(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Phật giáo không chủ trương rằng chỉ van vái nguyện cầu suông mà có
thể giải thoát. Kinh Pháp Cú dạy : "Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay
ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong
sạch." ( Câu 165). Ðức Phật chỉ có thể vạch cho chúng ta con đường. Phần chúng ta là
phải noi theo con đường ấy để tự thanh lọc. Ði hay không, đi đúng
con đường hay không là tự ta. Không ai có thể ăn cho người khác no. Chí
đến Ðức Thế Tôn cũng không thể di để chúng ta đến. "Chính tự các con phải kiên trì cố gắng. Các Ðấng Như Lai chỉ là
những vị Thầy." (Kinh Pháp Cú , câu 276). Tinh tấn là yếu tố vô cùng trọng yếu trong Ðạo Phật. Trong ba
mươi bảy Bồ Ðề Phần khả dĩ đưa chúng sanh từ bờ mê đến bến
giác (Bodhipakkhiya sangaho, bồ đề phần, yếu tố đưa đến giác ngộ,
tức những yếu tố giúp hành giả đi suông sẻ trên Con Ðường, những pháp
trợ đạo), Tinh tấn được nhắc đến chín lần, nhiều hơn các chi khác.
Ðời sống của Ðức Phật là một gương tinh tấn cao cả đến mức cùng
cực. Lời nhắn nhủ tối hậu của Ngài trước giây phút Ðại Niết Bàn là
Apppamãdena Sampãdetha:, "Hãy kiên trì cố gắng". Cùng một thế ấy,
lới dạy cuối cùng của vị Ðại Ðệ tử Ngài, Ðức Sãriputta ( Xá Lợi
Phất) là ,"Hãy kiên trì cố gắng đây là lời khuyên dạy của ta." Chánh Tinh Tấn có bốn phần. Hai liên quan đến bất thiện pháp và hai
liên quan đến thiện pháp. Bốn tác dụng của nỗ lực chân chánh là
ngăn ngừa, dứt bỏ, phát triển, và củng cố. Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, Anguttara Nikãya, quyển II, trang 15, bài kinh số
13 và 14 có ghi như sau : 1- Cái gì là tinh tấn ngăn ngừa? "Nơi đây ( trong trường hợp này) vị Tỳ Khưu đặt hết ý
chí mình vào công phu ngăn ngừa, không cho phát sanh bất thiện pháp, những
tư tưởng bất thiện mà chưa phát sanh. Vị này cố gắng phát triển
năng lực và dũng mãnh củng cố tâm của mình ( để ngăn ngừa). "Nơi đây, khi vị Tỳ Khưu thấy một hình thể, nghe một âm thanh,
ngửi một mùi, nếm một vị, xúc chạm một vật, hay biết một ý
tưởng, vị này không bị những đối tượng ấy-- xem như toàn thể hay chi
tiết -- làm xúc động. Vị Tỳ Khưu chăm chú kiểm soát, cẩn mật gìn
giữ và điều phục lục căn, không để cho những cảm xúc như ưa thích
hay ghét bỏ, những tư tưởng tội lỗi và bất thiện xâm nhập vào như
người không thu thúc lục căn (bị nó xâm nhập). Ðó là tinh tấn ngăn
ngừa." 2- Cái gì là tinh tấn dứt bỏ? "Nơi đây, vị Tỳ Khưu đặt hết ý chí mình vào công phu
dứt bỏ các pháp bất thiện, những tư tưởng bất thiện đã phát sanh.
Vị này cố gắng phát triển năng lực và dũng mãnh củng cố tâm mình (
để dứt bỏ). " Nơi đây, vị Tỳ Khưu không chấp nhận, không dưỡng nuôi, những
dục vọng đã phát sanh mà dứt bỏ, tránh xa và xua đuổi, làm cho nó chấm
dứt và tan biến. Cũng thế ấy, dứt bỏ những tư tưởng sân hận và hung
bạo đã phát sanh. Ðó là tinh tấn dứt bỏ." 3- Cái gì là tinh tấn phát triển? "Nơi đây, vị Tỳ Khưu đặt hết ý chí mình vào công phu
tạo nên (làm cho phát sanh) và phát triển thiện pháp, những tư tưởng
thiện mà chưa phát sanh. Vị này cố gắng phát triển năng lực và dũng
mãnh củng cố tâm của mình ( để phát triển). "Nơi đây, vị Tỳ Khưu phát triển những yếu tố của sự Giác
Ngộ (Thất Giác Chi) căn cứ trên sự ẩn dật, trên sự dứt khoát từ bỏ, trên
sự chấm dứt cuối cùng, đưa đến giải thoát. Những yếu tố ấy là
niệm, trạch pháp, tấn, phỉ, an, định, xả. Ðó là tinh tấn phát
triển." 4- Cái gì là tinh tấn củng cố? "Nơi đây, vị Tỳ Khưu củng cố một đề mục (công án) thiền
thuận lợi... Ðó là tinh tấn củng cố. "Ðây là bốn tinh tấn: Ngăn ngừa, dứt bỏ, phát triển và củng
cố. Ðó là bốn Tinh Tấn mà Ðức Thế Tôn đã ban truyền. Nơi đây vị
Tỳ Khưu, nhờ kiên trì tinh tấn, thành tựu chấm dứt đau khổ." Trong bài kinh này, "pháp bất thiện" là những tư tưởng phát
xuất từ ba căn bất thiện là tham, sân, si. Trên phương diện thực hành
trong đời sống hàng ngày, bất thiện pháp là mười nghiệp bất
thiện đã được đề cập đến trong phần Chánh Kiến. "Thiện Pháp" ở đây không những chỉ là thập thiện
nghiệp mà cón là những yếu tố của Giác Ngộ (Thất Giác Chi), những
yếu tố của Tuệ Minh Sát, đưa chúng sanh đến chỗ giải thoát
toàn vẹn ra khỏi mọi khổ đau của biển trầm luân. Theo Ngài Ledi
Sayadaw, thiện nghiệp là bẩy giai đoạn của Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi
Magga, con đường trong sạch dẫn đến Niết Bàn): Giới Tịnh, Tâm Tịnh,
Kiến Tịnh, Ðoạn Nghi Tịnh, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh, Ðạo Tri
Kiến Tịnh và cuối cùng, Tri Kiến Tịnh. Trong guồng máy phức tạp của con người có cái tâm vô cùng quan trọng.
Tâm chứa đựng một kho tàng những đức tánh tốt đẹp và một hầm những tật
xấu. Chánh Tinh Tấn là nỗ lực loại bỏ dần những tật xấu và phát
triển tánh tốt. Cũng như trên một đám đất hoang, muốn thành công gieo trồng tốt thì
trước tiên phải diệt cỏ dại và canh chừng không cho nó mọc lên trở
lại. Rồi trên thửa đất sạch tốt ấy ta mới gieo giống, thận trọng vun bón
và theo dõi sức trưởng thành của cây. Ðó là Chánh Tinh Tấn. Chánh Niệm là chi thứ bảy của Bát Chánh Ðạo. Khi đề cập đến
"niệm" một số người trong chúng ta liền nhớ đến hình ảnh
một nhà Sư đang trầm ngâm, lặng lẽ ngồi đâu đó trong rừng sâu hay hang
thẳm, hoặc trong một ngôi chùa xa xôi hẻo lánh, dưới lùm cây rậm rạp. Vài
người vẫn nghĩ rằng tu niệm là công chuyện làm có tánh cách
huyền bí, dành riêng cho một hạng người đặc biệt nào. Thật ra
"niệm" là một việc hết sức đơn giản, hết sức phổ
thông. Tất cả chúng ta đều có niệm, mặc dầu chúng ta niệm trong
hình thức sơ khai nhất và chúng ta gọi đó là chú tâm, hay lưu ý
đến, nghiã là hướng tâm về đối tượng. Tâm hay biết này,
nếu ta giữ được bền lâu trên đối tượng thì đó là niệm. Tâm
có chiều hướng phóng ra và luôn luôn chao động. Kéo tâm lại và đặt nó
vào một đối tượng, chỉ hay biết đối tượng đó thôi, tức là niệm. Danh từ Pãli mà do đó ta phiên dịch là niệm, chữ "sati",
sanscrit là smrti, có nghĩa là trí nhớ, hay sự hồi nhớ. Tuy nhiên, sati không
chính xác giống như quan niệm về trí nhớ của người Tây phương. Sati,
niệm là trạng thái chú tâm, sự hiện hữu của tâm trên đối tượng.
Ðôi khi sati được xem như sự hay biết đối tượng, nhưng ở đây cũng
vậy, sati, niệm, không phải là sự hay biết như thường được hiểu,
ít nhiều bao hàm những ý nghĩ, những cảm tưởng v.v... mà là sự hay
biết suông, trơ trọi, hoàn toàn tách rời xa khỏi mọi suy tư,
tưởng tượng hồi nhớ. Ngoài đối tượng hoàn toàn không hay biết gì khác
xảy ra bên trong hay bên ngoài ta. Niệm là sự hay biết không có lựa
chọn, chỉ ghi nhận đối tượng mà không vướng víu vào màn lưới của tư
tưởng. Như thế, hành chú niệm không phải là vấn đề "làm
một điều gì" mà thật sự là "không làm": Không suy tư,
không xét đoán, không liên tưởng, không sắp xếp kế hoạch, không
tưởng tượng, không ước muốn. Chỉ có sự ghi nhận, quan sát, chú tâm nhìn
vào đối tượng. Trong khi hành Chánh Niệm tâm thức tỉnh quan sát điều
gì đang xẩy ra một cách rõ ràng, an tĩnh. Chỉ ghi nhận rồi buông bỏ cho nó
trôi qua, không xét đoán hay diễn dịch. Sự vật đến rồi đi, sanh rồi
diệt, hành giả ghi nhận diễn tiến trong thời điểm hiện tại,
luôn luôn sống trong hiện tại. Trong Bát Chánh Ðạo, đi kèm danh từ sati có chữ sammã, có nghiã là chánh,
đúng. Sammã Sati, là niệm hoặc có sự chú tâm hay biết chân chính, ta
gọi là Chánh Niệm. Một cách rốt ráo, thực hành Chánh Niệm là
hành Tứ Niệm Xứ. Có bốn loại niệm chân chính là: Niệm thân, niệm thọ,
niệm tâm và niệm pháp, được gọi là Tứ Niệm Xứ
(Satipatthãna). "Patthãna" hay "upatthãna" là đem lại gần,
kềm giữ chắc tình trạng hiện hữu, giữ tâm hay biết, hay thiết
lập cơ sở. Tứ Niệm Xứ là bốn xứ, hay bốn chỗ, chánh yếu để
hành giả đặt sự chú tâm hay biết vào. Kinh Tứ Niệm Xứ được Ðức Thế Tôn thuyết giảng cho người dân
Kura tại thị trấn Kammasadamma và được ghi chép ở hai nơi trong Tam Tạng kinh
điển. Một là bài kinh số 10 trong bộ Trung A Hàm, Majjhima NiKaya, dưới tựa
đề Satipatthana Sutta. Bài kinh kia là số 22 trong Trường A Hàm, Dĩgha
Nikaya, dưới tựa đề Maha Satipatthana Sutta. Ðiểm khác biệt giữa hai
bài là trong Kinh Ðại Niệm Xứ (Maha Satipatthana) của Trường A Hàm phần Tứ
Diệu Ðế dược giải thích dài dòng và đầy đủ chi tiết hơn trong
đoạn Niệm Pháp. Cả hai bài đều bắt đầu như sau: "Có con đường duy nhất này để chúng sanh tự thanh lọc,
để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng
ngộ Niết Bàn -- Ðó là Tứ Niệm Xứ." Tứ Niệm Xứ là thế nào? -- là Niệm Thân, Niệm Thọ,
Niệm Tâm và Niệm Pháp. a. Niệm Thân: là chú tâm hay biết vào những hiện
tượng vật chất trong cơ thể. Pháp niệm thân có 14 phần gồm : 1- Chú tâm vào hơi -thở-vào-thở ra. Ðây là pháp hành rất phổ thông và
mọi người có thể áp dụng làm nền tảng cho công phu hành
thiền. Không nên lầm hiểu rằng đây chỉ là lối tu tập cho người sơ
cơ vì pháp niệm hơi thở chính nó có thể dẫn hành giả đi dài theo
con đường, suốt qua tất cả những giai đoạn khác nhau của Con Ðường đến
tận điểm cùng tột là hoàn toàn giác ngộ. Lại nữa, tiến trình hơi
thở theo dính liền với ta cho đến lúc lià đời và do đó luôn luôn
hiện hữu, lúc nào ta cũng có thể xử dụng để chú tâm hay biết
vào. Hành giả không cố ý kiểm soát, làm cho nó phải như thế nào,
dài hay ngắn, mạnh hay yếu, mà để cho nó trôi chảy tự nhiên và theo
dõi chú tâm hay biết. 2- Chú tâm hay biết mọi cử động của thân như đi đứng, nằm, ngồi
v.v... Hành giả chú tâm hay biết vào mọi tác động của thân. Khi đi,
hay biết mình đang đi, khi đứng, hay biết mình đang đứng, khi nằm, hay
biết mình đang nằm, khi ngồi, hay biết mình đang ngồi, khi dổi tư
thế, hay biết mình đang chuyển mình đổi tư thế. 3- Có sự hay biết rõ ràng (satisampajanna, sati + niệm + sampajanna = hay
biết rõ ràng ) về mục đích và về tánh cách thích nghi của hành
động bằng thân như khi nhìn về phiá trước hay nhìn quanh, khi co hay
duỗi tay, chân, khi đắp y mang bát, khi ăn, uống, nhai, nếm, khi đi đại
tiện hay tiểu tiện, khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ngủ, khi
thức, khi nói và khi giữ im lặng. Phần này cũng đưa đến trạng thái
định tâm và hiểu biết thấu đáo và tường tận rằng không có một
"người" mà chỉ có những cử động sanh khởi do nhân duyên. 4- Quán tưởng tánh cách ô trược của thân. Quan sát thâm sâu vào thực
tướng của thân này để nhận thức rằng nó không có chi là hấp dẫn
để ta luyến ái. Ðức Phật dạy rằng ham mê nhục dục ngũ trần là một
hình thức của ái dục, tức là nguyên nhân sanh khổ, và như vậy phải cố gắng
giảm bớt và tiêu trừ. Khi nhìn bề ngoài ta thấy rằng thân này đẹp đẽ và hấp dẫn rồi ngưng
tại đó, không nhìn và quan sát ở một từng lớp sâu hơn. Pháp hành này mổ
xẻ, phân tách, nghiên cứu từng bộ phận và thấy rằng cái mà ta gọi là
sắc đẹp chỉ là một ảo ảnh, chỉ sâu dầy như một lớp da. Dưới lớp da mỏng
manh ấy thì không có gì là hấp dẫn. Tuy nhiên ta không nên nghĩ rằng pháp
hành này làm cho ta nhờm gớm hay bất mãn với cơ thể mà giúp ta thấy
đúng sự thật rồi buông bỏ, không luyến ái, không bám níu vào thân,
nghiã là từ từ dập tắt lửa tham dục bằng cách giảm dần nhiên liệu 5- Quán tưởng về bốn Thành Phần Chánh Yếu (Tứ đại) cấu thành cơ
thể này. Thông thường ta có khuynh hướng xem thân này là chính mình, là
của mình nhưng khi mổ xẻ và phân tách tận tường ta nhận thức rằng nó chỉ
là sự cấu hợp của những nguyên tố đất, nước, lửa, gió luôn luôn biến
đổi, cũng như những gì vật chất ở quanh ta, thì có gì là "Ta", như
một đơn vị nguyên vẹn, thường còn không biến đổi, có gì đặc biệt
là "Của Ta". 6- Quán tưởng chín loại tử thi , tức suy niệm về chín giai đoạn tan
rã của xác chết. Hành giả tưởng tượng một xác chết lần lần xình
thúi và trải qua những giai đoạn tan rã rồi liên tưởng đến thân mình.
Giờ đây khỏe mạnh, đầy sinh lực nhưng một ngày nào rồi cũng chịu chung một
số phận, xuôi chiều theo định luật thiên nhiên: "Thật vậy, thân này
cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy và sẽ không thể
tránh khỏi trạng thái như vậy." Một lần nữa, ta không nên hiểu lầm tác dụng của pháp hành này. Ðây
không nhằm làm chúng ta lo sợ chết hay sợ xác chết mà giúp chúng ta
suy niệm rõ ràng thực tế của sự vật là vô thường là buông bỏ,
không núm niú vào kiếp sinh tồn. Tử thi ở đây là vị thầy dõng dạc nói
lên một cách hùng hồn, khẳng định rằng: "Tất cả các pháp hữu vi thật
không bền vững. Nó có tánh sanh diệt là thường vì nhân sanh rồi
diệt, diệt rồi sanh... " b. Niệm Thọ: là chú tâm hay biết vào những cảm giác
hạnh phúc hay đau khổ, hoặc vô ký (không hạnh phúc không đau khổ) khi
những cảm giác ấy vừa sanh khởi. Thọ là một tâm sở. Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) tâm sở thọ là
một trong bẩy tâm sở phổ thông (biến hành), có mặt trong tất cả các loại
tâm. Như vậy mỗi khi chứng nghiệm một loại tâm nào đều có tâm
sở thọ, mạnh hay yếu, rõ ràng rành mạch hay mù mờ, nhưng có sự hay
biết là có thọ. Thí dụ như có một hình thể (sắc trần), có mắt
(nhãn căn). Khi sắc trần tiếp xúc (xúc) với nhãn căn là có nhãn thức.
Nhãn thức là sự hay biết về hình thể, một loại tâm vương, thì
trong đó có tâm sở thọ, mạnh hay yếu. Có sáu căn: Nhãn , nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý. Tức có sáu loại thọ khác nhau, tùy theo
"xúc" ở căn nào. Thọ rất quan trọng vì do thọ sanh ái, và từ đó liên tục diễn
tiến vòng quanh những kiếp sống khổ đau. Thọ có thể phát sanh
rõ ràng, dễ nhận ra, có khi kín đáo và mù mờ, tế nhị đến độ có
đó mà ta không nhận diện. Thọ lạc thì ta luyến ái rồi thì chấp
thủ, một loại tâm tham. Thọ khổ thì ta bất mãn, buồn phiền, một hình
thức của tâm sân. Thọ vô ký thì ta buông trôi, để cho nó mặc
tình lôi cuốn, tức ít nhiều có tâm si. Tham, sân, si là căn bản từ đó
xuất phát tất cả những loại tâm bất thiện. Nhìn theo Thập Nhị Nhân Duyên
là: Do lục căn có xúc, do xúc có thọ, do thọ có ái, và từ đó thủ,
hữu v.v... Thông thường, nếu người ta không kiểm soát, tiến trình của
luyồng tâm diễn tiến như thế. Những sự ưa thích hay ghét bỏ của ta
phần lớn tùy thuộc nơi tánh cách đáng ưa hay đáng ghét của ngoại cảnh và
phát sanh hầu như máy móc, một cách tự động. Chúng ta thường không chủ
dộng mà chỉ phản ứng ngoại cảnh. Một cảnh đẹp làm cho ta muốn thưởng
ngoạn. Một bản nhạc hay làm cho ta muốn nghe. Một thức ăn ngon khiêu gợi lòng
muốn ăn v.v... Trong quyển The Simpler Side of The Buddhist Doctrine, Ðại Ðức
Kassapa viết : "... Từ lâu, giác quan ta đòi hỏi được thỏa mãn. Ðã lâu rồi, giác
quan ta được phụng sự đầy đủ và sẽ còn được phụng sự cho đến khi
trở thành qúa dỗi khó chịu. Cái gì phụng sự giác quan? - Chính cái tâm
phải phụng sự giác quan như người nô lệ phục vụ cùng một lúc năm vị
hoàng đế khó tánh. Tâm, vị chúa tể, đã bị truất phế và chính
năm tên quân hầu, năm giác quan, soán ngôi. Người Phật Tử chúng ta có bổn
phận phục hồi ngôi vị lại cho tâm, vì tâm là nguồn lực duy nhất có thể
giúp ta vạch ra và khai triển con đường." Làm cách nào kềm chế những dòi hỏi của giác quan? Nơi đây là vai
trò của "Niệm Thọ". Thọ lạc không đương nhiên dẫn
đếm tâm tham cũng như thọ khổ không nhất thiết phải dẫn đến
sân và thọ vô ký đến si. Ðôi khi, bằng cách vận dụng ý chí,
ta có thể quyết định loại thọ mà không bị dối tượng chi phối.
Khi nhờ niệm thọ, ta hay biết kịp thời, nhìn, hiểu biết và
điều khiển nó, mà không để nó dẫn đi. Như có người kia mà từ lâu ta hằng có cảm tình và giúp đỡ, bỗng
nhiên một ngày nọ trở mặt mắng nhiếc ta thậm tệ. Lời thô lỗ
đến tai, có nhĩ thức. Thông thường, nếu niệm không đủ bén nhạy,
không hay biết kịp thời, tức nhiên có thọ khổ. Tâm sân liền phát
khởi, đưa đến những hành động hay lời nói kém thanh lịch. Nếu có
niệm thọ, và nếu niệm đủ bén nhạy, vừa hay có thọ khổ và
tâm bất mãn ta liền kịp suy tư như sau: - Lời nói thô lỗ cộc cằn là xấu và sẽ tạo bất thiện nghiệp.
Nó là của ai? - Không phải của ta. Của người kia. Vậy, của họ thì để họ lo,
tội gì mình phải gánh chịu. - Bây giờ, cái gì là của ta? - Phản ứng của ta như thế nào đối với lời nói ấy sẽ là của ta. Trong
trường hợp này có thể có ba cách phản ứng. Một là ăn miếng trả miếng. Họ mắng chửi mình thì mình mắng
chửi lại. Ðó là phản ứng tự nhiên, dễ dàng, thông thường nhất và đương
nhiên đưa đến tâm sân, tức đau khổ. Hai là nhịn. Ta suy nghĩ rằng lời nói chỉ là những âm thanh, nếu
để những âm thanh ấy lọt vào tâm thì nó sẽ gây phiền giận, đau
khổ mà không lợi ích gì. Hãy để cho nó qua như gió thoảng qua màn
lưới. Ý tưởng ấy sẽ đưa đến tâm Xả, quân bình, bình thản. Ba là nghĩ rằng tội nghiệp anh ta, tội cho cái nghiệp của anh, anh
tạo nhân xấu mà không biết. Rồi ta rải tâm từ đến anh. Hành động
vậy thì chính ta hưởng thọ lạc. Lẽ dĩ nhiên, thái độ thứ nhất là thấp kém và thái độ thứ ba là cao
thượng hơn hết, nhưng ít khi ta làm được. Tại sao? - Vì niệm của ta
chưa đủ bén nhạy để hay biết kịp thời và tâm từ của ta còn
yếu, để cơn giận nổi lên như ngựa chạy điên, có đụng đâu đó
rồi mới chịu ngừng. Nếu niệm của ta đã được rèn luyện thuần
thục ắt bén nhạy hơn và sẽ hay biết kịp thời. Lúc đầu trong pháp niệm thọ là chú tâm hay biết những cảm giác
vừa phát khởi và rõ ràng phân biệt bản chất của nó là lạc, khổ hay vô
ký. Ghi nhận loại thọ, nhưng không tự đồng hóa mình với nó, không
xem nó là "Ta", hay "Của Ta", hoặc là cài gì xảy đến cho
"Ta". Thọ chỉ là cảm giác suông. Sự hay biết được giữ ở
tầng lớp chỉ ghi nhận thọ, không có lẫn lộn với bất luận cảm xúc buồn
vui hay ưa thích ghét bỏ nào. Ðó là ý nghĩa của đoạn "niệm
thọ trong thọ" trong câu kinh, chỉ ghi nhận loại thọ - lạc, khổ
hay vô ký - Hành giả chỉ hay biết có sự hiện hữu của thọ và
giác tỉnh theo giõi, nhìn nó tan biến. Lâu ngày tự rèn luyện như
thế sẽ đến lúc hành giả có thể ghi nhận từng thọ cảm của
mình, sanh khởi và hoại diệt, diệt rồi sanh. Chỉ có một luồng những
thọ cảm diễn tiến vô cùng nhanh chóng. Trong tiến trình sanh
diệt ấy không có cho tồn tại và không có chi có thể là một cái
"Ta" đơn thuần, nguyên vẹn, tồn tại trong hai khoảnh khắc kế
tiếp. Không có chi để tham, để sân, hay để si. Không có chi
đáng được ưa thích hay ghét bỏ. Không có chi đáng bám níu hay xua đuổi.
Ta hoàn toàn buông bỏ. Cùng lúc ấy, niệm của ta sẽ bén nhạy thêm dần và có thể, dễ dàng
hơn, ngưng lại kịp thời những cảm xúc, những ý nghĩ và những tác ý.
Ta tinh tấn ngăn ngừa không để cho cảm xúc khởi sanh mà buông bỏ, chận
đứng ái ngay tại đây. c- Niệm Tâm: là chú tâm hay biết về những tư tưởng
của mình. Thí dụ như có những tư tưởng của mình. Thí dụ như có những tư
tưởng tham ái phát sanh, hành giả hay biết có tâm tham; có tâm quảng
đại, thiên về bố thí, hành giả hay có tâm bố thí v.v... Khi những tư
tưởng này phát hiện hành giả nhận thức sự phát hiện. Khi nó tan
biến hành giả cũng hay biết nó tan biến. Theo Phật Giáo, tâm không phải là một thực thể đơn thuần và nguyên
vẹn, không biến đổi, mà là những chập tư tưởng nối tiếp trôi chảy.
Ðại Ðức Nãrada giải thích : "Theo triết học Phật Giáo, không có một khoảnh khắc nào mà tâm
có thể trống rỗng, nghiã là không có lúc nào mà không có một loại
tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn tại của
một loại tâm như vậy gọi là một chập tư tưởng, hay sát na tâm. Khi một
chập tư tưởng diệt, tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những
chập tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn tại của một chập tư
tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được. "Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai doạn: sanh, trụ và diệt. Ngay khi
một chập tư tưởng vừa trải qua giai đoạn diệt, tức khắc giai đoạn sanh
của chập tư tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến
đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả
năng lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng kế
tiếp. Một chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng
trứơc trao lại và thêm vào đó có cái gì khác nữa. Như vậy, có sự luân
lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi chảy .
Chập tư tưởng mới không hoàn toàn giống như chập tư tưởng trứơc bởi vì
thành phần cấu tạo đã đổi mới, mà cũng không hoàn toàn là khác, bởi vì
cả hai đều cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời. "...hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm nhận sự liên tục
giả tạo bên ngoài như cái gì vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và
còn đi xa đến đỗi đưa một linh hồn trường tồn bất biến - giả
định là người vừa hành động vừa quan sát hành động - vào trong cái tâm
luôn luôn biến đổi." Khi niệm thọ, ta chú tâm hay biết vào một tâm sở đặc biệt,
tâm sở thọ. Niệm tâm, ta chú tâm hay biết vào tâm vương. Tâm
vương gồm 52 tâm sở trong đó thọ là một. Trong pháp niệm tâm, do
những tâm sở liên quan Ðức Phật chỉ dạy 16 loại tâm để hành giả chú
niệm là: Tâm có tham và tâm không có tham, tâm có sân và tâm không có
sân, tâm có si và tâm không có si, tâm uể oải, liên hệ đến dã
dượi hôn trầm, tâm loạn động, tâm phát triển cao thượng (tức các loại
tâm thuộc Sắc Giới và Vô Sắc Giới), tâm không phát triển cao thượng
(tức các tâm thuộc Dục Giới), tâm hữu hạn (tức còn có thể hơn), tâm vô
thường, tâm định, tâm không định, tâm giải thoát và tâm không giải thoát. Dầu là tâm trong sạch hay ô nhiễm, ta nên giữ chỉ có sự hay biết rõ
ràng mà không phấn khởi kích thích cũng không chán nản ngã lòng. Chỉ ghi
nhận loại tâm rồi để cho nó qua, không luyến ái bám niú cũng không
ghét bỏ đuổi xua mà hoàn toàn buông bỏ. d- Niệm Pháp: là chú tâm hay biết vào những đối tượng
của tâm. Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, phần niệm pháp chia làm năm phần: Năm Pháp
Triền Cái, Ngũ Uẩn Thủ, Sáu Nội và Ngoại Xứ, Thất Giác Chi và Tứ
Diệu Ðế. Năm pháp triền cái hay năm chướng ngại làm trở ngại con
đường hành đạo là: Tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu
và hoài nghi. Trong bộ Tạp A Hàm, Samyutta Nikãya, Ðức Phật dạy: "Có năm trở
ngại ;làm hoen ố tâm. Do các trở ngại này tâm không ôn thuận, không mềm
dẻo, không sáng suót, không thể được phân tách dễ dàng, cũng không
thể được cấu hợp hoàn bị để tiêu trừ ô nhiễm." Người hành thiền phải hay biết rõ ràng mỗi khi nó phát sanh và
khi nó hoại diệt. Ðể vững vàng kiểm soát hành giả phải hiểu
rõ năm chướng ngại tinh thần khởi phát như thế nào, phải làm thế
nào cho nó tan biến và làm thế nào để ngăn ngừa không cho nó sanh
khởi trong tương lai. Ngũ uẩn thủ là chấp thủ rằng Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là "Ta" là "Của Ta" rồi cố bám vào. Hành giả chú tâm
hay biết vào sự khởi sanh và sự phân tán của từng uẩn và nhận thức rằng
nó luôn luôn biến đổi, không có thực chất và không có uẩn nào là
"Ta" hay "Của Ta". Trong bộ Tạp A Hàm, Samyutta Nikãya, có ghi lại lời Ngài Sãriputta khuyên
dạy cụ già Nakulapitã: "Người không phân biệt Giáo Pháp rõ ràng, không tu tập theo
lời dạy của Giáo Pháp, xem thân (sắc) này là tự ngã của mình, thấy tự ngã
của mình nằm trong thân, thân trong tự ngã. Người ấy nói, "Tôi là thân
này, thân này là của tôi", và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày
nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể biến đổi, tàn tạ và
ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô thường, bất ổn định,
dính liền với mọi sự vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn
rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than van, tuyệt vọng. "Người ấy xem thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã, xem chính
mình nằm trong thọ, tưởng, hành, thức, hoặc xem thọ, tưởng, hành,
thức nằm trong chính mình và nói " chính ta là ngũ uẩn, ngũ uẩn là ta,
cái này là thọ, tưởng, hành, thức của ta" Và cứ như thế, ý
niệm tự đồng hóa với ngũ uẩn thâm nhiễm nguời ấy. Do đó, khi thọ,
tưởng, hành, thức biến đổi, thì người ấy buồn rầu ta thán, âu sầu và
tuyệt vọng..." Và ngài tiếp : "... Người được giáo dục đầy đủ, người có tu tập thuần thục
trong Giáo Pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy không xem sắc, thọ, tưởng
,hành, thức là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong năm uẩn ấy.
Người ấy không bị ý niệrm kia thâm nhiễm và không nói sắc, thọ,
tưởng, hành, thức là tôi, tôi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì không
thâm nhiễm những ý nghĩ sai lạc ấy khi sắc, thọ, tưởng , hành, thức
biến đổi, người ấy không âu sầu, phiền muộn v.v..." Sáu nội xứ và Sáu ngoại xứ tức là lục căn và lục trần.
Hành giả chú niệm và hiểu biết nhãn, nhĩ tỷ, thiệt, thân,
ý , hiểu biết sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp và hiểu
biết dây trói buộc nào trong mười thằng thúc phát sanh tùy thuộc nơi nội
và ngoại xứ nào; hành giả hiểu biết một thằng thúc chưa phát sanh sẽ
phát sanh như thế nào; hành giả hiểu biết sự dứt bỏ một thằng
thúc đã phát sanh như thế nào; và hành giả hiểu biết sự không
phát sanh trở lại trong tương lai một thằng thúc đã bị dứt bỏ là như
thế nào. Thất giác chi là niệm, trạch pháp, tinh tấn, phỉ, an,
định và xả. Mỗi khi một trong bảy yếu tố của giác ngộ này khởi phát
hành giả liền ghi nhận rồi quán trạch, khảo sát khám phá xem nó khởi
phát như thế nào và trở nên lớn mạnh như thế nào. Khi mới phát sanh
giác chi niệm còn yếu ớt. Dần dần, nhờ công phu tu tập của hành giả,
niệm trở nên vững mạnh. Khi niệm kiên cố vững mạnh giác chi trạch
pháp hoạt động, khảo sát, tìm hiểu. Trạch pháp làm khởi dậy tinh tấn,
tinh tấn đưa đến phỉ, phỉ đến an, an đến đinh và định đưa
đến xả. Toàn thể tiến trình đưa đến giác ngộ bắt đầu bằng
niệm, và niệm là năng lực hỗ trợ trên suốt con đường. Tứ diệu đế: Nơi đây hành giả hiểu biết tùy
theo thực tại, " Ðây là Khổ", tùy theo thực tại hiểu biết,
"Ðây là nguồn gốc của Khổ"; tùy theo thực tại hiểu biết
" Ðây là sự chấm dứt Ðau Khổ"; và tùy theo thực tại hiểu
biết, "Ðây là con đường để chấm dứt Ðau Khổ". Tâm chứa đựng những tiềm năng vô cùng hùng mạnh, những xu hướng
thiện cũng như bất thiện mà khi hội đủ cơ duyên, có thể bộc
phát một cách bất ngờ, bất luận lúc nào. Chánh Tinh Tấn là nỗ lực ngăn
chặn và diệt trừ ác pháp. Tuy nhiên, cho được nỗ lực hữu hiệu,
tâm phải hay biết kịp thời tư tưởng thiện hay bất thiện sắp sửa
hoặc vừa phát hiện. Ðó là nhiệm vụ của Chánh Niệm. Như tên lính
canh từng phút, từng giây, từng khoảnh khắc trong cái hiện tại vĩnh cửu,
luôn luôn canh phòng nghiêm ngặt quân thù cũng như bạn lành có thể xuất
đầu lộ diện bất cứ lúc nào. Canh phòng và phát giác ra bạn hay thù là
Chánh Niệm. Ngăn chặn quân gian không cho vào thành, hay đánh đuổi những
kẻ thù đã lọt được vào thành và đàng khác, mời bạn lành vào hay cố
giữ bạn trong thành là Chánh Tinh Tấn. Ðại Ðức Khantipalo có lời khuyên nhủ như sau: "Ðiều cần thiết ở đây là Niệm (Sati) vì nếu không có
niệm thì không Giáo Pháp nào có thể thực hành. Và trong lúc không
thực hành Giáo Pháp chúng ta sẽ bị sức mạnh của thói quen quá khứ lôi cuốn
đi. Cùng lúc ấy ái dục và vô minh tiếp tục tăng trưởng bên trong chúng
ta. Khi giữ tâm niệm ta có khả năng và phương tiện để hiểu
biết "đây là cảm giác vui thích","đây là cảm giác đau
khổ", "đây là cảm giác không đau khổ, không vui thích". Quan
sát và suy niệm như thế những thọ cảm sẽ giúp ta thấu hiểu và
hay biết lúc nào có tham, san, si liên hợp với các cảm giác ấy. Với sự
thấu hiểu và hay biết như thế ta có thể phá vỡ bánh xe sanh tử
và thoát ra khỏi vòng luân hồi. Nhưng nếu ta không thực hành Giáo Pháp,
chắc chắn những thọ cảm kia sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta đến các
ái dục khác và quay cứng ta theo bánh xe dẫy đầy đau thương, như Ngài
Nagarjuna (Long Thọ ) dạy: "Ái dục chỉ ngọt ngào ở lớp mặt, bên
trong thì khô cứng, đắng cay."
1993/2536
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com