Chứng ngộ quả vị Phật là chứng
ngộ Niết-bàn.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa của Niết-bàn.
Qua các định nghĩa gián tiếp về Như Lai, thì Niết-bàn mà Thế
Tôn chứng ngộ, chứng nhập là kết quả của sự đoạn diệt Mười hai
nhân duyên, hay đoạn diệt khổ.
Do đó, Niết-bàn có thể gián tiếp được
định nghĩa như là "Khổ diệt", "Ái diệt", "Thủ
diệt", "Vô minh diệt", hay bằng các tên gọi tương
đương khác như "Vô vi", "Vượt qua bộc lưu", "Qua bờ
bên kia". "Loại hết sanh y" v.v.... mà chúng ta có ngót ba
mươi từ tương đương với Niết-bàn, ở Nikàya và A-hàm.
Trong Kinh Tập (Suttanipattà), Tiểu Bộ Kinh, chương
"Con đường đến bờ bên kia", thanh niên Upasìva đã hỏi Thế
Tôn về phép để qua bờ bên kia, Thế Tôn dạy:
"Ngày đêm Ông nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn". -- (Sn. 205).
Thanh niên Udaya hỏi: "Do đoạn diệt gì được
gọi là Niết-bàn?", Thế Tôn dạy:
"Do đoạn diệt khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn". -- (Sn. 214).
Thanh niên Kappa đặt câu hỏi tương tự, Thế Tôn
trả lời:
"Không sở hữu, chấp trước,
Ta nói Người, Niết-bàn,
Già chết được đoạn tận".
Kinh Tượng Tích Dụ thuật lại lời Thế Tôn dạy
rằng:
"Sự tham dục, chấp trước, tham đắm trong Năm thủ
uẩn ức Khổ tập; sự nhiếp phục từ bỏ tham dục tức Khổ diệt" (Khổ
diệt tức Niết-bàn) (3).
Niết-bàn như thế là rời khỏi mọi chấp thủ.
Vì rời chấp thủ, nên rời khỏi mọi tướng trạng, mọi ý niệm;
vì ly niệm nên Niết-bàn không thể được diễn đạt bằng ngôn ngữ
khái niệm. Do đó, mọi câu hỏi và mọi câu trả lời trực tiếp
về Niết-bàn đều không được chấp nhận.
Trong Kinh Bà-sa-cù-đa Hỏa Du (4). Vacchagotta đã đặt
mười câu hỏi siêu hình và đã được Thế Tôn dạy rằng các câu hỏi ấy
không phù hợp, bởi vì Thế Tôn (hay Niết-bàn) đã giải thoát khỏi
sắc, thọ, tướng, hành, thức; trong khi các câu hỏi ấy chỉ có thể
liên hệ đến sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nói cách khác, không thể nói Niết-bàn là gì,
mà cũng không thể nói Niết-bàn không là gì. Chỉ có thể tạm thời
đề cập đến Niết-bàn bằng thái độ phủ định, gián tiếp bằng
các định nghĩa được trích dẫn ở trên, hoặc bằng các từ tương đương,
không thực sự cắt nghĩa gì cả như từ "Tuyệt đối", "Bất
tử", "Vô sinh" v.v...
Từ đây, chúng ta cần phải rất cẩn trọng và tỉnh
giác một khi nói đến Niết-bàn. Nó không phải là một xứ sở, nó
không liên hệ đến thời gian. Bởi thế, thật là dễ ngộ nhận khi
nói "Ðức Phật nhập Niết-bàn" hay "Nhập Vô dư
Niết-bàn". Nguy hiểm là ở chữ Nhập. Nghĩa là chữ nhập ở đây là
không có chủ thể và đối tượng của nhập thì mới gọi là
"nhập".
Nhưng nếu diễn đạt như thế này thì người nghe
do thiếu tỉnh giác có thể cho rằng Niết-bàn chỉ là trống không.
Ðể tránh khỏi ngộ nhận đáng tiếc ấy, các nhà biên khảo thường
trưng dẫn câu chuyện nổi tiếng về "Con rùa và con cá".
Nếu rùa không thể nói cho cá nghe về những gì ở trên đất cạn,
thì cũng thế, ngôn ngữ khái niệm của con người không thể nói lên
được những gì của Niết-bàn. Ðối với cá, trái đất không phải là
không có; cũng thế, đối với chúng ta, những phàm phu, Niết-bàn không
phải là trống không. Làm sao có thể nói lên được Niết-bàn khi chính
Niết-bàn là sự đoạn diệt vọng tưởng?
Ở Kinh "Phật Thuyết Như Vậy"
(Ivivuttaka), Tiểu Bộ Kinh, Thế Tôn dạy:
"Này các Tỷụ-kheo, có cái không sanh, không
hiện hữu, không tác thành, không làm ra. Này các Tỷ-kheo, nếu
không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra,
thì ở đây không thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện
hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Do vì, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh,
không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày
được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra
(5).
Ði vào các ý nghĩa Niết-bàn của Bắc tạng,
chúng ta sẽ lý thú làm quen với lối diễn đạt đây biểu tượng và thi
vị.
Bát nhã cho rằng cứu cánh Niết-bàn là vượt qua
hết mọi khổ ách. Khổ ách là do chấp thủ nhân ngã và pháp ngã.
Nếu nhờ trí tuệ thấp rõ Năm uẩn là vô ngã thì sẽ cắt lìa chấp thủ
và đi ra hết mọi khổ ách. Như thế, vượt qua khổ ách, hay đắc
Niết-bàn, chính là sự chứng ngộ, chứng nhập đương thể vô ngã của
các pháp. Ðương thể ấy thì vô sinh (hay không sanh không diệt). Cho
nên đắc Niết-bàn có nghĩa là đắc cái vô sanh. Mà đã là vô sanh thì
vô đắc. Do đó, đắc Niết-bàn là không thấy có người đắc và pháp
đắc. Khi hoàn toàn vô đắc thì gọi là Niết-bàn hay đắc
Niết-bàn.
Tất cả chấp thủ là nội dung ngăn ngại việc chứng
đắc Niết-bàn. Cho nên, nội dung của chứng đắc ấy là nội dung của đoạn
diệt chấp thủ, đoạn diệt vọng tưởng. Tại đây, Niết-bàn có
thể được trình bày gián tiếp như là sự hàng phục vọng tưởng.
Cũng từ Kinh Kim Cương, Thế Tôn dạy Tôn giả
Tu-bồ-đề rằng: "Tại đức Phật Nhiên Ðăng, Ta thật không có đắc
A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Do vì không có đắc
A-nậu-đa-la-miệu-tam-bồ-đề nên đức Phật Nhiên Ðặng đã thọ
ký cho Ta sau này thành Phật, hiệu là Thích ca Mâu ni."
Ðấy là lối diễn đạt nội dung chứng đắc Niết-bàn
của Thế Tôn. Niết-bàn là nội dung của vô đắc ấy. Ðó là nội dung
của sự thể nhập vào thực tại vô ngã của các pháp.
Nói lên chỗ chứng đắc ấy của Thế Tôn, Kinh
Lăng Già lại phát biểu một cách đầy sáng tạo và lý thú rằng:
"Vô hữu Niết-bàn Phật
Vô hữu Phật Niết-bàn".
(Không có đức Phật chứng Niết-bàn,
và cũng không có Niết-bàn của Phật chứng).
Nổ lực phủ nhận sự kiện chứng Niết-bàn và phủ
nhận Niết-bàn của Phật chứng là nổ lực diễn đạt về Niết-bàn
như thật, và đồng thời tránh ngộ nhận do suy tư đầy ngã tưởng của người
đọc có thể dấy sinh.
Tổ Thế Thân, trong "Duy Thức Tam Thập Tụng",
gọi quả Niết-bàn là quả "chuyển y" và trình bày nội dung
của chứng đắc Niết-bàn qua bài kệ hai mươi chín rằng:
"Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y".
Thế là đắc Niết-bàn là đắc "Vô
đắc", khi hành giả lìa xa mọi chấp thủ thể và đối tượng (nhân
ngã và pháp ngã).
Trở lại Kim Cương, có hai bước trình bày giáo lý
Kim Cương. Bước đầu nói về Không (không tánh, hay Vô ngã tánh), trình
bày phần thô thiển của Vô ngã như thế là phủ nhận tất cả tướng.
Nhưng bước thứ nhì thì trình bày phần thâm áo của Bát-nhã, xem
Niết-bàn như là tất cả pháp.
"Như Lai tức chư pháp như nghĩa,
Nhứt thiết chư pháp giải thị Phật Pháp".
Ở mặt tương đối mà nói, thì phân biệt có
Phật là chủ thể chứng ngộ, Niết-bàn là đối tượng chứng ngộ. Nhưng
ở mặt tuyệt đối mà nhìn, thì Phật, Niết-bàn và sự chứng đắc
Niết-bàn chỉ là một, không khác.
Quan điểm này rõ ràng không rời xa truyền thống
của Giáo lý nguyên thủy Phật giáo. Hiểu như vậy, chúng ta mới khỏi
sai lầm khi trình bày Phật, Niết-bàn và Thành đạo.
Tại đây, bừng sáng lên rằng các tông phái Phật giáo
đều trình bày Niết-bàn theo cách trình bày gián tiếp, dẹp hết
chấp thủ, vọng tưởng thì Niết-bàn hiển lộ.
Con đường đi đến Niết-bàn ở Nikàya và A-hàm
là đoạn trừ ái, thủ, vô minh, hay đoạn trừ mười kiết sử (thân
kiến, nghĩ, giới cấm thủ, dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cứ và
vô minh).
Ðó chỉ ròng là công phu chuyển đổi vọng tâm
(tâm lý vọng) mà không đặt vấn đề đến các pháp, hiện
tượng giới này. Phải chăng đây là ý nghĩa mà Thế Tôn dạy trong
Nikàya và A-hàm: "Khi Ta thanh tịnh, Ta thấy thế giới thanh tịnh".
(Ðây là quan điểm khác hẳn ngoại đạo) (6).
Ði thêm một bước diễn đạt tích cực nữa về
Niết-bàn, lập trường chung của Bắc tạng cho rằng:
- Sinh tử tức Niết-bàn; và
- Phiền não tức Bồ-đề (Niết-bàn).
Ở Duy thức, ý nghĩa "Sinh tử tức
Niết-bàn" là ý nghĩa của "Tam vô tánh", khi chấp thủ
hoàn toàn bị đoạn diệt, khi tâm thức được chuyển thành bốn trí.
Các Thiền sư Trung Hoa thì gọi đó bằng một
ngôn ngữ riêng: "Khi tu rồi, núi vẫn là núi". Cho nên, khi nói
Niết-bàn không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ khái niệm, thì
điều này cần được hiểu là không phải chính ngôn ngữ bất lực, mà
là do sự có mặt của ái, thủ của con người xuyên qua ngôn ngữ ấy. Một khi
chấp thủ diệt thì ngôn ngữ cũng chính là thật pháp, Niết-bàn. Có lẽ
đây là ý nghĩa mà Bắc tạng cho rằng mọi sự biểu hiện của
đấng Giác ngộ đều là biểu hiện của Phật Pháp, Thật Pháp.
Kinh Pháp Hoa, bản dịch hai mươi tám phẩm của Tổ
Cưu-ma-la-thập, chỉ bày "Tri kiến Phật". Tri kiến ấy là tri
kiến thấy như thật pháp. Thấy như thật pháp là thấy Vô ngã pháp. Ðắc
tri kiến ấy là đắc Niết-bàn, nói khác đi, tri kiến ấy là
Niết-bàn.
Pháp Hoa chỉ trình bày "Phật tri kiến" một
cách gián tiếp, rất là biểu tượng. Do đó, qua suốt hai mươi tám
phẩm kinh ta không thấy nói rõ Phật tri kiến là gì. Nhưng bằng trí
tuệ, ta có thể đón nhận Phật tri kiến qua các hình ảnh biểu
tượng, như hình ảnh từ đầu Kinh: "Thế Tôn nhập vô lượng nghĩa xứ
định, rồi xuất vô lượng nghĩa xứ định, mới tuyên thuyết Pháp Hoa".
Hình ảnh đó nói lên rằng, chân lý Pháp Hoa có
mặt trong sự an trú tâm trong Vô ngã pháp của hành giả (Vô lượng nghĩa, có
nghĩa là thoát ly ý nghĩa; thoát ly ý nghĩa là thoát ly niệm;
thoát ly niệm là rời khỏi mọi tướng chấp thủ). Như thế,
Niết-bàn chính là thực tại Vô ngã. Hay, Niết-bàn chính là thực tại
này với sự vắng mặt hoàn toàn của chấp thủ. Ðây là ý nghĩa của
"Thập Như Thị" trong kinh Pháp Hoa.
Về Hoa Nghiêm, nhiều nhà học giả Phật giáo,
như Junjiro Takakusu hay Kimura Taiken, cho rằng Hoa Nghiêm là sự phát triển
của giáo lý "Duyên sinh" của Phật giáo nguyên thủy.
Pháp giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm được
nhìn qua "Ðại Lâu Các Trang Nghiêm Tạng". (Vairochana Vyùha alankara
garba) và được diễn đạt rằng:
"Ðại lâu các này là trú xứ của những ai đã
hiểu ý nghĩa Khoâng, Vô tướng và Vô nguyện (Vô dục), của những
ai đã hiểu rằng hết thảy các pháp đều là vô phân biệt, rằng
pháp giới vốn là vô sai biệt, rằng chúng sanh giới vốn là bất khả đắc,
rằng hết thảy các pháp vốn vô sanh" (7)
Như thế, Pháp giới của Hoa Nghiêm chính là Pháp
giới của Nìkàya và A-hàm được xóa tan ái, thủ. Ở đây, Niết-bàn
như là chính pháp giới được đoạn tận ải, thủ.
Trên đây, một số nét đại lược về Niết-bàn
được bàn đến như là cứu cánh giải thoát. Bắc tạng và Nam tạng còn
đề cập đến hai loại Niết-bàn: Hữu dư y và Vô dư y Niết-bàn.
Thượng tọa bộ và A-hàm (Nhứt thiết hữu bộ) còn bàn rộng đến
Niết-bàn hữu học và Niết-bàn vô học.
Kinh "Phật Thuyết Như Vậy", Tiểu Bộ
Kinh, giải thích hai loại Niết-bàn:
"Này các Tỷ-kheo, có hai loại Niết-bàn
giới... Thế nào là Niết-bàn giới của dư y? Ở đây, Tỷ-kheo là
bậc A-la-hán, các lậu đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã
làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử
đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy có năm căn còn tồn
tại, ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, bất khả ý, vì
rằng tự ngã không có thương hại cảm giác lạc, khổ. Với vị ấy, tham
diệt, sân diệt, si diệt. Ðây gọi là Niết-bàn giới có dư
y.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn vô dư
y? Ở đây, Tỳ-kheo là bậc A-la-hán... (như trên) ... Ở đây, đối với
vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỷ, ưa thích sẽ lắng
dịu. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là Niết-bàn không có dư y" (Tr.
144).
Sự khác biệt của Hữu dư y và Vô dư y Niết-bàn
được trình bày như trên chỉ là sự khác biệt giữa hai vị A-la-hán đã
đoạn tận lậu hoặc, nhưng vị Hữu dư y thì còn các cảm thọ khổ, lạc xảy
đến qua thân năm uẩn, còn ở vị kia thì các cảm thọ đều được
lắng dịu.
Thông thường, Hữu dư y Niết-bàn được hiểu
như là Niết-bàn tại thế của Thế Tôn; Vô dư y Niết-bàn là
Niết-bàn của Thế Tôn sau khi Ngài nhập diệt.
Tăng Chi Bộ Kinh IV, phẩm Bảy Pháp, có đề cập
đến các loại Niết-bàn của bậc Thánh Bất Lai.
Niết-bàn của một A-la-hán gọi là Vô thủ trước
Niết-bàn. Niết-bàn của Thánh Bất Lai gồm:
- Trung gian Niết-bàn (Antaràparinibbayì).
- Tổn hại Niết-bàn (Upahaccaparinibbayi).
- Vô hành Niết-bàn (Asankhàraparinibbayi)
- Hữu hành Niết-bàn (Sankhàraparinibbayi), và
- Thượng lưu Niết-bàn (Uddhamsoto).
Theo phần kinh này, Trung gian Niết-bàn là nhập
Niết-bàn sau khi Thánh Bất Lai xả báo thân. Hạng này gồm có ba:
a. Hạng đầu: Nhập Niết-bàn liền sau khi xả báo
thân.
b. Hạng hai: Nhập Niết-bàn liền sau khi thác sanh về Tịnh Cư Thiên.
c. Hạng ba: Nhập Niết-bàn sau khi thác sanh về Tịnh Cư Thiên, sau một
thời gian ngắn ở đó.
Tổn hại Niết-bàn là nhập Niết-bàn sau khi thác
sanh về Tịnh Cư Thiên một thời gian lâu hơn.
Vô hành Niết-bàn là nhập Niết-bàn ở Tịnh Cư
thiên (sau một thời gian lâu hơn nữa ở đó).
Hữu hành Niết-bàn là nhập Niết-bàn ở Tịnh Cư
thiên, có khi vào lúc gần mãn tuổi thọ tại đó.
Thượng Lưu Niết-bàn là quả thấp nhất trong các
quả Bất Lai vừa kể, nhập Niết-bàn sau khi thác sanh đến Sắc Cứu
Cánh thiên (Có đi qua cõi sắc giới gọi là "Ngũ Bất Hoàn
thiên").
Dù là Niết-bàn của Thánh Bất Lai, hay Niết-bàn
hữu học, thì sự kiện chứng nhập Niết-bàn chỉ xảy ra khi vị Thánh
đoạn tận vô minh, lậu hoặc. Như thế, Niết-bàn chỉ có một.
Sự kiện chứng ngộ
Niết-bàn được gọi là Thành đạo.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa Thành đạo và rút
ra những bài học tu tập giải thoát qua sự kiện Thành đạo của Thế
Tôn.
Thời điểm Thành đạo là cuối canh năm, lúc sao mai
mới mọc, khi Thế Tôn chứng nhập toàn triệt pháp giới Duyên khởi.
Chư Phật quá khứ và vị lai cũng chứng nhập pháp giới Duyên khởi, được
gọi là Thành đạo hay đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Sau khi từ bỏ con đường của sáu năm khổ hạnh và từ
bỏ con đường Thiền định của ngoại đạo, Thế Tôn nhập định theo
hướng mới gọi là Thiền định Phật giáo và đi đến chứng đắc vô
thượng.
1/- Ý nghĩa thứ nhất của Thành đạo nói lên rằng con
đường đi đến giải thoát là Trung đạo: Trung đạo của tu tập và Trung
đạo của giác ngộ.
- Tránh xa hai cực đoan, khổ hạnh ép xác và thụ hưởng
dục lạc, là ý nghĩa của Trung đạo Tu tập.
- Pháp giới Duyên sinh tánh là ý nghĩa của Trung
đạo giác ngộ.
2/- Ý nghĩa thứ hai là, bằng nổ lực của tự thân, với
sự tu tập đúng pháp, con người có thể giác ngộ nga tại đời này.
3/- Ý nghĩa thứ ba, nội dung của Thành đạo là đoạn
trừ vô minh, ái, thủ (đoạn diệt Mười hai nhân duyên), hay đoạn trừ
Mười kiết sử. Ðó là một quá trình chuyển đổi tâm lý và nhận
thức. Vũ trụ mà các nhà khoa học gọi là vũ trụ khách quan, thực sự
là thực tại dưới cái nhìn giác ngộ; vũ trụ ấy không phải là tự thân là
hư vọng, khổ đau. Giải thoát ở đây là giải thoát tham ái, chấp thủ, mà
không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, thế giới. Tự thân
thế giới không thể được gọi là thực hay hư, bởi vì thực, hư là
những gì của Mười hai nhân duyên sanh khởi (hữu vi) mà không phải là Mười
hai nhân duyên đoạn diệt (vô vi).
4/- Ý nghĩa thứ tư, có sự kiện Thành đạo có
nghĩa là vô minh, ái, thủ... không thực có, hay không có tự ngã. Tự ngã chỉ
là sản phẩm của vô minh, không thuộc thực tại.
5/- Ý nghĩa thứ năm, đức Phật thành đạo có nghĩa là
các pháp được nhìn dưới cái nhìn vô chấp thủ, được thấy thoát ly các
tướng hay Vô ngã tướng. Nếu Vô ngã ở đây được hiểu theo nghĩa
khẳng đinh, nghĩa là có cái tướng Vô ngã đối lập với ngã, thì đó không
phải nghĩa "Trung đạo" của Thật pháp, bởi vì nó thuộc ý
niệm. Nói một cách thật ổn. Thật pháp không liên hệ gì đến
ngã hay vô ngã của một người chưa đoạn tận tham ái, chấp thuủ. Thật
pháp chỉ biểu lộ đối với những ai đã giải thoát hết lậu hoặc.
6/- Ý nghĩa thứ sáu, Thành đạo là trở về Thật
pháp, trở về "Vô sinh", "Tịch diệt", đi ra mọi
nghĩa đối đãi của thường, đoạn, khứ, lai, hữu, vô, sinh và diệt. Ý
nghĩa của "trở về" này không thể được gọi là
"đắc", không thể được gọi là "chứng", không
thể được gọi là "trú". Bằng ngôn ngữ tương đối chỉ tạm
thời gọi là "Vô đắc". Thật nghĩa của sự trở về ấy là
không có trở về đâu cả, không có đâu cả, gọi là "Như
Lai", nó không phải là kết quả của bất cứ một công phu tu tập nào,
nó như là núi Hy-mã, công phu tu tập chỉ là con đường đưa đến; công
phu ví như tiếng gõ cửa đánh thức mình ra khỏi giấc ngủ, tiếng gõ
cửa thì không phải là mình. Tu tập chỉ là công việc của gió làm tan mây
ái, thủ đang che mờ trăng Thật pháp. Gió và mây thì không phải là trăng.
7/- Ý nghĩa thứ bảy, sự kiện Thành đạo của
Thế Tôn mở ra cho nhân loại một con đường thoát khổ, một niềm tin
thoát khổ. Sự kiện này xuất hiện như là chính Thế Tôn thọ
ký cho tất cả sẽ trở thành Phật trong vị lai.
* * *
Nếu trung thành với giáo lý vô chấp thủ của
Phật giáo, đừng để mình rơi vào khái niệm của ngôn từ, thì chúng
ta sẽ nhận ra rằng, Phật, Niết-bàn và Thành đạo dù được diễn tả dưới
nhiều hình thức khác nhau của Bắc tạng và Nam tạng, đều ngời
chiếu ánh sáng giải thoát của Phật Pháp, của cái mà ta chỉ gọi bằng
một danh từ gọn ghẽ là Phật giáo.
Con đường đi về đó là con đường loại trừ ái,
thủ, hay gọi là đoạn trừ lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu) đi
qua Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến.
Thế giới của Phật, Niết-bàn và Thành đạo
không thể được xác nhận là thế giới ta đang thấy, không
thể được xác nhận không phải là thế giới ta đang thấy,
hoặc vừa là vừa không là, hay không là không không là
thế giới ta đang thấy. Bởi vì nó là thế giới của người đã trừ
hết lậu hoặc mà không phải của chúng ta, những người đang mang nặng lậu
hoặc. Nó là thế giới của chứng nhập giải thoát./.
Ghi chú:
(1) Hán tạng: tập Ðại II, 224c, Trung 137, Ðại I 645b.
(2) Tượng Tích Dụ Ðại Kinh, Trung Bộ I - M 28, Tương
Ưng III, tr. 144. Tiểu Bộ I, tr 489 - bản in sau năm 1975 và trước Ðại Tạng
Kinh Việt Nam.
(3) Mahàhatthipadopamasuttam, Trung Bộ I - Hán tạng: Tượng
Tích Dụ Ðại Kinh, Ðại I, 464b.
(4) Vicchagottaggisuttam, Trung Bộ II - Hán tạng: Kinh
Kiến, Ðại II, 245b
(5) Itivuttaka, Tiểu Bộ Kinh I, bản dịch của HT. Thích
Minh Châu, 1982, tr. 443.
* Các trích dẫn về kinh Nikàya, Việt ngữ,
đều thuộc ban dịch của HT Minh Châu.
(6) Kinh Pàlika - Kinh Ba-lê, Trưởng Bộ Kinh 24, Digha-
Nikàya Vol. III PTS. London. 1992, p. 34.
(7) Thiền Luận, Suzuki, cuốn hạ, tr. 173, bản dịch
củaTuệ Sỹ.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục |
Bài kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục