.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Thoát
vòng
nô
lệ
Như
những
tên
tội
nhân
bị
trói
tay,
bịt
mắt
để
cho
người
dẫn
đi
hành
hình
hay
đưa
đến
bất
cứ
một
lao
xá
nào
mà
mình
không
biết.
Họ
phải
chịu
khổ
đau
bởi
tội
lỗi
của
mình.
Cũng
vậy
chúng
ta
hiện
hữu
trên
cõi
đời
bị
tham
dục,
hữu
ái,
kiến
chấp,
vô
minh
che
lấp
và
dẫn
dắt
chúng
ta
trôi
dạt,
đắm
chìm
trong
vòng
sinh
tử
luân
hồi.
Hãy
cố
tìm
cách
cắt
đứt
mọi
dây
ràng
buộc
mà
mình
đã
tự
trói
lấy
mình.
Hãy
thắp
sáng
ngọn
đèn
trí
tuệ
để
thấy
đâu
là
chánh
đạo,
đâu
là
mê
đồ
hầu
sớm
chọn
đường
giải
thoát.
Buồn
thay,
không
mấy
ai
trong
chúng
ta
nhận
chân
được
thân
phận
đọa
đày
của
mình
trong
kiếp
sống
trầm
luân,
không
mấy
ai
dám
nhìn
thẳng
vào
thực
trạng
nô
lệ
của
mình
trong
gông
cùm
bản
ngã.
Chúng
ta
cứ
mãi
chìm
sâu
trong
bể
khổ
vì
tưởng
bã
mồi
danh
lợi
là
chân
hạnh
phúc,
và
không
biết
rồi
đây
sẽ
ngã
gục
ở
một
phương
trời
nào
mà
cứ
tưởng
mình
đang
hướng
về
một
tiền
đồ
sáng
lạn.
Vì
thế
Đức
Phật
phải
ân
cần
nhắc
nhở:
"Cười
sao
được,
vui
sao
được
khi
thế
gian
đang
bị
thiêu
đốt
và
màn
đen
bao
phủ,
sao
không
tìm
ánh
sáng
thoát
ly?".
Thật
vậy,
con
người
bị
dục
vọng
thiêu
đốt,
và
màn
đen
vô
minh
che
lấp,
chỉ
có
ánh
sáng
trí
tuệ
mới
có
thể
dập
tắt
ngọn
lửa
ái
dục,
xé
toang
màn
vô
minh
ấy
để
đưa
ta
đến
nơi
giải
thoát.
Đức
Phật
không
những
đã
đánh
thức
chúng
ta,
mà
còn
chỉ
cho
chúng
ta
thấy
rõ
đâu
là
ách
nô
lệ,
đâu
là
phương
cách
thoát
ly
nô
lệ.
Trong
kinh
Sabbàsava,
Majjhima-nikàya
(Trung
Bộ),
Đức
Phật
đề
cập
đến
các
Hoặc
Lậu
(àsava)
như
những
gánh
nặng
(yoga)
nhận
chìm
chúng
sanh
trong
trầm
luân
khổ
hải
và
Ngài
đưa
ra
bảy
phương
pháp
thoát
ly
những
cùm
xích
nô
lệ
này.
Trước
khi
nói
đến
các
phương
pháp
đối
trị
hoặc
lậu,
ta
phải
tìm
hiểu
Hoặc
Lậu
là
gì
?
I.-
Hoặc
Lậu
là
gì
?
Theo
Phạn
Ngữ
danh
từ
àsava
có
cùng
ngữ
căn
với
động
từ
àsavati
hay
assavati
nghĩa
là
chảy
rỉ
ra.
Một
con
thuyền
bị
rạn
nứt,
nước
thấm
vào
càng
lâu
càng
đầy
thì
sẽ
có
lúc
chìm
đắm.
Cũng
vậy,
những
phiền
não
nội
tại
rỉ
ra
làm
ô
nhiễm
thân
tâm,
khiến
cho
lục
căn
bất
tịnh
và
từ
đó
lục
căn
trở
thành
những
cám
dỗ
vô
cùng
nguy
hiểm.
Tùy
theo
tác
dụng
của
những
phiền
não
này
mà
đôi
lúc
hoặc
lậu
được
gọi
dưới
những
tên
khác
như
ách
nô
lệ
(Yoga),
trầm
luân
(Osidàpana),
trầm
mịch,
hay
dòng
nước
lũ
(Ogha).
Bởi
vì
chúng
trói
buộc,
nhận
chìm
và
lôi
cuốn
chúng
sanh
trôi
nổi
trong
sông
mê
bể
khổ.
Theo
kinh
Sabbàsava
có
ba
thứ
Hoặc
Lậu:
Dục
Lậu,
Hữu
Lậu
và
Vô
Minh
Lậu.
Tuy
nhiên
để
tiện
việc
giải
thích,
trong
bộ
Chú
giải
(Atthakathà),
Kiến
Lậu
được
tách
rời
khỏi
Hữu
Lậu.
Như
vậy
có
tất
cả
bốn
thứ
Hoặc
Lậu.
1.
Dục
Lậu
(Kàmàsava):
Danh
từ
Phạn
ngữ
Kàma
thường
được
dịch
là
Lạc
Dục.
Xét
cho
kỹ,
lạc
dục
có
hai
khía
cạnh,
đứng
về
phương
diện
chủ
thể
lạc
dục
là
ưa
thích
thụ
hưởng
những
khoái
cảm
của
giác
quan,
về
phương
diện
khách
thể
là
buôn
trôi
theo
sức
lôi
cuớn
đối
tượng
ngoại
giới
(trần
cảnh).
Ngọn
lửa
tham
dục
nầy
có
khả
năng
làm
nhiễu
loạn
thân
tâm,
vì
vậy
được
gọi
là
dục
lậu.
Dục
lậu
thường
biểu
lộ
dưới
nhiều
hình
thức
như
Hỷ
Ái,
Tham
Ái,
Tham
Dục,
Ái
Dục...
Nhưng
dù
ở
trạng
thái
nào,
về
phương
diện
bất
thiện,
dục
lậu
vẫn
là
một
ách
nô
lệ
cần
phải
tháo
gỡ
mới
được
tự
do.
Đức
Phật
dạy
rằng
chính
Hỷ
Ái,
Tham
Ái,
Tham
Dục,
Ái
Dục
sinh
ra
phiền
muộn
và
lo
âu,
chừng
nào
không
còn
những
tâm
niệm
sai
lầm
ấy
con
người
mới
thoát
khỏi
ách
nô
lệ
(Yopakkema).
Nguyên
nhân
khiến
chúng
ta
tự
trói
mình
trong
ách
nô
lệ
của
Dục
Lậu
là
vì
phán
đoán
sai
lầm
về
bản
chất
của
thọ
cảm
và
nhận
định
quá
chủ
quan
về
giá
trị
của
đối
tượng
ngoại
giới.
2.
Hữu
Lậu
(Bhavàsava):
Hầu
như
tất
cả
mọi
người,
ai
ai
cũng
muốn
được
tồn
tại
mãi
mãi.
Dù
sống
trong
đau
khổ
họ
vẫn
ước
ao
được
sinh
tồn
với
hy
vọng
một
ngày
nào
đó
hạnh
phúc
sẽ
đến.
Khát
vọng
được
tồn
tại
vĩnh
viễn,
đặc
biệt
là
tồn
tại
trong
Sắc
và
Vô
sắc
giới
gọi
là
Hữu
Lậu.
Nhiều
tôn
giáo
hay
Triết
phái
đã
cố
gắng
đưa
ra
những
hình
ảnh
trường
cửu
như
Thượng
Đế,
Đại
Ngã,
Phạm
Thiên
cùng
với
những
tín
điều
khác
hấp
dẫn
nhằm
thỏa
mãn
những
thị
hiếu
này
của
con
người.
Có
thật
con
người
sẽ
được
đời
đời
sống
an
lành
dưới
sự
che
chở
của
đấng
Toàn
Năng
hay
Đức
Phạm
Thiên
nào
đó
như
những
lời
hứa
hẹn
của
các
Tôn
Giáo
ấy
không
?
Đức
Phật
khẳng
định:
Không!
Ngài
nói
những
hứa
hẹn
trên
chỉ
làm
cho
con
người
đắm
chìm
sâu
hơn
trong
bể
trầm
luân
và
đó
chính
là
hữu
lậu.
Nếu
hành
thiền
định,
người
Phật
tử
cũng
có
thể
đến
được
những
cõi
trời
hữu
hay
vô
sắc
và
sẽ
hưởng
hạnh
phúc
ở
đó
một
thời
gian
khá
lâu.
Nhưng
theo
Đức
Phật,
dù
là
cõi
trời
cao
nhất
như
Phi
Tưởng
Phi
Phi
Tưởng
xứ
thiên
vẫn
còn
nằm
trong
vòng
Tam
Giới,
nghĩa
là
vẫn
bị
các
Hoặc
Lậu
chi
phối.
Và
bao
lâu
còn
hoặc
lậu
thì
chưa
thể
giải
thoát.
Vì
thế
thiền
định
đối
với
Đạo
Phật
chỉ
là
phương
tiện
để
làm
cho
tâm
thanh
tịnh
chứ
chưa
phải
là
cứu
cánh
giải
thoát.
Muốn
giải
thoát
giác
ngộ
phải
hành
thiền
để
đạt
Minh
Sát
Tuệ.
3.
Kiến
Lậu
(Ditthisava):
Quan
niệm
của
mỗi
người
về
vũ
trụ
và
nhân
sinh
có
ảnh
hưởng
rất
lớn
đối
với
đời
sống
của
họ.
Hễ
quan
niệm
còn
sai
lầm
(tà
kiến)
thì
con
người
còn
phải
nô
lệ
phiền
não
vì
thế
tà
kiến
được
xem
là
một
trong
những
ách
nô
lệ
hay
hoặc
lậu
cần
phải
tiêu
trừ.
Vào
thời
Đức
Phật,
nước
Ấn
Độ
có
rất
nhiều
tôn
giáo,
mỗi
tôn
giáo
có
những
quan
niệm
sai
khác
về
Vũ
Trụ
và
nhân
sinh.
Tuy
nhiên
không
phải
tất
cả
các
quan
niệm
ấy
đều
hợp
với
chân
lý.
Sáu
mươi
hai
trong
số
các
quan
niệm
ấy
bị
Đức
Phật
chứng
minh
là
tà
thuyết
gồm
có
Thường
Trú
Luận,
Vô
Thường
Trú
Luận,
Phi
Phi
Tưởng
Luận,
Đoạn
Diệt
Luận,
Hiện
tại
Niết
Bàn
Luận
và
các
luận
thuyết
chắp
nối
các
quan
niệm
trên.
Chúng
ta
có
thể
phân
loại
các
tà
kiến
trên
thành
hai
nhóm:
a-
Thường
Kiến
(Sàssata
ditthi):
là
quan
niệm
cho
rằng
bản
ngã
và
thế
giới
trường
tồn
vĩnh
cửu.
b-
Đoạn
Kiến
(Uccheda
ditthi):
là
quan
niệm
chủ
trương
bản
ngã
hoàn
toàn
hủy
diệt
sau
khi
thân
hoại
mạng
chung.
Đoạn
kiến
đưa
con
người
đến
chỗ
bất
chấp
thiện
ác
và
nhân
quả.
Cả
hai
kiến
chấp
trên
đều
là
những
trở
ngại
lớn
lao
trong
việc
giải
phóng
con
người
ra
khỏi
thành
trì
bản
ngã.
4.
Vô
Minh
Lậu
(Avijjàsava):
Thế
gian
là
cõi
u
tối
vì
vô
minh
chi
phối
tất
cả
chúng
sanh
sống
ở
trong
đó.
Vì
bản
tính
của
vô
minh
là
không
sáng
suốt,
không
thấy
được
đâu
là
chân,
đâu
là
giả
hay
nói
một
cách
khác
là
không
thấy
được
thực
tướng
của
bản
ngã
và
thế
giới.
Qua
lớp
màn
đen
u
minh
ấy,
chúng
sanh
thấy
vô
thường
là
thường
còn,
khổ
não
là
hạnh
phúc
và
vô
ngã
là
hữu
ngã.
Đứng
về
một
phương
diện
khác,
vô
minh
ám
chỉ
những
chúng
sanh
chưa
thực
chứng
được
lý
Tứ
Diệu
Đế
và
Thập
Nhị
Nhân
Duyên.
Mãi
đến
lúc
Đức
Phật
thành
đạo
dưới
cội
cây
Bồ
Đề
Ngài
mới
thật
sự
thấy
rõ
đâu
là
khổ,
đâu
là
nguyên
nhân
của
sự
khổ,
đâu
là
nơi
diệt
khổ
và
đâu
là
con
đường
đưa
đến
nơi
diệt
khổ.
Và
Ngài
nắm
được
giềng
mối
hình
thành
của
vòng
luân
hồi
qua
Thập
Nhị
Duyên
Khởi.
Nhờ
đó
Ngài
mới
hoàn
toàn
trút
bỏ
được
ách
nô
lệ
của
phiền
não
và
thật
sự
sống
một
cuộc
sống
tự
tại
giải
thoát.
II.-
Con
Đường
Thoát
Ly:
Chúng
ta
đã
nói
đến
các
hoặc
lậu
như
những
ách
nô
lệ
ràng
buộc
chúng
sanh
trong
vòng
sanh
tử
luân
hồi,
nguyên
nhân
và
sức
tàn
phá
của
chúng,
bây
giờ
chúng
ta
hãy
tìm
hiểu
bảy
phương
pháp
thoát
ly
ra
khỏi
các
ách
nô
lệ
mà
Đức
Phật
đã
giới
thiệu
trong
Kinh
Sabbàsava,
Majjima
Nikàya
(Trung
Bộ).
Bảy
phương
pháp
sau
đây
không
những
có
tính
cách
đạo
đức
mà
còn
phù
hợp
với
khoa
Tâm
Lý
Liệu
Pháp
(Psychotherapy)
ngày
nay,
đó
là:
Kiến
Pháp
(Dassanà),
Nhiếp
phục
(Samvara),
Tỉnh
Dụng
(Patisevanà),
Nhẫn
Thống
(Adhivàsanà),
Viễn
Ly
(Parivagganà),
Trừ
Đoạn
(Vinodanà)
và
Luyện
Tâm
(Bhàvanà).
Chúng
tôi
xin
lần
lượt
trình
bày
lời
chỉ
dẫn
của
Đức
Phật
trong
nửa
đoạn
sau
của
Kinh
Sabbàsava;
tức
là
phần
nói
về
phương
pháp
diệt
trừ
Hoặc
Lậu.
1.
Kiến
Pháp
(Dassanà):
nghĩa
là
chú
tâm
quan
sát
bằng
trí
tuệ
để
thắng
các
nội
pháp
(chủ
thể)
và
ngoại
pháp
(đối
tượng
ngoại
giới,
khách
thể)
đúng
với
chân
tướng
của
chúng.
Đức
Phật
dạy:
về
phương
diện
chủ
thể,
có
hai
cách
chú
tâm
là
chú
tâm
hợp
lý
(Yoniso
manasikàra)
và
chú
tâm
phi
lý
(Ayoniso
manasikàra);
về
phương
diện
đối
tượng,
có
hai
pháp
là
pháp
đáng
chú
tâm
(manasikàraniyà
dhammà)
và
pháp
không
đáng
chú
tâm
(Amana
sikàraniyà
dhammà).
Như
vậy,
nếu
chú
tâm
vào
các
pháp
không
đáng
chú
tâm
thì
các
hoặc
lậu
chưa
có
sẽ
phát
sanh
và
các
hoặc
lậu
đã
có
sẽ
tăng
trưởng.
Trái
lại
nếu
chú
tâm
hợp
lý
vào
các
pháp
đáng
chú
tâm
thì
các
hoặc
lậu
chưa
có
sẽ
không
phát
sinh
và
các
hoặc
lậu
đã
có
sẽ
hủy
diệt.
Như
vậy
có
người
chú
tâm
hợp
lý
vào
các
pháp
đáng
chú
tâm,
suy
nghĩ
rằng:
"Đây
là
khổ,
đây
là
nguyên
nhân
của
sự
khổ,
đây
là
nơi
diệt
khổ
và
đây
là
con
đường
đưa
đến
nơi
diệt
khổ".
Nhờ
chú
tâm
chân
chính
như
thế
mà
ba
thứ
thằng
thúc
Thân
Kiến,
Hoài
Nghi
và
Giới
Cấm
Thủ
bị
tiêu
diệt.
Đó
là
con
đường
hủy
diệt
các
Hoặc
Lậu
bằng
Kiến
Pháp.
2.
Nhiếp
Phục
(Samavara):
tức
là
chế
ngự
hay
thu
hút
lục
căn
cho
thanh
tịnh.
Như
chúng
ta
đã
đề
cập
trong
phần
trên,
sự
tiếp
xúc
giữa
lục
căn
và
lục
trần
gây
nên
những
kết
quả
nguy
hiểm
không
lường
được
nếu
lục
căn
không
được
Nhiếp
Phục
đứng
đắn.
Với
tâm
niệm
sai
lầm,
lục
căn
bị
lôi
cuốn
và
đắm
chìm
trong
sức
hấp
dẫn
của
lục
trần,
nghĩa
là
khi
mắt
thấy
sắc,
tai
nghe
thanh,
mũi
ngửi
hương,
lưỡi
nếm
vị,
thân
tiếp
xúc...
các
tình
cảm
chủ
quan
như
yêu,
ghét
sẽ
phát
sinh.
Vậy
muốn
lục
căn
tiếp
nhận
lục
trần
mà
không
bị
tình
cảm
chi
phối,
một
mặt
ta
phải
dùng
đến
Kiến
Pháp
để
thấy
rõ
chân
tướng
của
hiện
tượng
nội
giới
và
ngoại
giới
như
đã
đề
cập
ở
trên.
Mặt
khác,
ta
phải
nhiếp
phục
lục
căn,
tức
là
tập
cho
mắt,
tai,
mũi,
lưỡi,
thân
và
ý
tiếp
nhận
sắc,
thanh,
hương,
vị,
xúc,
pháp
với
một
tâm
bình
thản
không
thiên
chấp.
Đức
Phật
dạy:
"Nếu
sống
không
nhiếp
phục
lục
căn,
các
hoặc
lậu
có
tính
cách
tàn
phá
và
hủy
hoại
rất
có
thể
sinh
khởi.
Nhưng
nếu
sống
chế
ngự
lục
căn
thì
những
hoặc
lậu
mang
tính
cách
tàn
phá
và
hủy
hoại
ấy
không
thể
phát
sanh
được.
Đó
là
con
đường
diệt
trừ
Hoặc
Lậu
bằng
Nhiếp
Phục".
3.
Tỉnh
Dụng
(Patisevanà):
bậc
tu
hành
khi
dùng
một
nhu
cầu
cần
yếu
nào
phải
sáng
suốt
nhận
định
những
lợi
ích
thiết
thực
của
nó,
đừng
để
tâm
ưa
thích
vật
dụng
này,
chê
bai
vật
dụng
kia,
và
nhất
là
tri
túc
không
tham
đắm
trong
các
xa
xỉ
phẩm.
Các
nhu
cầu
cần
thiết
cho
đời
sống
tu
hành
gọi
là
Tứ
Y
Pháp:
áo
mặc,
cơm
ăn,
chỗ
ở
và
thuốc
uống.
Những
vật
dụng
tối
yếu
này
càng
giản
dị
thanh
bần
chừng
nào
tốt
chừng
đó.
Hơn
thế
nữa,
khi
dùng
y
phục
vị
ấy
phải
niệm
tưởng
rằng:
"Ta
mặc
đây
chỉ
tránh
sự
nóng
lạnh,
muỗi
mòng,
gió
nắng,
rắn
rết,
và
che
thân
thể
vậy
thôi".
Khi
dùng
vật
thực,
vị
ấy
quán
tưởng
rằng:
"Ta
dùng
của
cúng
dường
không
phải
để
vui
chơi,
không
phải
vì
dục
lạc,
không
phải
để
bồi
dưỡng
xác
thân
cho
duyên
dáng,
cũng
không
phải
để
điểm
tô
nhan
sắc
cho
xinh
đẹp,
mà
chỉ
để
giữ
gìn
và
duy
trì
thân
thể
được
quân
bình
hầu
dũng
tiến
trong
đời
sống
phạm
hạnh".
Khi
cư
ngụ
trong
tịnh
thất
phải
biết
rằng
đó
chỉ
là
phương
tiện
để
tránh
nguy
hiểm
về
thời
tiết,
thú
dữ,
nhất
là
để
có
nơi
thanh
vắng
phù
hợp
với
việc
hành
đạo
như
tham
thiền,
suy
tư,
quán
tưởng....
Và
khi
uống
thuốc
ngừa
bệnh
hay
trị
bệnh
phải
biết
rằng
chỉ
dùng
để
làm
dịu
những
cơn
đau,
trừ
khử
hoặc
ngăn
ngừa
những
bịnh
hoạn
nguy
hiểm
có
thể
gây
trở
ngại
cho
việc
tu
hành.
Nhờ
tỉnh
dụng
như
thế
mà
các
Hoặc
Lậu
không
thể
phát
sanh
được.
4.
Nhẫn
Thống
(Adhivàsanà):
bậc
tu
hành
không
nên
than
van,
phàn
nàn,
dù
gặp
bất
cứ
một
hoàn
cảnh
khó
khăn
nào;
phải
kiên
nhẫn
chịu
đựng
mọi
gian
khổ,
thiếu
thốn
hay
nghịch
cảnh
xảy
đến
với
mình,
có
như
thế
mới
phá
bỏ
được
sự
ràng
buộc
của
ái
dục.
Đức
Phật
dạy
rằng:
"Này
các
hiền
giả,
thế
nào
là
diệt
trừ
Hoặc
Lậu
bằng
Nhẫn
Thống
?
Trong
giáo
pháp
của
Như
Lai,
này
các
hiền
giả,
một
vị
tỳ
khưu
suy
nghĩ
đúng
đắn
là
người
biết
chịu
đựng
lạnh
nóng,
đói
khát,
muỗi
mòng,
gió
sương,
rắn
rết,
chịu
đựng
những
lời
nói
bực
mình,
không
niềm
nở;
là
người
can
đảm
đương
đầu
với
những
cảm
giác
đau
đớn
mãnh
liệt,
nhức
nhối,
khó
chịu
khốn
khổ
và
nguy
kịch.
Vì
thiếu
nhẫn
thống
các
hoặc
lậu
có
tính
cách
tàn
phá,
hủy
hoại
sẽ
phát
sanh,
nhưng
nhờ
kham
nhẫn
mà
những
hoặc
lậu
mang
tính
cách
tàn
phá,
hủy
hoại
không
thể
phát
sinh
được.
Nầy
các
hiền
giả,
như
thế
gọi
là
diệt
trừ
các
hoặc
lậu
bằng
nhẫn
thống
vậy".
5.
Viễn
Ly
(Parivagganà):
Khi
gặp
những
hoàn
cảnh
khó
khăn
không
thể
tránh
được
thì
ta
sẵn
sàng
đương
đầu
như
trường
hợp
vừa
nói
ở
trên.
Nhưng
tốt
hơn
ta
nên
tránh
xa
những
nơi
nguy
hiểm
xấu
xa
để
khỏi
bị
quấy
rầy
khi
đang
hành
đạo;
không
nên
vào
cư
ngụ
những
nơi
có
nhiều
thú
dữ
hoặc
cây
cối
gẫy
đổ,
rừng
bụi
chông
gai,
vực
thẳm,
dốc
núi
và
nhất
là
tránh
xa
tà
hữu,
ác
đảng.
Bởi
vì
không
tránh
xa
những
nơi
nguy
hiểm
và
những
kẻ
xấu
xa
ấy
sự
sợ
hãi,
kinh
hoàng,
tính
hung
dữ,
lười
biếng...
sẽ
phát
sanh
và
do
đó
các
hoặc
lậu
không
thể
trừ
được.
Đó
là
phương
pháp
trừ
diệt
hoặc
lậu
bằng
viễn
ly.
6.
Trừ
Đoạn
(Vinodana):
tức
là
dứt
bỏ
những
vọng
niệm.
Có
ba
thứ
vọng
niệm
hay
tà
tư
duy
là:
suy
nghĩ
về
dục
lạc,
suy
nghĩ
về
ác
tâm
và
suy
nghĩ
phương
kế
hãm
hại
kẻ
khác
-
nói
chung
là
tất
cả
các
bất
thiện
tâm
sở.
Tư
tưởng
của
chúng
ta
thường
hướng
đến
các
bất
thiện
pháp
tức
là
chú
tâm
đến
các
pháp
không
đáng
chú
tâm,
vì
thế
mà
các
hoặc
lậu
chưa
có
phát
sinh
lên
và
các
hoặc
lậu
đã
có
càng
tăng
trưởng.
Vậy
muốn
thoát
khỏi
những
ràng
buộc
của
Hoặc
Lậu
ta
phải
chấm
dứt,
trừ
đoạn,
hủy
diệt
các
tư
tưởng
bất
thiện
nói
trên.
7.
Luyện
Tâm
(Bhàvanà):
tức
là
phát
huy
năng
lực
tinh
thần.
Ở
đây
Kinh
Sabbàsava
đặc
biệt
nhấn
mạnh
đến
Thất
Giác
Chi.
a)
Niệm
giác
chi:
giúp
ta
luôn
luôn
giác
tỉnh
để
ghi
nhận
và
biết
rõ
tất
cả
những
hành
động,
lời
nói,
ý
nghĩ
của
mình
một
cách
chân
thực.
b)
Trạch
pháp
giác
chi:
để
thấy
đâu
là
khổ,
đâu
là
nguyên
nhân
của
sự
khổ,
đâu
là
nơi
diệt
khổ
và
đâu
là
con
đường
dẫn
đến
nơi
diệt
khổ.
c)
Tinh
tấn
giác
chi:
để
dõng
mãnh
tiến
lên
trên
đường
đạo.
d)
Hỷ
giác
chi:
giúp
ta
phấn
khởi
dễ
dàng
vượt
qua
mọi
trở
ngại.
e)
Thư
thái
giác
chi:
giúp
cho
thân
tâm
lắng
dịu,
không
bị
lửa
ái
dục
thiêu
đốt.
g)
Định
giác
chi:
có
mục
đích
giữ
tâm
thanh
tịnh,
khi
tâm
được
an
trú
thì
các
ác
pháp
sẽ
bị
tiêu
diệt;
nhờ
đó
tâm
trở
nên
sáng
suốt,
trí
tuệ
phát
sanh.
h)
Xả
giác
chi:
là
tâm
quân
bình
không
bị
ảnh
hưởng
của
ngoại
vật;
đó
là
tâm
không
thiên
vị,
không
bị
tình
cảm
chi
phối.
Khi
tâm
được
rèn
luyện,
các
giác
chi
được
phát
huy
thì
những
hoặc
lậu
sẽ
bị
hủy
diệt,
vì
vậy
luyện
lâm
là
một
trong
những
phương
pháp
hữu
hiệu
để
diệt
trừ
phiền
não.
Bảy
phương
pháp
diệt
trừ
hoặc
lậu
vừa
nêu
trên
đã
được
nhiều
nhà
phân
tâm
học
hoan
nghinh
như
những
tâm
lý
liệu
pháp
thực
dụng.
Một
vị
Giáo
sư
Đại
Học
đường
Cambridge,
Tiến
sĩ
Robert
Thouless
nói:
"Trong
kinh
Sabbàvana
Đức
Phật
giảng
thuyết
y
như
một
vị
Bác
sĩ
ngành
tâm
lý
liệu
pháp
tân
thời...
(những
phương
pháp
của
Ngài)
là
một
hệ
thống
tâm
lý
liệu
pháp
vượt
bực
nhờ
nguyên
tắc
nhân
quả".
Giáo
sư
nói
tiếp:
"Khoa
học
tâm
lý
liệu
pháp
tân
thời
cho
bệnh
nhân
trong
đời
sống
hiện
tại.
Đức
Phật
cũng
xem
đó
là
một
khía
cạnh
của
vấn
đề,
nhưng
vì
đời
sống
hiện
tại
chỉ
là
một
trong
chuỗi
sanh
tư
luân
hồi...
nên
Ngài
không
những
đã
tìm
cách
giúp
cho
môn
đệ
thoát
khỏi
các
tâm
bệnh
trong
đời
sống
này
mà
còn
trong
cả
kiếp
sống
vị
lai".
Thật
vậy,
Đạo
Phật
không
phải
chỉ
nhằm
mục
đích
giải
quyết
những
phiền
não
và
khổ
đau
của
con
người
bằng
những
phương
pháp
tạm
bợ
có
hiệu
năng
trong
một
thời
gian
nào
đó;
mà
mục
đích
của
Đạo
Phật
là
giúp
con
người
giải
thoát
hoàn
toàn
ra
khỏi
mọi
nô
lệ
của
phiền
não
và
khổ
đau.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục