Trang
187.
Chúng
ta
đã
tìm
hiểu
các
nguồn
gốc
của
truyền
thống
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
ba
kinh
điển
tiêu
biểu
thuộc
thời
kỳ
thành
hình
các
văn
chương
kinh
điển
quan
trọng.
Chúng
ta
cũng
đã
khảo
cứu
sự
phát
triển
tư
tưởng
luận
bình
của
Bắc
truyền,
đã
tìm
hiểu
học
thuyết
chủ
nghĩa
lý
không,
đã
tìm
hiểu
sự
quan
trọng
chính
yếu
cái
tâm
của
Phật
thừa,
và
nhờ
vậy
biết
được
các
triết
lý
của
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức
học
như
thế
nào.
Cuối
cùng,
chúng
ta
đã
thảo
luận
sự
phát
triển
hợp
nhất
của
triết
lý
Ðại
thừa.
Sau
khi
làm
tất
cả
chuyện
này,
điều
quan
trọng
là
phải
dành
thời
gian
thực
hành
tu
tập
nó.
Bắc
truyền
Ðại
thừa
không
chỉ
là
nền
triết
học
và
tâm
lý
học
được
phát
triển
siêu
việt
và
sâu
xa,
mà
nó
còn
là
một
chiếc
xe
chuyên
chở
năng
động
cho
sự
hoàn
thành
Phật
tánh.
Mặc
dầu
việc
phát
triển
tôn
giáo
và
triết
học
có
thể
là
xương
sống
của
nó,
Phật
giáo
Bắc
truyền
vẫn
là
một
con
đường
rất
hấp
dẫn
và
tươi
sáng
cho
nhiều
người
thuộc
các
văn
hóa
khác
nhau
khắp
Á
châu
và
trong
một
số
vùng
của
Tây
phương. Người
ta
nói
rằng
Phật
giáo
Bắc
truyền
bắt
đầu
với
sự
đánh
thức
tư
tưởng
giác
ngộ
(tâm
bồ
đề,
bodichitta).
Ngay
việc
đánh
thức
này
cũng
có
một
số
điều
kiện
tiên
quyết
cần
phải
được
gieo
trồng
nếu
ta
muốn
khởi
bước
trên
đường
đi
đến
Phật
quả.
Xét
được
như
thế
thì
ta
sẽ
thấy
rõ
ràng
là
Bắc
truyền
Ðại
thừa
không
phải
là
con
đường
khác
với
hay
đứng
riêng
với
con
đường
Phật
thừa.
Thực
ra
nó
là
sự
đề
cao
con
đường
Phật
thừa. Một
trong
những
điều
tu
tập
đầu
tiên
là
vun
trồng
đức
tin
hay
tự
tin:
xin
gọi
chung
là
lòng
tin
tưởng.
Giống
như
một
hạt
giống,
lòng
tin
tưởng
có
trước
tất
cả
các
sự
vật.
Lòng
tin
tưởng
giống
như
một
gia
tài
bởi
vì
khi
cần
người
ta
có
thể
đến
với
nó;
nó
cũng
giống
như
đôi
tay
và
đôi
chân
bởi
vì
nó
là
một
phương
tiện
để
đạt
được
những
gì
ta
muốn.
Vì
thế
vun
trồng
lòng
tin
tưởng
là
sự
bắt
đầu
thực
tập
theo
con
đường
Bắc
truyền
Ðại
thừa.
Tại
sao
nói
lòng
tin
tưởng.
Tôi
chia
lòng
tin
tưởng
thành
3
cấp:
1.
lòng
tin
thuần
túy
(tín):
biết
giá
trị
rõ
ràng
phẩm
chất
của
Ðức
Phật,
Pháp
giới
và
Tăng
già;
2.
lòng
tin
có
nguyện
vọng
(nguyện):
sau
khi
biết
giá
trị
rõ
ràng
phẩm
chất
của
Tam
Bảo,
liền
có
nguyện
vọng
để
hoàn
thành
các
đức
tính
thiện
lành,
và
3.
lòng
tin
có
sự
tự
tin:
có
tín
-
nguyện
-
hạnh
vững
chắc,
lòng
tin
của
ta
dần
dần
trở
nên
không
bị
lay
chuyễn.
Qua
3
cấp
độ
của
lòng
tin
tưởng
trên,
ta
sẽ
phát
triển
các
tiến
bộ
và
kết
quả
đến
độ
không
thể
đảo
ngược
được. Trang
188.
Ðức
tin
đi
kèm
với
việc
tìm
sự
trú
ẩn,
nương
tựa,
qui
y.
Con
đường
đến
giác
ngộ
và
Phật
quả
là
con
đường
dài,
trên
đó
các
chướng
ngại
thì
nhiều
và
những
thiếu
sót
của
từng
người
thì
vô
số.
Vì
vậy,
thật
cần
thiết
là
phải
có
sự
hỗ
trợ
và
một
ảnh
hưởng
chắc
chắn,
đều
đặn.
Sự
giúp
đỡ
này
được
cung
cấp
bởi
việc
thực
tập
tìm
nơi
nương
tựa,
qui
y.
Muốn
vậy,
ta
cần
có
sự
hướng
dẫn,
một
con
đường
đạo,
một
cộng
đồng,
tất
cả
sẽ
đóng
góp
vào
tiến
bộ
của
chúng
ta
trên
con
đường
đó. Vun
trồng
lòng
tin
và
tìm
nơi
nương
tựa,
qui
y,
theo
sau
bởi
việc
quán
sát
sự
quí
giá
khi
được
thành
hình
dạng
người,
có
nghĩa
là,
những
trường
hợp
hiếm
quí
khi
sanh
ra
làm
người
(nhân
thân
nan
đắc)
và
cơ
hội
thực
hành
giáo
pháp
(phật
pháp
nan
văn).
Bồ
tát
Long
Thọ
đã
nói
rằng,
người
nào
dùng
chén
bằng
vàng
để
đựng
đồ
nôn
mửa
và
nước
dãi
thì
rõ
ràng
là
người
điên;
người
nào
dùng
cái
hình
hài
quí
giá
của
mình
để
hành
động
bất
thiện
cũng
điên
khùng
giống
như
vậy.
Nếu
chúng
ta
xét
đến
các
nguyên
nhân
của
việc
được
sanh
ra
làm
người,
sự
hiếm
quí
của
nó,
cái
khó
khăn
có
được
cơ
hội
để
có
thể
thực
hành
giáo
pháp,
thì
chắc
chắn,
sau
khi
bảo
đảm
được
các
điều
kiện
đó,
chúng
ta
phải
gấp
rút
mà
lo
tu
học
kẻo
không
kịp.
Ðể
giúp
ta
làm
được
như
thế
và
để
nắm
lấy
tất
cả
các
lối
tu
học,
vun
bón
cho
việc
đạt
được
Phật
quả,
hãy
quán
sát
sự
hiếm
quí
của
việc
làm
người
và
các
duyên
sinh
tạo
điều
kiện
cho
ta
thực
hành
giáo
pháp. Trang
189.
Thiền
quán
về
sự
chết
và
vô
thường
là
một
lối
tự
động
viên
để
tu
học;
nó
cũng
là
chìa
khóa
cho
sự
hiểu
biết
sự
thật
sau
cùng
(chơn
đế).
Vun
trồng
đức
(tự)
tin
và
trở
về
nương
tựa
hay
qui
y,
bổ
túc
cho
nhau
như
thế
nào,
thì
khi
quán
tưởng
sự
hiếm
quí
được
làm
người
và
thiền
định
về
sự
chết
về
vô
thường
cũng
bổ
sung
cho
nhau
như
thế
ấy. Các
đề
tài
quán
tưởng
này
được
theo
sau
bởi
sự
khảo
sát
tận
tường
về
‘khổ
đế’
của
chúng
sanh
trong
6
cõi,
lần
lượt
được
theo
sau
bởi
sự
quán
tưởng
về
luật
nhân
quả. Trang
189.
Khởi
đầu
tu
tập
có
nghĩa
là
chuyển
biến
thái
độ
của
mình
để
sẵn
sàng
theo
con
đường
Bắc
truyền.
Nó
có
hai
mặt:
1.
lòng
nhiệt
thành
để
đạt
được
mục
tiêu
thăng
hoa
tức
mục
tiêu
Phật
quả;
2.
tháo
gở
hay
từ
bỏ
tất
cả
sự
ràng
buộc,
chấp
thủ
các
sự
vật
cuộc
đời
này
và
vòng
luân
hồi
nói
chung.
Với
điểm
này,
Bình
Thiên
(tức
Thái
tử
Sàntideva,
người
vùng
Sri
Nagara,
Nam
Ấn,
con
vua
Surastra,
sống
vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
7)
nói
trong
quyển
Con
đường
Bồ
tát
(Bodhicharyavatara):
‘Ta
sẵn
sàng
đẩy
lui
sự
vướng
mắc
thế
gian
giống
như
một
người
tằng
hắng
rồi
nhỗ
nước
dãi
bỏ
đi
vậy’. Con
đường
Bắc
truyền
Ðại
thừa
chỉ
bắt
đầu
khi
sự
tháo
gỡ
khỏi
thế
gian
được
thực
hiện
với
sự
vững
tin.
Nếu
xem
Bắc
truyền
Ðại
thừa
có
tính
cách
trần
tục,
vật
chất
hơn
Nam
truyền
Tiểu
thừa
thì
đây
là
điều
sai
lầm.
Khi
sự
từ
bỏ
được
thực
hiện,
thế
là
ta
bắt
đầu
vào
con
đường
ấy
rồi.
Ðây
là
sự
đánh
thức
tư
tưởng
giác
ngộ
được
tất
cả
vị
thầy
Bắc
truyền
đồng
ngợi
khen.
Rồi
chúng
ta
sẽ
thấy,
sự
đánh
thức
được
tư
tưởng
giác
ngộ
(
hay
tâm
bồ
đề=
bodichitta)
cũng
là
sự
chấm
dứt
con
đường
Ðại
thừa. Tâm
bồ
đề
(tư
tưởng
giác
ngộ)
được
đánh
thức
qua
sự
vun
trồng
lòng
đại
từ
và
đại
bi.
Ðó
là
lòng
vị
tha,
muốn
tất
cả
giống
vật
hữu
tình
được
hạnh
phúc
và
không
còn
bị
đau
khổ.
Từ
và
bi
theo
sau
sự
hiểu
biết
tính
bình
đẳng
của
tất
cả
giống
hữu
tình.
Ý
thức
về
sự
bình
đẳng
của
chúng
sanh
là
sự
sống
đại
đồng
của
Bắc
truyền
Ðại
thừa
và
của
Phật
giáo
nói
chung.
Mỗi
một
sinh
vật
đều
đồng
nhau
trong
việc
muốn
hạnh
phúc
và
sợ
đau
khổ. Trang
190.
Sự
hiểu
biết
về
tính
bình
đẳng
của
tất
cả
các
sinh
vật
không
chỉ
là
điều
căn
bản
của
đạo
đức
Phật
giáo
mà
nó
cũng
là
căn
bản
của
đại
từ,
đại
bi
và
của
bồ
đề
tâm
(bodichitta).
Ðó
là
cái
quyết
tâm
đạt
được
Phật
quả
vì
lợi
ích
cho
tất
cả
sinh
vật.
Chúng
ta
vun
trồng
lòng
đại
từ
và
đại
bi
bằng
cách
quán
tưởng
đến
sự
bình
đẳng
của
tất
cả
giống
hữu
tình.
Chúng
ta
mở
rộng
lòng
từ
bi
này
bằng
cách
quán
sát
các
sự
liên
hệ,
nối
chúng
ta
với
tất
cả
mạng
sống
khác. Chúng
ta
nên
nhớ
rằng,
lúc
này
hay
lúc
khác
tất
cả
các
vật
hữu
hình
là
những
bà
mẹ
hiền
đối
với
chúng
ta.
Nếu
chúng
ta
nhớ
đến
tình
thương
của
hiền
mẫu
thì
chúng
ta
cũng
phải
nhớ
cái
nợ
với
người.
Sẽ
không
là
điều
đúng
khi
bạn
để
người
mẹ
của
bạn
tiếp
tục
đau
khổ.
Cũng
không
là
điều
đúng
khi
tất
cả
các
giống
hữu
tình,
lúc
này
hay
lúc
khác
là
những
người
mẹ
hiền,
lại
bị
tiếp
tục
đau
khổ
trong
luân
hồi.
Chính
với
ý
nghĩa
này
mà
cái
mong
muốn
cho
tất
cả
được
hạnh
phúc
và
không
còn
đau
khổ
là
cái
mong
muốn
đạt
được
Phật
quả:
mong
muốn
cho
tất
cả
chúng
sinh
được
hạnh
phúc
và
hết
đau
khổ,
ta
không
thể
nào
làm
gì
được
cho
họ
hơn
là
tự
tu
tập
đắc
quả. Không
ai
ngoài
một
đức
Phật
hoàn
toàn
giác
ngộ
có
thể
bảo
đảm
được
mục
tiêu
hạnh
phúc
vĩnh
cửu
và
không
còn
đau
khổ
cho
tất
cả
chúng
sinh.
Dù
chúng
ta
cố
gắng
bao
nhiêu,
có
lòng
đại
từ,
đại
bi
bao
nhiêu
nhưng
nếu
không
hoàn
thành
được
giác
ngộ
ba
la
mật,
chúng
ta
sẽ
không
thể
có
được
hạnh
phúc
chơn
thực.
Sự
nhận
ra
tính
bình
đẳng
của
tất
cả
sinh
vật;
nhận
ra
món
nợ
với
những
bà
mẹ
hiền,
lúc
này
hay
lúc
khác,
của
chúng
ta;
lòng
mong
muốn
tất
cả
được
hạnh
phúc
và
không
còn
đau
khổ;
nhận
ra
việc
chưa
có
khả
năng
ngay
bây
giờ
để
hoàn
thành
mục
tiêu--tất
cả
những
điều
này
dẫn
đến
việc
đánh
thức
tâm
bồ
đề
hay
tư
tưởng
giác
ngộ,
đó
là,
sự
quyết
tâm
đạt
được
Phật
quả
vì
tất
cả
chúng
sanh. Trang
191.
Chính
lúc
tỉnh
thức
giác
ngộ
(tâm
bồ
đề)
này
mà
nó
chuyển
biến
một
người
bất
hạnh
khốn
khổ
sống
trong
tù
ngục
thành
một
đệ
tử
của
Phật.
Tâm
bồ
đề
(bodichitta)
này
được
chia
thành
2
loại:
1.
tư
tưởng
giác
ngộ
qui
ước
hay
giả
lập
và
2.
ý
thức
giác
ngộ
vĩnh
cửu.
Tư
tưởng
giác
ngộ
giả
lập
là
sự
quyết
định
hay
quyết
tâm
đạt
Phật
quả
vì
ích
lợi
chúng
sinh.
Với
tư
tưởng
giác
ngộ
qui
ước
đó,
chúng
ta
vẫn
nhận
thức
được
các
đối
đãi
chủ
thể
-
đối
tượng,
luân
hồi
-
niết
bàn,
vô
minh
-
giác
ngộ.
Vì
lòng
quyết
tâm
đắc
quả
được
căn
cứ
vào
những
ý
niệm
đối
đãi
nên
nó
được
gọi
là
‘qui
ước,
giả
lập’.
Còn
ý
thức
giác
ngộ
vĩnh
cửu,
mà
ta
có
thể
gọi
là
‘tâm
Phật’,
là
một
tình
trạng
mà
các
đối
đãi
không
còn
ý
nghĩa
gì
cả. Chúng
ta
hãy
bàn
thêm
chút
nữa
về
tư
tưởng
giác
ngộ
giả
lập
và
các
phương
tiện
chuyển
biến
nó
thành
tâm
thức
giác
ngộ
vĩnh
cửu.
Tư
tưởng
giác
ngộ
giả
lập
hay
qui
ước
tự
chia
ra
thành
2
loại:
1.
tư
tưởng
giác
ngộ
ước
nguyện,
và
2.
tư
tưởng
giác
ngộ
thực
hiện.
Cái
trước
là
ước
nguyện
hoàn
thành
giác
ngộ,
vì
tất
cả
giống
hữu
tình,
tương
tự
với
quyết
định
viễn
du
qua
một
miền
khác.
Cái
sau
là
phần
thực
hiện
các
phương
tiện
hoàn
thành
Phật
quả,
tương
tự
với
việc
thực
hiện
hành
trình
cho
chuyến
viễn
du
đó. Tư
tưởng
giác
ngộ
thực
hiện
kéo
theo
việc
tu
tập
Lục
Ðộ:
Bố
thí,
Trì
giới
,
Nhẫn
nhục,
Tinh
tấn,
Thiền
định
và
Trí
tuệ.
Chính
việc
tu
tập
Lục
Ðộ
chuyển
biến
tư
tưởng
giác
ngộ
qui
ước,
giả
lập
(tiểu
ngộ)
thành
tâm
Phật
(đại
ngộ). Trang
192.
Ðiều
quan
trọng
là
phải
nhớ
vai
trò
đặc
biệt
của
Thiền
định
và
Trí
tuệ
trong
việc
tu
tập
Lục
Ðộ.
Các
Ðại
sư
Bắc
truyền
từ
Long
Thọ
ở
Ấn
độ
đến
Huệ
Năng
ở
Trung
hoa
đã
nhấn
mạnh
rằng,
Thiền
định
phải
có
Trí
tuệ
và
Trí
tuệ
là
phải
do
Thiền
định.
Ðiều
này
có
nghĩa
là,
đối
với
các
Phật
tử,
tâm
đã
định
mà
chưa
thấy
đúng
là
một
sự
chưa
hoàn
tất
rốt
ráo.
Chỉ
khi
nào
định
theo
sau
với
huệ
thì
định
ấy
mới
thực
sự
cho
ta
tâm
tự
tại.
Có
thể
nói
tâm
chưa
định
thì
chưa
có
trí
tuệ
bát
nhã. Trí
tuệ
là
ngôi
vương
của
Lục
Ðộ.
Chính
Trí
tuệ
Bát
Nhã
Ba
la
mật
(Trí
tuệ
Toàn
hảo),
tức
sự
hiểu
biết
và
chứng
đắc
‘tánh
không’
đã
chuyển
hoá
sự
tu
tập
bố
thí,
trì
giới,
nhẫn
nhục,
tinh
tấn,
thiền
định
thành
trí
tuệ
bát
nhã.
Chúng
giúp
ta
vượt
quá
giới
hạn
hiểu
biết
thế
gian.
Không
có
trí
tuệ
bát
nhã,
năm
chi
tu
tập
kia
sẽ
không
là
‘bát
nhã’.
Người
ta
đã
nói
rằng
trí
tuệ
bát
nhã
giống
như
việc
nung
bình
đất
sét:
nếu
không
nung,
cái
‘bình’
của
năm
chi
bát
nhã
kia
sẽ
dễ
vỡ.
Cũng
cùng
như
vậy,
nếu
một
Bồ
tát
không
tu
tập
trí
tuệ
bát
nhã,
vị
ấy
có
thể
dễ
dàng
bị
mất
tỉnh
giác.
Người
ta
cũng
so
sánh
cả
năm
chi
bát
nhã
kia
giống
như
người
mù,
không
bao
giờ
tự
mình
đến
đích
nếu
không
có
sự
giúp
đỡ
của
người
hướng
dẫn
thấy
đường
đi.
Cũng
như
vậy,
nếu
không
có
trí
tuệ
bát
nhã,
năm
chi
đã
tu
tập
kia
không
thể
nào
đạt
đến
mục
tiêu
Phật
quả. Tại
sao
vai
trò
trí
tuệ
bát
nhã
lại
đặc
biệt
trong
Lục
Ðộ?
Chính
với
ánh
sáng
của
trí
tuệ
bát
nhã
mà
ta
thấy
được
tánh
không
của
chủ
thể,
đối
tượng
và
hành
động
của
năm
chi
phần
bát
nhã
kia.
Ðây
là
‘tam
luân
thanh
tịnh’
(ba
vòng
nhẹ
sạch)
được
nói
đến
trong
kinh
điển
Ðại
thừa:
thanh
tịnh
(hay
lý
không)
của
chủ
thể,
đối
tượng
và
hành
động.
Chẳng
hạn,
trong
bố
thí
ba
la
mật
(bát
nhã),
chính
chủ
thể
của
trí
tuệ
bát
nhã
giúp
ta
hiểu
thấu
lý
không
của
người
cho,
lý
không
của
người
nhận
và
lý
không
của
món
quà. Trang
193.
Cũng
như
thế,
trong
trì
giới,
nhẫn
nhục,
tinh
tấn
và
thiền
định
bát
nhã,
chính
nhờ
sự
hiểu
biết
trí
tuệ
bát
nhã
mà
ta
thấu
rõ
được
lý
không
của
chủ
thể,
đối
tượng
và
hành
động.
Trong
mỗi
chi
tu
tập
cũng
vậy,
chính
sự
hiểu
biết
trí
tuệ
bát
nhã
giúp
ta
hoàn
thành
bố
thí
bát
nhã,
trì
giới
bát
nhã
v..v...Chính
trong
bối
cảnh
này
mà
chúng
ta
biết
được
giá
trị
độc
đáo
của
trí
tuệ
bát
nhã
ba
la
mật. Chúng
ta
đã
đạt
được
cái
quả
tâm
thức
giác
ngộ
vĩnh
cửu,
tức
tâm
ngộ
nhập
của
một
vị
Phật,
với
sự
hiểu
biết
rốt
ráo
của
tánh
không.
Ðến
đây
ta
có
thể
thắc
mắc
là
liệu
với
cái
tâm
Phật
đó
có
còn
chỗ
nào
để
cho
‘bi’
không,
với
ánh
sáng
ngộ
nhập
tánh
không
của
chủ
thể
của
bi,
đối
tượng
của
bi
và
hành
động
của
bi.
Câu
trả
lời
là,
ngay
điểm
này,
tâm
Phật
đương
nhiên
có
lòng
thương
xót
tự
phát
với
sự
đau
khổ
của
chúng
sinh. Chúng
ta
hãy
xem
thí
dụ
sau
đây
chứng
minh
sự
tương
hợp
của
trí
và
bi
trong
giai
đoạn
giác
ngộ
này.
Giả
thử
bạn
nằm
mơ
thấy
đang
bị
kẹt
trong
một
nhà
đang
bị
cháy:
bạn
bị
hiểm
nguy,
thống
khổ.
Giựt
mình
thức
dậy
bạn
mới
nhận
ra
rằng
cái
nguy
khổ
trong
giấc
mơ
là
không
có
thật.
Giả
thử
đêm
hôm
sau,
người
cùng
phòng
hay
vị
hôn
phối
của
bạn
giẫy
đập
trên
giường,
la
hoảng
‘nhà
cháy,
nhà
cháy’
hoặc
mớ
thảng
thốt
gì
đó.
Thế
thì
bạn
hiểu
ngay
là
cái
sợ
sệt
của
người
đó
là
vô
căn
cứ,
là
sợ
‘tiều’,
sợ
‘quảng’
và
bạn
cũng
biết
ngay
là
người
ấy
đang
đau
khổ
thực
sự
dù
trong
giấc
mơ.
Biết
cái
đau
khổ
đó
là
không
thực
nhưng
trí
của
bạn
tự
động
kèm
theo
lòng
bi
ngay
chỉ
vì
mong
muốn
cứu
khổ
người
kia. Trang
194.
Việc
nằm
mơ
(nhập
chung
thần
xác
mình
với
thế
giới
ảo
tưởng)
và
việc
la
hoảng
(tự
động
liên
kết
mình
với
đau
khổ
không
thật),
cho
ta
thấy
được
nguyên
tắc
‘Bốn
Bát
nhã
thứ
hai
của
Bậc
Giác
ngộ’
đó
là:
các
phương
tiện
kỷ
xảo,
giải
pháp,
năng
lực
và
giác
biết:
1.
các
phương
tiện
thiện
xảo
bát
nhã,
giúp
chư
Phật,
Bồ
tát
áp
dụng
vô
số
mưu
chước
kế
hoạch
hầu
giúp
chúng
sinh
giải
thoát;
2.
giải
pháp
bát
nhã,
giúp
Chư
Vị
ấy
hình
thành
các
hoạt
động
áp
dụng
đặc
biệt;
3.
năng
lực
bát
nhã,
giúp
Bậc
Giác
ngộ
làm
việc
một
cách
tự
phát
và
hiệu
quả
cho
tha
nhân
được
lợi
lạc;
và
4.
kiến
thức
bát
nhã,
cung
cấp
tất
cả
kiến
thức
về
nhân
duyên
và
thái
độ
của
chúng
sinh
cần
thiết
để
giúp
cho
sự
giải
thoát
của
họ. Bốn
bát
nhã
thứ
hai
có
thể
được
đặt
tên
là
bát
nhã
vị
tha.
Ðó
là
sự
hoàn
mãn
tự
động
và
tự
phát
của
Bậc
Giác
ngộ.
Tất
cả
các
hoạt
động
do
tâm
thức
giác
ngộ
được
diễn
đạt
qua
các
phương
tiện,
giải
pháp,
năng
lực
và
kiến
thức
là
phản
ảnh
tự
phát
của
giác
ngộ.
Người
ta
nói
rằng,
giống
như
cái
chuông
gió
tự
phát
đúng
và
chính
xác
các
âm
thanh
lớn
nhỏ
tùy
theo
luồng
gió
mạnh
nhẹ
thổi
vào
nó;
các
bậc
giác
ngộ
phản
ứng
tự
phát
đúng
và
chính
xác
tùy
theo
các
giai
đoạn
tiến
bộ
nghiệp
quả
của
chúng
sanh
với
việc
Chư
Vị
hoạt
động
tự
động,
không
cần
cố
gắng,
nhằm
vào
việc
giải
thoát
tất
cả. Phật
quả
là
giai
đoạn
kết
thúc
việc
tu
tập
sáu
bát
nhã
căn
bản
thứ
nhứt.
Kết
quả
tu
tập
Lục
độ
hoàn
thành
phước
đức
và
trí
huệ.
Bố
thí,
trì
giới
và
nhẫn
nhục
bát
nhã
tích
lũy
phước;
thiền
định,
trí
huệ
bát
nhã
tích
lũy
huệ.
Tinh
tấn
bát
nhã
cần
thiết
cho
cả
hai
trường
hợp
trên.
Phật
quả
có
hai
mặt:
1.
sắc
thân
(rupakaya,
form
dimension),
2.
pháp
thân
(dharmakaya,
truth
or
transcendental
dimension). Trang
195.
Sự
tích
lũy
của
phước
qua
việc
tu
tập
bố
thí,
trì
giới,
nhẫn
nhục
bát
nhã
được
biểu
lộ
trong
sắc
thân.
Sự
tích
lũy
của
huệ
qua
việc
tu
tập
thiền
định
và
trí
huệ
được
biểu
lộ
trong
pháp
thân.
Vì
thế,
khi
tu
tập
Lục
độ,
ta
có
thể
thấy
được
các
nguyên
nhân
hay
hạt
giống
của
việc
thành
một
vị
Phật.
Với
lối
tu
tập
này,
ta
cũng
có
thể
thấy
các
hạt
giống
của
sắc
thân
và
pháp
thân
của
các
chư
Phật.
Còn
việc
tu
tập
bốn
bát
nhã
phụ
thứ
hai,
chúng
ta
có
thể
thấy
các
hạt
giống
của
các
hoạt
động
của
chư
Bồ
tát
hướng
về
sự
giải
thoát
các
giống
vật
hữu
tình. Việc
chia
Phật
quả
thành
hai
mặt
sắc
thân
và
hoá
thân
cũng
đồng
dạng
với
việc
phân
loại
Phật
quả
thành
ba
mặt:
trần
thế,
thần
thánh
và
siêu
nhiên.
Sắc
thân
được
chia
ra
(i)
thành
phần
trần
thế,
và
(ii)
thành
phần
thần
thánh,
nhưng
pháp
thân
không
chia
được
gì
cả
vì
nó
không
thể
nhận
thấy
được,
không
thể
diễn
tả
được.
Pháp
thân
ở
trên
danh
và
sắc.
Còn
sắc
thân
thì
có
vô
số
danh
và
sắc.
Chúng
ta
có
thể
gọi
bộ
phận
trần
thế
là
hiện
kiếp
của
Phật
quả
bởi
vì
nó
có
thể
tiếp
xúc
được
đối
với
tất
cả
chúng
ta
vào
mọi
lúc,
bất
kể
mức
độ
phát
triển
tâm
linh
của
ta
đến
đâu.
Ngược
lại,
cái
kích
thước
thần
thánh
hay
tán
thán
chỉ
được
biểu
lộ
qua
đối
với
các
bậc
đạo
cao
đức
trọng. Ba
kích
thước
Phật
quả
này
liên
hợp
nhau
để
giúp
giải
thoát
các
giống
vật
hữu
tình
tùy
theo
căn
cơ
của
chúng.
Kích
thước
trần
thế
được
biểu
hiện
đặc
biệt
với
sự
xuất
hiện
của
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
theo
lịch
sử
ngày
nay,
với
sự
xuất
hiện
của
các
Chư
Vị
đã
giác
ngộ
(những
người
bạn
tâm
linh)
và
những
vật
vô
tri
vô
giác.
Kích
thước
thần
thánh
được
biểu
hiện
với
sự
xuất
hiện
của
các
chư
Phật
thần
thánh
từ
cõi
trời
xuống
như
Phật
A
Di
Ðà
và
Phật
Bất
Ðộng
(Phật
A
Súc),
các
vị
Bồ
Tát
Quán
Thế
Âm
và
Bồ
tát
Văn
Thù
Sư
Lợi. Trang
196.
Tính
chất
ba
chiều
này
của
Phật
quả
phản
ảnh
sự
hợp
nhất
về
luân
hồi
và
niết
bàn,
giác
ngộ
và
vô
minh,
cái
nhìn
thanh
tịnh
và
cái
nhìn
cấu
uế
về
vũ
trụ.
Nó
cũng
phản
ảnh
cái
tự
do
viên
mãn
của
một
vị
Phật.
Nó
phản
ảnh
cái
tự
do
ra
khỏi
vòng
sanh
và
tử,
tự
do
thực
hành
các
ảnh
hưởng
của
mình
với
vô
số
cách
không
nhận
ra
được
cho
sự
giải
thoát
các
giống
hữu
tình.
Ðây
là
cái
vĩ
đại
của
ý
niệm
Phật
quả
Bắc
truyền
Ðại
thừa
và
là
cái
vĩ
đại
của
mục
tiêu
con
đường
Bắc
truyền
Ðại
thừa.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002