủ,
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn."
Khi
nghe
xong
,
Đại
Đức
Ca
Diếp
hết
sức
hoan
hỷ,
và
nhờ
vậy
cơn
bệnh
trầm
trọng
bỗng
nhiên
tan
biến".
Hẳn
là
chúng
ta
lấy
làm
lạ
khi
thấy
Đại
Đức
Ca
Diếp
có
thể
bình
phục
chỉ
vì
nghe
được
đoạn
kinh
trêrn.
Nhưng
y
học
ngày
nay
cũng
phải
nhìn
nhận
rằng
yếu
tố
tinh
thần
rất
quan
trọng
trong
việc
trị
liệu.
Trong
trường
hợp
vị
lương
y
là
Đức
Phật,
với
tâm
đại
hùng,
đại
lực,
đại
từ
bi
đã
dùng
một
chân
lý
siêu
việt
để
an
định
tinh
thần
Đại
Đức
Ca
Diếp.
Mặt
khác
bệnh
nhân
là
Đại
Đức
Ca
Diếp,
với
tâm
tôn
kính,
trong
sạch
và
sáng
suốt
đã
chú
ý
theo
dõi
chân
lý
mà
Đức
Phật
đã
cố
ý
lập
đi
lập
lại
chín
lần.
Hai
yếu
tố
tinh
thần
đó
hẳn
phải
được
một
kết
quả
mầu
nhiệm
không
lường
được.
Có
nhiều
trường
hơp
người
mẹ
mang
một
chứng
bệnh
trầm
trọng
vì
một
đứa
con
bị
thất
lạc,
thuốc
thang
không
làm
cho
người
mẹ
bình
phục,
thế
mà
khi
người
con
trở
về,
người
mẹ
khỏi
bệnh
một
cách
kỳ
diệu
chỉ
nhờ
một
mối
cảm
xúc
mãnh
liệt.
Nếu
một
cảm
xúc
có
một
công
hiệu
lớn
lao
như
thế,
thì
tinh
thần
khi
được
chuyên
chú
và
an
định
đem
lại
những
kết
quả
mầu
nhiệm
cũng
không
phải
là
một
điều
lạ.
Đến
đây
chúng
ta
gạt
sang
một
bên
vấn
đề
huyền
nhiệm
của
Thất
giác
chi
để
tìm
hiểu
bảy
pháp
đó
là
gì.
1-
Niệm
Giác
Chi:
Có
công
năng
tiêu
diệt
tà
niệm
và
vọng
tâm.
Tà
niệm
làm
cho
con
người
kinh
nghi
và
thoái
hóa,
nó
là
một
trở
ngại
lớn
lao
đối
với
sáng
kiến
cải
tạo
của
chúng
ta.
Vọng
tâm
làm
phân
tán
sức
mạnh
tinh
thần
bởi
những
cố
gắng
tìm
tòi
vô
hiệu
quả,
những
vấn
đề
triết
lý
viển
vông,
những
mối
quan
hoài
phức
tạp.
Chánh
niệm
còn
cho
chúng
ta
thấy
sự
phù
phiếm
của
dục
lạc
cũng
như
tính
cách
vô
dụng
của
đời
sống
khổ
hạnh
quá
mức,
và
giúp
cho
tâm
ghi
nhận,
xét
đoán
những
sự
kiện
xẩy
đến
với
chúng
ta
hằng
ngày
một
cách
đứng
đắn,
nhờ
đó
chúng
ta
có
thể
thấy
rõ
chân
tướng
vô
thường,
khổ
não
và
vô
ngã
của
vạn
hữu.
2-
Trạch
Pháp
Giác
Chi:
Một
người
muốn
đạt
đến
chánh
tư
duy
phải
rèn
luyện
tu
tập
pháp
này.
Trạch
Pháp
là
phân
tích,
suy
luận
các
pháp
để
biết
đâu
là
chân,
đâu
là
giả...
Ngay
cả
những
lời
dạy
của
Đức
Phật,
Ngài
cũng
không
bắt
buộc
hàng
Tứ
chúng
phải
mù
quáng
tin
theo
mà
phải
tìm
hiểu
xem
giáo
lý
ấy
có
đem
lại
hạnh
phúc
và
giải
thoát
cho
con
người
đúng
theo
tiêu
chuẩn
và
cứu
cánh
của
đạo
Phật
hay
không
rồi
mới
chấp
nhận.
Thái
độ
phân
tích
khách
quan
và
sáng
suốt
như
thế
rất
hữu
ích
trong
việc
tìm
chân
lý.
Tôn
giáo
có
trách
nhiệm
hướng
dẫn
tinh
thần
con
người,
nhưng
nếu
chúng
ta
tin
tưởng
tôn
giáo
một
cách
mù
quáng,
thì
chỉ
làm
cho
đời
sống
tinh
thần
càng
ngày
càng
mê
muội,
thoái
hóa.
3-
Tin
Tấn
Giác
Chi:
Dù
một
lý
tưởng
đã
được
đặt
ra
nhưng
nếu
thiếu
nỗ
lực,
thiếu
bền
chí
thì
khó
mà
hoàn
thành
được.
Vì
thế
Tinh
tấn
là
điều
kiện
tối
cần
để
thực
hiện
lý
tưởng
giải
thoát
giác
ngộ.
Đạo
Phật
là
giáo
lý
đòi
hỏi
nhiều
cố
gắng,
hy
sinh
và
kiên
nhẫn
để
chống
lại
phiền
não.
Hai
giác
chi
đầu
tiên,
là
niệm
và
trạch
pháp,
giúp
ta
nhận
chân
được
thực
lực
của
giặc
phiền
não.
Còn
thực
lực
của
ta
chính
là
sức
mạnh
của
tinh
tấn.
Thiếu
nó
ta
không
thể
dẹp
tan
được
giặc
phiền
não.
Hành
giả
có
thể
đạt
được
lý
tưởng
khi
cương
quyết
tự
nguyện
rằng:
"Dù
máu
đổ
thịt
rơi
hay
thân
ta
thành
cát
bụi,
ta
vẫn
không
thối
bước,
không
do
dự
trong
chí
hướng
đã
định.
Không
gì
có
thể
cản
trở
bươc
tiến
của
ta.
Không
khổ
đau
nào,
không
đe
dọa
nào
dù
nguy
hại
đến
tánh
mạng
có
thể
làm
ta
ngã
lòng.
Ta
sẽ
kiên
trì
tiến
tới
cho
đến
khi
nào
hoàn
thành
sứ
mạng."
4-
Hỷ
Giác
Chi:
Không
một
cố
gắng
nào
có
thể
lâu
bền
nếu
không
tìm
thấy
hứng
thú
trong
hành
động
của
mình,
vì
vậy
hoan
hỷ
là
một
yếu
tố
giúp
cho
hành
giả
phấn
khởi
trên
đường
đi
đầy
gian
lao
hiểm
trở
dẫn
đến
cứu
cánh
cuối
cùng.
Hỷ
là
một
trong
những
tâm
sở
khi
hiện
hành
trong
thiện
tâm
thì
trở
thành
thiện
tâm
sở,
nhưng
đồng
hành
với
bất
thiện
tâm
nó
cũng
là
bất
thiện
tâm
sở.
Hỷ
giác
chi
ở
đây
được
tìm
thấy
trong
một
số
thiện
tâm
và
thiền
tâm.
Trong
năm
chi
thiền,
hỷ
là
chi
thiền
thứ
ba,
có
công
năng
đối
trị
sân
triền
cái,
khiến
cho
tâm
được
mát
mẻ
và
vui
thích
trong
đối
tượng
thiền
định.
5-
Thư
Thái
Giác
Chi:
Tức
là
nhẹ
nhàng
và
an
tịnh,
một
trong
25
tịnh
quang
sở,
có
nhiệm
vụ
hóa
giải
lửa
phiền
não
và
đối
trị
trạo
cử,
một
bất
thiện
tâm
sở
làm
cho
tâm
giao
động,
bất
an.
Người
phát
triển
được
tâm
sở
thư
thái
sẽ
cảm
thấy
thân
tâm
nhẹ
nhàng
thư
thái
như
khách
viễn
hành
trút
bỏ
được
gánh
nặng,
nhờ
thế
họ
có
thể
thong
thả
đi
tới
đích.
6-
Định
Giác
Chi:
Trong
Phật
Giáo,
Định
được
ứng
dụng
với
mục
đích
khác
hẳn
ngoại
đạo.
Nếu
một
vài
tôn
giáo
dùng
định
để
phát
triển
thần
thông,
nhà
thôi
miên
dùng
định
lực
để
chữa
bịnh
hay
sai
khiến
người
khác
làm
theo
ý
họ,
nhà
bác
học
chú
tâm
để
giải
quyết
một
vấn
đề
khoa
học...
thì
Phật
Giáo
dùng
Định
để
phát
triển
trí
tuệ
(Định
năng
sinh
Huệ).
Người
Phật
tử
khi
đạt
đến
đệ
tứ
thiền
vẫn
có
thể
có
thần
thông
nhưng
không
dừng
lại
ở
đó
để
dùng
những
sức
mạnh
tinh
thần
này
trong
những
ước
vọng
tầm
thường,
họ
chỉ
dùng
nó
như
một
phương
tiện
để
tiến
xa
hơn
trong
việc
phát
triển
trí
tuệ,
vì
trí
tuệ
là
điều
kiện
tối
hậu
để
hoàn
tất
lý
tưởng
giác
ngộ.
7-
Xả
Giác
Chi:
Xả
là
tâm
không
bị
chi
phối
bởi
ngoại
cảnh.
Không
một
đối
tượng
nào
có
thể
lay
chuyển
được
người
có
tâm
xả.
Họ
không
bất
bình
trước
nghịch
cảnh,
cũng
không
tham
ái
đối
với
thuận
cảnh.
Họ
thản
nhiên
khi
được
tán
dương
hay
bị
phỉ
báng,
được
lợi
lộc
hay
bị
mất
mát,
dù
có
địa
vị
hay
không
có
danh
vọng,
và
dù
vui
hay
khổ
cũng
thế.
Giữ
được
tâm
tự
tại
vô
ngại
như
thế
không
phải
là
dễ,
chỉ
những
bậc
đã
rèn
luyện
tâm
mình
đến
mức
độ
siêu
việt
mới
mong
thực
hiện
được.
Và
một
khi
đã
giữ
được
tâm
xả
thì
phán
đoán
sẽ
vô
cùng
sáng
suốt,
không
chủ
quan
thiên
lệch
nữa.
Tóm
lại,
một
hành
giả
muốn
đạt
đến
lý
tưởng
tự
giác
tha
phải
tu
chứng,
phát
triển
đầy
đủ
Thất
giác
chi
vì
đó
là
con
đường
dẫn
đến
thượng
trí,
viên
minh
và
Niết
Bàn
như
lời
Đức
Phật
đã
dạy.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục