Ai khi đã có thể thực hiện được tâm tĩnh lặng thì không còn bị
khuất phục bởi những tham luyến do tiếp xúc, sinh hoạt
thường ngày với thế gian. Tâm sẽ tự động xa rời những
tham luyến, quyến rũ của cuộc sống luân hồi, vì tâm an tịnh
là sự thể nghiệm niềm thỏa mãn và hoan lạc trong tâm
trí, siêu tuyệt hơn những hấp dẫn tầm thường của cảm thọ phiền
toáị. Khi tâm đã an tịnh thì
mới có thể được
hướng vào việc tập trung không xao lãng trong một thời gian thật
dài. Sự an tịnh trong tâm sẽ quét sạch các vọng tưởng, vì chúng
không thể khởi lên khi hành giả đang ở trong trạng thái quân bình
của Định Chỉ. Người nào đã đạt được tâm thanh tịnh cũng tự
nhiên có được tâm từ bi khi họ thấy chúng sinh đang vướng mắc
trong cảnh khốn khổ. Tâm từ bi chân chính sẽ khởi lên khi họ bắt
đầu nhận thức rõ cái tính Không nằm trong mọi mặt của thực
tại.
Sự tĩnh
lặng của tâm là sự chuẩn bị và cơ sở để tu đạt đến Tuệ
giác. Hai pháp thiền quán này bổ túc cho nhau. Sự thành công của việc phát triển
tuệ giác tùy thuộc và sự thành công mà hành giả có được khi
phát triển tâm an tịnh. Nếu bạn phát triển tâm thanh tịnh đến mức
nào đó, thì rồi bạn sẽ thể nghiệm được tuệ giác ở mức
độ giới hạn nhất định. Tuy nhiên nếu bạn phát triển toàn vẹn
tâm thanh tịnh, bạn sẽ có được tuệ giác tròn đầy. Do đó là
trường hợp thực hiện được sự giác ngộ hoàn hảo.
Bây giờ
để thành đạt tâm tĩnh lặng, khởi đầu bạn nên tu tập ở chỗ
vắng vẻ, dễ chịu. Điều quan trọng là bạn cảm thấy thoải mái và
hài lòng với chỗ bạn chọn để thiền quán. Ngồi với tư thế
thẳng trên chiếc gối dễ chịu. Tư thế có bảy ưu điểm của Phật
Đại Nhật là lý tưởng. Ngoài ra, phải chắc là ngồi giữ sao cho
xương sống thẳng. Nếu bạn ngồi tréo chân thì theo tư thế hoa sen
(kiết già), hay nếu bạn không thể ngồi như vậy thì bạn có
thể tréo chân lại, và nâng mông lên để cho lưng thẳng. Bằng
không, bạn có thể ngồi thẳng lưng trên ghế. Giữ xương sống
thẳng, bạn nên cúi đầu xuống một chút, cho càm hơi đưa vào để
mắt có thể nhìn xuống chóp mũị Đặt đầu lưỡi hơi tự nhiên
chạm lên nóc giọng để cho miệng đừng ngậm lại chặt quá hoặc
há mở. Bàn tay và cánh tay để xuôi hai bên. Nếu bạn ngồi theo tư
thế kiết già thì hai bàn tay đặt vào lòng. Còn nếu ngồi trên ghế
thì có thể để tay xuôi tự nhiên. Để cho khẩu được tịnh, đừng
nói chuyện, làm ra tiếng ồn, chỉ thở tự nhiên. Chỉ giữ cho yên
lặng và tự nhiên, ngoài ra không phải làm gì khác.
Tư thế của tâm là tránh hồi tưởng chuyện quá khứ, dự đoán chuyện tương lai, và suy tư hay kiểm soát lúc hiện tại. Chỉ cho phép bạn được tự nhiên và thoải mái. Bất cứ điều gì khởi lên thì cứ cho phép chúng là như vậy, đừng thay đổi hay điều chỉnh.
" Cho phép tâm bạn trong trạng thái tự nhiên" là điều nói
dễ hơn làm. Lý do chánh là bởi vì từ vô lượng kiếp bạn đã
tạo lập nên những bản năng thành thói quen, những ấn tượng tinh
thần làm tâm bạn luôn chao động và chứa đầy vô số thứ
phát sinh ra khái niệm. Để được an tịnh bạn phải dùng đến phương
pháp. Đây không có nghĩa là bạn nên thử kiểm soát tâm bằng
cách hồi tưởng, dự đoán, hay thay đổi kinh nghiệm. Nhưng khi bắt
đầu, bạn nên thử đặt tâm lên một vật (đề mục) để tâm có
thể tập trung và chìm lắng xuống. Dùng đề mục để đặt tâm tương
ứng với ba thân (tam thân). Bước thứ nhất là phương pháp Ứng
Thân, thực hiện bằng cách dùng ảnh tượng của đức Thích Ca Mâu
Ni hiện ra như ứng thân của Phật. Ấn tượng của Phật Thích Ca
được đặt ngay trước mặt bạn để bạn có thể nhìn chăm chú
một
cách tự nhiên. Bước thứ hai là phương pháp Báo Thân, thực
hiện bằng cách dùng ảnh tượng của Phật Đại Nhật hiện ra như
Báo thân Phật. Bước thứ ba, là phương pháp Pháp Thân,
được thực hiện bằng cách quán tưởng hình ảnh Phật Đại Nhật
ở giữa trái tim. Một khi tâm được tĩnh lặng nhờ ba phương pháp
này, bạn sẵn sàng tập cách an tịnh tâm mà không cần cách thiết
kế nào hết. Nếu bạn không có bất cứ ảnh tượng nào của Phật,
bạn cũng có thể tiến hành thực tập. Bạn có thể dùng hòn đá,
cây gậy, cánh hoa, hay vật tự nhiên nào tìm thấy ở gần quanh bạn
mà không phải tốn gì cả. Chỉ đơn giản thực tập thiền định với
cái vật đó đang ở ngay trước mặt cũng y hệt như bạn tập với
ảnh tượng. Điều lý tưởng là khi vật đó rộng chừng bốn
ngón tay khép lạị Tâm nên tập trung chuyên nhất trên vật đó,
không để cho bị xao lãng. Trong khi nhìn chăm chú và tâm tập
trung lên ảnh tượng hay cái vật đó, bạn nên ý thức được tâm
trí bạn đang làm gì. Không nên cố gắng làm nẩy sinh những hình
ảnh sẽ có trong giai đoạn quán tưởng. Bạn chỉ đơn thuần nhìn
lên ảnh tượng với tâm tập trung chuyên nhất, và không làm gì
khác.
Thanh tịnh là
bước kế tiếp trong kinh nghiệm duy trì tình trạng định trong một thời gian
dài vô hạn. Bây giờ có sự sáng tỏ rất mực . Mặc dầu tâm yên lặng, nó rất
trong sáng. Hành giả nhớ lại được trọn vẹn các kinh nghiệm trong lúc
thiền quán, và kinh nghiệm sau buổi thiền. Trong giai đoạn đầu của sự
tĩnh lặng bất tịnh, bát thức bị ngăn ngại trong lúc thiền quán. Khi hành
giả trải qua kinh nghiệm của tĩnh lặng bất tịnh , sự trong sáng của tâm
không bị ngăn ngại vì cảm nhận bằng giác quan hoạt động bình thường, tuy
là tâm không bao giờ dao động ra ngoài trạng thái Định. Trong khi thiền
quán, bạn có tùy ý ở trong trạng thái Định bất cứ lúc nào, bằng bất cứ
cách nào. Khi chấm dứt buổi thiền chánh thức cũng không chấm dứt sự tĩnh
lặng bởi vì sức mạnh của trạng thái tỉnh giác sẽ thấm nhập vào kinh nghiệm
sau buổi thiền định để đi vào sinh hoạt của đời sống hàng ngày. Cần phải
mất bao lâu mới đạt tới tâm thanh tịnh? Kinh nghiệm này đến được do kết
quả của cố gắng rất lớn trong việc tu tập . Đây không phải là kết quả đến
nhanh chóng, và dễ dàng.
Lợi ích khác
của sự thành tựu này là niềm vui tràn ngập thân tâm; và vì không còn sự
xao lãng của tâm, việc tu tập này có thể kéo dài rất lâu. Ngay bây giờ khi
bạn thực tập, cả thân tâm đều dễ bị mỏi mệt; và khi mà bạn cảm thấy không
thoải mái, dễ chịu, bạn quay qua chuyện gì khác để tránh có kinh nghiệm
khó chịu. Khi đã đạt tới mức thanh tịnh, thân và tâm luôn luôn được thoải
mái. Tuy nhiên, nếu tâm tham luyến vào kinh nghiệm hỷ lạc của thân tâm nó
sẽ tạo ra nhân để tái sinh vào cõi dục (cõi trời dục), đưa bạn trở lại
vòng luân hồị Cho nên không bao giờ mê luyến vào bất cứ kinh nghiệm nào.
Nói chung, bạn nên giữ nhớ trong lòng là khi việc tu tập thiền quán bắt
đầu đi vào tầng sâu, sẽ có ba kinh nghiệm xảy ra. Thứ nhất, là hỷ lạc, thứ
hai là sự sáng tỏ, và thứ ba là kinh nghiệm về vô niệm. Khi bạn có được
những kinh nghiệm này, nếu bạn cho phép mình tham luyến kinh nghiệm và
nghĩ là bạn đã đạt được kết quả cuối cùng, thì bạn sẽ tạo ra nhân để sanh
lại trong cõi luân hồi nữa. Đừng lầm lẫn những kinh nghiệm đó với kết quả
cứu cánh của giác ngộ. Nếu bạn tham luyến hỷ lạc, bạn sẽ tạo ra nhân tái
sinh vào cõi dục (dục giới thiên), nếu bạn mê luyến vào sự minh chiếu,
sáng tỏ thì nó sẽ tạo nhân để tái sinh vào cõi sắc . Tham luyến vào vô
niệm sẽ tạo nhân để tái sinh vào cõi trời vô sắc. Ba cõi này (dục, sắc, và
vô sắc) của cuộc luân hồi là lục đạo mà chúng sinh xoay chuyển. Bằng pháp
thiền quán, bạn thật sự có thể tạo ra nhân để tái sinh vào ba cõi đó,
nếu bạn không cẩn thận. Đây là sự giải thích ngắn gọn về các thực tập để
đạt được sự tĩnh lặng, nó cũng bao gồm lời khuyên phải có ý thức về những
điều gì khi tu tập. Nếu bạn có thể thực tập thành công, bạn sẽ đạt được
sự tĩnh lặng trong một thời gian dài và thiền quán với tâm sáng tỏ, như
thế chuẩn bị bạn vào giai đoạn thứ hai, thực tập chủ yếu để sinh khởi tuệ
giác.
Lời chỉ dạy và
cách thực tập về sự phát sinh trí tuệ ban sơ có hai phương cách. Thứ nhất
là phương cách tìm học kinh điển để hiểu biết chắc chắn về bản tánh không
của tâm. Ở đây, Không được nhận thức rõ qua sự tìm hiểu phân tích, cuối
cùng minh chứng được Không là bản chất của hiện hữu. Quan điểm về Không
này được dựa trên sự hiểu biết bằng trí tuệ (tri thức). Phương cách thứ
hai là biết rõ về Không tánh bằng cách đi sâu vào thiền định. Quan điểm về
Không này được dựa trên sự thực chứng bên trong. Nếu ai có thể thực chứng
Không tánh theo cách thứ hai, thì phương cách thứ nhất không còn cần
thiết. Nếu bạn muốn theo đuổi học hiểu kinh điển rồi áp dụng việc thực tập
quán tưởng, thì đó là cách tốt nhất và là cách mà nhiều nhà tu hành lớn đã
đi theọ Tuy nhiên, vào giai đoạn này của đời sống, bạn nên thấy là bạn
không còn nhiều năm nữa để tu tập, vì không biết cái chết sẽ đến lúc nào.
Hơn nữa, với cuộc sống bận rộn như thế, cơ hội để tập thiền quán rất ít.
Vì vậy có thể là tốt hơn nên thực tập để có kết quả nhanh hơn. Thời bây
giờ dường như mọi người đều muốn có được kỹ thuật nhấn nút để làm việc cho
nhanh, đem lại kết quả ngay tức khắc. Mọi người tự nhiên muốn có kết quả
nhanh nhất. Nếu bạn nghĩ là bạn có thể tìm được kinh nghiệm nhấn nút trên
đường học đạo, thì bạn nên thực tập quán tưởng, đừng chỉ có nghe giảng
dạy, đừng chỉ nghĩ về chuyện thực hành sau này, nhưng hãy ngồi xuống và
thực tập thật sự. Thường khi người ta chỉ nghe pháp, thỉnh thoảng nghĩ về
pháp, và không thực tập. Làm sao có kết quả nếu không thực hành ?
Chính là qua
việc thể nghiệm tuệ giác mà Trí Tuệ ban sơ của tâm được thực hiện bằng
hành động. Có bốn giai đoạn cho sự phát triển này. Thứ nhất là có tín tâm
về tri kiến đó. Thứ hai là thực nghiệm việc thiền quán. Thiền quán phải
được thực nghiệm; nó không thể chỉ là sự tìm hiểu bằng tri thức. Bằng
không, nó sẽ giống như một mảnh giấy đặt lên cái lỗ để giúp che đậy. Một
lúc nào đó, mảnh giấy sẽ rớt ra. Sự hiểu biết bằng tri thức là vô thường
và sẽ phải thay đổị Sự thực hiện đạt được qua thiền quán là thường hằng.
Giai đoạn thứ ba là giữ sự liên tục trong các sinh hoạt của đời sống hằng
ngày. Giai đoạn thứ tư là thực hiện được cái kết quả rốt ráo.
Trước hết,
thực hiện tín tâm về tri kiến có ba phần. Đầu tiên là lập dựng bản chất
của những vật thể được nhận biết là ở bên ngoài tâm (cái được biết). Thứ
hai là xây dựng ý thức về bản chất của tâm là khả năng nhận biết bên trong
(cái biết). Thứ ba là hiểu biết vững chắc tri kiến vềbản chất của thực
tại. Phần đầu tiên lập dựng bản chất của các vật thể được nhận biết thuộc
ngoại giới liên hệ đến cái ý thức về việc tâm đã nắm giữ như thế nào những
ngoại vật đó và coi chúng như thực sự hiện hữu. Điều này muốn nói về các
pháp hiển hiện khách quan được nhận thức là ở bên ngoài cái ngã. Tất cả sự
hiển lộ đó được cái tâm chủ thể nắm bắt như là có thật. Do đó, nhiều học
giả đã chia cắt vật thể khách quan thành những hạt nguyên tử rất nhỏ, rồi
thành cái không còn gì hết, như vậy để đi tới chỗ hiểu biết bản chất của
vật thể là không có hiện hữu thật sự. Theo cái hệ thống nhận thức đó,
những hiện tượng khách quan khởi lên trong tâm, và hiện hữu trong tâm của
người nhận biết. Mặc dù bạn nghĩ những hiển hiện khách quan là có
thật, cái thế giới vô tri giác và hữu tình sẽ không hiện hữu, nếu như nó
không hiện hữu cho cái tâm. Khi không nhận biết được bản chất của tâm và
cho phép tâm cứ nằm mãi trong những cảm nhận hư ảo, bạn sẽ thật sự tin
những hiển hiện khách quan là có thật như chúng được cảm nhận. Rồi sau đó
sẽ rất khó khăn để chấp nhận những hiển hiện khách quan là không thật,
không vốn có, mà đều do tâm tạo ra.
Vấn đề đầu
tiên là tâm của bạn đang trong kinh nghiệm về những cảm nhận hư ảo. Kế đó
là chân lý về vô thường, là không có gì mà cái tâm cảm nhận được, kể cả
chính nó, là thường hằng và đáng coi như là chân, là có thật. Vì mọi vật
đều đổi thay, đều này được hiểu là không có sự hiện hữu vốn có thật, vì
bản chất của mọi hiện tượng là vô thường. Giấc mơ bạn có tối hôm qua không
còn là thật cho ngày hôm nay.Vào lúc bạn nằm mơ, nó dường như là rất thật,
có thật. Bây giờ nó ở đâu? Đã xảy ra điều gì? Tất cả các vật hiển hiện
khách quan đều không có gì khác hơn là những nhãn hiệu của tâm trí. Bạn có
thể nói :" Đây là cái bàn. Đây là cái nhà." Mỗi vật có cái tên vì nó hiện
ra với bạn là cái vật đó. Do đó bạn có một nhãn hiệu dành cho nó. Thật ra,
bản chất của nó là hư ảo, và nó không thực sự hiện hữu gì khác hơn là
những trò hư ảo của nhà ảo thuật. Do đó, bạn phải tin vào thức giác của
trí tuệ về bản chất hư ảo của mọi vật hiển hiện .Qua đó bạn có thể lập nên
bản chất của vật thể được nhận biết ở bên ngoài tâm. Điều này dẫn bạn đến
bước thứ hai trong việc thực tập để phát sinh tuệ giác , nó đang xây dựng
bản chất của tâm như là chủ thể nhận biết ở bên trong. Kẻ sáng tạo ra vật
thể khách quan là chủ thể, là chính cái tâm. Nếu bạn thử đi tìm chỗ ở của
tâm, bạn có thể định được vị trí của nó không ? Bạn có thể xác định được
những đặc tính của tâm không ? Phải là nó có thực chất và sờ mó được
không? Theo nhiều trường phái trong tư tưởng Phật giáo, có vô số
phương thức có thể được dùng vào sự phát hiện nguồn gốc của tâm để xác
định là nó có hiện hữu hay không.
Để làm theo cách thực tập chánh
thức, trước hết bạn nên ngồi theo tư thế tham thiền đúng đắn. Hãy làm cho
ngôn ngữ im lặng và thở tự nhiên. Đừng ép bắt tâm phải quá căng thẳng hay
quá trì trệ; chỉ giữ sự thư giãn trong chính tính giác tinh tuyền của bạn.
Đôi khi lúc bạn ngồi, có thể xảy ra cho bạn hai diễn tiến: là cái nhận
biết của tâm và cái nhận biết của người nhận biết. Nếu bạn lưu ý đến điều
này, thì bạn hãy để cho người nhận biết nhìn vào cái tâm đang nhận biết,
giống như một người đang quan sát mặt mũi thật của mình mà ở giữa hai bên
không có gì khác ngăn cách . Khi bạn có ý thức được bằng cách như vậy, bạn
sẽ bắt đầu nhận thức người nhận biết và tâm đang nhận biết là không phải
hai (bất nhị). Kế đó, bạn sẽ nhận thức là vật thể được nhận biết bởi người
nhận biết và tâm đang nhận biết là không thể phân cách, có cùng một kinh
nghiệm. Do đó, bạn đi đến chỗ nhận thấy đối tượng (vật thể) và chủ thể,
sự nắm giữ và bám chắc, không còn là nhị nguyện nữa. Đó là một kinh
nghiệm, thuộc bản chất của tâm, thoát khỏi những giới hạn của hoạt động
suy tưởng của tâm. Cái gì xảy ra lúc đó khi không còn có chủ thể và đối
tượng ? Kế đó bạn có được điều gì? Tất cả bạn đạt được là kinh nghiệm về
Phật tính hằng có của bạn. Trong giai đoạn khởi đầu của việc thực tập, bạn
sẽ có kinh nghiệm về trạng thái không còn nhị nguyên trong một khoảnh khắc
ngắn. Vào lúc thứ hai, sự nắm giữ và bám chắc nhị nguyên sẽ khởi sự. Bây
giờ có nhiều người bỏ ra một thời gian đáng kể ngồi lặng yên thiền quán.
Nếu bạn biết cách thực tập làm phát sinh hay hoàn thiện giai đoạn này, và
thật sự lập dựng được cái tri kiến với tự tin để có thể biết rõ tánh
Không, thì việc tĩnh toạ trong một thời gian kéo dài có thể soi sáng được
rất nhiềụ Tuy nhiên, nếu bạn không được huấn luyện hay không có kinh
nghiệm, và chỉ ngồi đó im lặng với những vọng tưởng khuấy phá và các niệm
làm tâm xao lãng nổi lên, thì đó chỉ là một việc làm tốn mất thì giờ.
Trong lúc kinh
nghiệm tính bất nhị, hãy cho phép bạn duy trì sự tươi mới của kinh nghiệm
, đừng có toan tính thay đổi nào. Một hành giả với sự thông minh vượt bậc
sẽ có thể duy trì kinh nghiệm này về sự tỉnh giác chân chính trong một
thời gian vô hạn. Lúc bắt đầu, rất khó mà giữ được lâu.Tuy nhiên, kinh
nghiệm này cũng giống với kinh nghiệm mà bạn có giữa hai cái niệm. Khi
niệm đầu tiên vừa chấm dứt và trước khi niệm thứ hai bắt đầu, cái tươi mới
ở khoảng giữa đó cũng giống với kinh nghiệm về tính giác chân chính. Lý do
mà bây giờ bạn không có ý thức về nó là bởi vì bạn có quá nhiều niệm khởi
lên nhanh quá đến nỗi cái khoảnh khắc nằm ở giữa các niệm không được nhận
thấy. Có thể bạn sẽ nghĩ cái khoảnh khắc nằm ở giữa các niệm là tình
trạng trì trệ, tương tợ với kinh nghiệm về sự tĩnh lặng bất tịnh. Trong
kinh nghiệm về khoảnh khắc giữa các niệm, tất cả bát thức (gồm năm thức
của ngũ quan, ý thứ c, mạt na và a lại da thức) đều hoạt động bình thường.
Cái tâm trở nên sáng tỏ, và có khả năng nhận biết mọi sự việc, tuy nhiên
hoàn toàn thoát khỏi tính nhị nguyên bởi vì không có sự taọ thành ra niệm
hay hoạt động phát sinh ra vọng tưởng. Nếu bạn hiểu được điều này, có
nghĩa là bạn có được cái nhìn thoáng qua kinh nghiệm tổng quát về tính
giác chân chính.
Tại sao lúc
đó, là con người bình thường bạn lại gặp khó khăn khi nhận thức kinh
nghiệm tổng quát về cái trí tuệ ban sơ ? Đây chủ yếu là do thói quen mạnh
mẽ về (suy tưởng) nhị nguyên và những vọng niệm tản mạn. Do điều đó mà
thỉnh thoảng bạn lại bị đánh bại bởi khả năng tạo thành khái niệm của
chính bạn. Thêm vào đó, trong quá khứ bạn đã nghe những lời giảng dạy về
bản tánh của tâm, nhưng không chịu thực tập. Vậy thì, bạn có thể dùng
phương pháp nào khi bạn bị chính cái tâm của mình làm cho phân tâm đến như
thế? Phương pháp phải dùng là cố gắng tìm kiếm nguồn gốc của tâm, là kẻ
sáng tạo ra các vọng niệm , là gốc rễ gây ra các vấn đề phiền phức cho
bạn.
Bạn đã có thể
quen thuộc với sự kiện là khái niệm khởi lên từ tâm. Bây giờ bạn phải tìm
coi tâm bắt đầu từ đâu, nó hiện hữu chỗ nào, và cuối cùng nó chấm dứt nơi
đâu. Tương tự như vậy, bạn thử tìm hiểu nơi mà các vọng niệm nổi lên, nơi
nó hiện hữu, và nơi nó chấm dứt. Kinh nghiệm về giác ngộ bắt đầu, hiện
hữu, và chấm dứt nơi đâu? Còn đâu là chỗ khởi nguyên, tồn tại, và chấm dứt
của kinh nghiệm thế gian? Ai kinh nghiệm về an lạc và đau khổ? Nếu bạn đi
đến kết luận là chính cái tâm kinh nghiệm về giác ngộ và thế gian, thì từ
đâu mà cái tâm bắt đầu, hiện hữu và chấm dứt? Tâm có thể sờ chạm được hay
không? Nó không có hình sắc? Nếu bạn xác định là tâm có hình sắc, thì nó
có hình dạng, màu sắc như thế nào? Nếu nó có thể sờ chạm được, nó phải có
vài đặc tính. Nếu bạn nghĩ nó không có thực chất, thực thể nào, thì bạn
thử xem cái kinh nghiệm đó là gì. Điều cốt yếu là phải có một đạo sư đã
nhận thức được bản tánh của tâm để có thể giúp hướng dẫn bạn một cách
đúng đắn đi qua cái kinh nghiệm này.
Một đạo sư có
đủ phẩm cách ở mức tu tập này là người đã hiểu biết rõ bản chất của tâm.
Tại Tây Tạng có nhiều trường hợp mà các đệ tử bị những ông thầy không có
thực chứng dẫn đi lạc đường. Ở mức tu tập này, có nhiều nguy hiểm và cạm
bẫy. Nếu, bằng tiến trình xem xét, bạn hoàn toàn không thể tìm thấy tâm và
thay vào đó, cái điều mà bạn tìm thấy chỉ như một khối cầu không gian, mở
rộng, giống như khi nhìn vào một khoảng không gian trống, rộng lớn, thì
tuy bạn không thể diễn tả được nó, bạn đã đi đúng đường. Tuy nhiên, kinh
nghiệm về cái không này không phải là phủ định mọi thứ, để rơi vào chỗ cực
đoan của chủ nghĩa hư vô, tin là không có gì hết. Nó chính là kinh nghiệm
rất mở rộng; và bên trong chỗ khai mở đó, có rất nhiều khả năng. Điều quan
trọng nữa là phải rất cẩn thận về mức thâm sâu của lời giảng dạy nàỵ Nếu
bạn hiểu nó hời hợt theo ngôn từ, không có kinh nghiệm quán chiếu nào, thì
bạn có nguy cơ bị lầm lẫn về thực tại, và trở nên mất trí khôn. Đó là tại
sao thật quan trọng khi nhận lời giảng dạy dưới sự chỉ bảo của một ông
thầy có phẩm cách theo như truyền thống. Qua truyền thống này, sự giác ngộ
được thực hiện trong thân và trong một đời người, bởi vì lời dạy này có
sức mạnh đặt hành giả vào tình trạng giải thoát, nơi mãi mãi không còn có
dấu vết của nhận thức sai lầm . Biết được bản tánh của tâm là điểm cốt
lõi trên suốt con đường hành đạo; tuy nhiên, cũng có thể là rất nguy hiểm
nếu bạn không tiếp cận nó một cách cẩn thận và đúng đắn. Bước thứ ba là có
được vững vàng cái nhìn đúng về bản chất thực tại. Để nhận thức về bản
chất này, bạn không cần tìm kiếm nơi nào khác hơn là bên trong của bạn.
Cái bản chất này là tinh yếu của tâm và là kinh nghiệm tự khởi sinh. Nhận
thức này là tâm bao trùm khắp cả mọi thứ tạo nên cõi ta bà và niết bàn.Tâm
của tất cả Phật, của chính bản tánh vốn có của bạn, thoát khỏi tính nhị
nguyên, chiếu sáng, từ bi vô ngại. Sau khi bạn có tự tín ở tri kiến, thì
bạn có thể đạt được kinh nghiệm thiền quán khi đi sâu vào tri kiến. Giữ
đừng nghĩ đến quá khứ, hiện tại và tương lai, giữ thăng bằng trong trạng
thái giác tỉnh tươi mới, không trung gian (trực giác), cũng được gọi là
thiền quán. Cái kinh nghiệm mở khai, sáng tỏ, là bản tánh tự khởi sinh của
tâm, không cần được tìm kiếm như một kinh nghiệm thiền quán riêng biệt.
Bạn không nên coi là bạn đang thử tạo ra một kinh nghiệm giả tạo. Chỉ
nhận thức và cứ trực tiếp đi vào bản tánh tâm của chính bạn. Đây là ý
nghĩa của pháp thân (biểu hiện thực tại sau cùng). Hơn nữa, trong kinh
nghiệm về pháp thân, cảm thọ từ giác quan vẫn có và chỉ được quan sát vô
tư, không có sự nắm bắt hay vướng mắc (chấp thủ) nhị nguyên . Sự khai mở
này sáng chiếu và bao trùm mọi vật, không gây đau khổ vì không có tính nhị
nguyên. Nó không thể tạo ra lợi ích , và không thể tác hại. Nó vượt qua
lãnh vực của lợi và hại, chấp nhận hay bác bỏ. Bạn không còn cần phải nghĩ
:"Ổ, tôi không thể làm điều đó; tôi không phải làm điều đó". Bước thứ ba
là duy trì sự liên tục khi hành xử chuyện bình thường. Thái độ xử xự
phải giống như lúc thiền quán, và thiền quán phải giống như tri kiến.
Thường bạn xem hành xử là kinh nghiệm có sau khi thiền quán, xảy ra sau
buổi toạ thiền. Để duy trì sự liên tục hành xử, phải tổng hợp tri kiến,
thiền quán, và hành xử thành một không thể phân chia. Vì sự quân bình
trong thiền quán chỉ là duy trì trong tính giác khai mở, không trung gian,
không bị sự chấp thủ làm ô nhiễm, hoàn toàn sáng tỏ và thư giãn, khi bạn
từ kinh nghiệm này đi lên, bạn nên nhận thức là mọi hiển hiện và kinh hiệm
đều giống như sự phô bày hão huyền của tính giác bên trong. Tất cả sắc
tướng đều mang vẻ thiêng liêng. Bạn có thể nghe bản chất của mọi âm thanh
là âm thanh của lời chú man tra. Mọi niệm đều được hiểu là trò chơi của
tánh giác thanh tịnh. Bạn cũng có thể xem những hiển hiện trong đời sống
hằng ngày như là mộng, ảo giác, không có tự tánh chân thật. Ở mức tu tập
này không còn có sự phân biệt giữa thiền quán và cách hành xử. Kinh nghiệm
thiền quán được đưa vào thể cách mà hành giả cảm nhận những hiển hiện của
đời sống hằng ngày, và vào cách hành xử lúc bình thường. Điều này có nghĩa
là những vọng niệm được dùng để làm hiển lộ con đường hành đạo hơn là làm
ngăn trở nó. Khi sự chấp thủ chấm dứt, niệm sẽ khởi lên như một ảo giác để
tô điểm cho con đường hành đạo. Nếu, bạn có thể còn nghĩ là vọng niệm làm
hại bạn, đem lại đau khổ hay vấn đề khó khăn, bạn chỉ cần đi vào vọng niệm
và nhận ra bản chất vọng niệm là trống không , thì nó sẽ tan mất. Nếu bạn
theo đuổi niệm, và như vậy cho phép nó kiểm soát tâm, thì bạn sẽ mất tri
kiến (cái thấy về con đường đạo). Bằng không, nếu bạn chú tâm vào niệm,
bạn sẽ thấy bản chất nó là không, và nó sẽ tan mất, giống như ngọn sóng
nổi lên trên mặt biển, rồi biến mất vào trong biển. Không có gì sai quấy
với một vọng niệm khởi lên, khi bạn nhận thức là nó khởi lên từ tánh
giác thanh tịnh, và tan vào tánh giác. Khi bạn có thể nhận ra những vọng
niệm là không có gì khác hơn sự phô bày của chính tánh giác, trống không
và không có thực thể, bạn sẽ để vọng niệm đi và nhìn chúng tan vào lại
cái nguồn trống không của chúng. Tóm lại, bạn phải cẩn thận, trong khi
thực tập về hành xử như hành đạo, đừng để bị sự xao lãng quấy phá và bị
thói quen chấp thủ khuất phục. Là hành giả, bạn nên thực tập như một dòng
sông trôi chảy, đều đặn, không ngừng.
Bước thứ tư và
là bước cuối là cách đạt được thành quả sau cùng. Đạt đạo là nhận ra bản
thể của tánh giác ban sơ, thanh tịnh, vốn có của mình, thoát khỏi mọi
phiền toái, lầm lẫn. Kinh nghiệm này vốn là kết quả của tri kiến, thiền
quán, và hành xử, là kinh nghiệm của giác ngộ, hay là giải thoát cứu cánh
vượt ra khỏi vòng luân hồi hỗn mang. Nếu sự tu tập của bạn kiên mãnh, thì
ngay cả trước khi chết, bạn nhận ra được bản tánh của tâm, và thể hiện nó
qua thực hành bốn bước kể trên, bạn sẽ được giải thoát. Bằng không, giải
thoát sẽ đến vào lúc bạn chết, hay trong trạng thái bardo. Nhờ ở phúc lạc
khi hoàn thành việc tu tập này, chắc chắn là sự giải thoát sẽ đến vào một
trong những thời điểm trên. Điều đòi hỏi bắt buộc là phải có lòng tin
mạnh mẽ vào vị thầy chủ yếu của mình, vị thầy dẫn đưa bạn vào bản tánh
của tâm, để bạn nhận ra được bản tánh của chính mình. Đây là những lời
giảng dạy cốt yếu để thành công trong việc tu tập này. Mục tiêu tối hậu
của tĩnh lặng, trí tuệ, Đại Thủ ấn, mahasandhi, cũng không khác gì điều
đó.
---o0o---
Nguồn: www.quangduc.com