|
Về nguyên tắc, không
những không cấm mà còn khuyến khích
nữa ! Vì Phật giáo tin rằng tín ngưỡng
Phật giáo rất hợp với lý tính. Một
người đã tin theo đạo Phật và có
trình độ nhận thức sâu sắc phần nào
đối với Phật Pháp, thì dù có muốn
chuyển sang tin theo một đạo khác cũng
không được. Vì vậy, dù cho các tôn
giáo khác có tuyên truyền thế nào,
một Phật tử chính tín cũng đủ sức
chịu đựng thử thách, niềm tin của
Phật tử đó không hề bị lung lay. Hơn
nữa, Phật giáo không phải là tôn
giáo có tín ngưỡng độc đoán. Phật
giáo không phủ nhận chân giá trị của
những tôn giáo khác. Vì nhu cầu độ
thế, pháp môn Phật giáo chia làm 5
thừa : nhân thiên thừa (pháp môn của
loài Trời và loài người) là nền
tảng của cả 5 thừa, là pháp môn chung
cho tất cả pháp môn, cũng là pháp
thiện chung cho tất cả mọi tôn giáo và
triết học. Vì vậy, Phật giáo vẫn khẳng
định giá trị của Kinh sách các tôn
giáo khác, tất nhiên là Phật giáo
không tán thành những bộ phận giáo
lý của họ có tính võ đoán, mê tín,
không phù hợp tình lý.
Đồng thời, một Phật tử
chính tín phải là một người truyền bá
Phật pháp. Kỹ thuật hoằng dương Phật
pháp là hết sức trọng yếu đã giúp
những người thuộc các tôn giáo khác
chuyển sang tin theo đạo Phật, giúp những
người đang do dự phân vân giữa tín
ngưỡng Phật giáo và các tín ngưỡng
khác, giúp cho tri thức về tôn giáo
học so sánh. Nếu không nói lên được
điểm ưu việt của tín ngưỡng Phật
giáo so với các tín ngưỡng khác, thì
làm sao thuyết phục được người khác
vui vẻ và chân thành tin theo đạo Phật ?
Chính vì vậy, một Phật tử "lý
tưởng" phải được trang bị nhất
định về kiến thức đối với các tôn
giáo khác (chú 13).
Đương nhiên, đối với
một người mới bước đầu tin Phật,
thì việc nghiên cứu giáo lý các tôn
giáo phải là không cần thiết. Vì vậy
mà Phật giáo chủ trương, người học
Phật đã giỏi có thể bỏ ra 1/3 thời
gian để đọc sách ngoại điển. Nếu
không thì công phu học nội điển còn
chưa đủ, còn thời gian đâu để đọc
kinh sách các tôn giáo khác ?
Không phải. Phật giáo tuy
xếp tất cả các tôn giáo không phải
Phật giáo đều là "Ngoại đạo",
[ý tứ là không hướng nội để cầu
minh tâm kiến tính mà hướng ngoại để
cầu sự gia hộ của quỷ thần] nhưng
Phật giáo không có phủ định chân giá
trị của các tôn giáo khác, Phật giáo
phân chia các tôn phái theo 5 thừa, như
trong một bài trước đã giới thiệu sơ
lược. Năm thừa đó đều là thiện.
Nhân thừa và thiên thừa, tuy là ở
trình độ thấp, chưa thoát khỏi sinh tử,
nhưng đã thực hành năm giới, mười
thiện. Nếu đánh giá theo quan điểm Phật
giáo, thì ngoài Phật giáo ra, tất cả
các tôn giáo khác đều thuộc phạm vi
của nhân và thiên thừa, đều nỗ lực
làm điều thiện để được sinh thiên
hoặc làm người, và người theo các
tôn giáo khác tất nhiên không thể xem
là người có tội được.
Do đó, Phật giáo chính tín,
tuy vẫn tự tin về giá trị tôn giáo
của mình, thế nhưng không kỳ thị, không
xem thường giá trị tôn giáo của các
tôn giáo khác, và muốn cùng với các
tôn giáo khác, xây dựng nếp sống,
thiện hướng tới sinh thiên hoặc tái
sinh làm người. Phải chăng như vậy còn
tốt hơn là đi bè bạn với những kẻ
phá hoại cuộc sống an lành của loài
người hay sao !
Vì vậy, Phật giáo tuy vẫn
khuyến cáo tín đồ các tôn giáo khác,
nhưng Phật giáo không bao giờ dùng thủ
đoạn để bài xích các tôn giáo khác.
Lịch sử thế giới hơn 2500 năm nay đã
chứng minh điều đó.
Nói chung, một số các học
giả không có tín ngưỡng tôn giáo
đều có quan niệm như vậy. Họ cho rằng,
Phật giáo cũng tốt, Cơ đốc giáo cũng
tốt vì cả hai đều khuyến khích làm
thiện. Và trên cơ sở hai tôn giáo
đều khuyến khích người làm thiện, họ
bèn suy luận cho rằng quan niệm kho?
trong đạo Phật cũng như quan niệm tội
trong đạo Cơ đốc vậy.
Bởi vì, Phật giáo nói
cuộc sống sinh tử trong ba giới là biển
khổ. Mọi cảm thụ của chúng sinh đều
là khổ. Cho nên mục đích của tu hành
là thoát khổ. Cơ đốc giáo nói nhân
loại đều là kẻ có tội, do 2 tổ tiên
loài người là A Đam và Eva, không nghe
lời cảnh cáo của Thượng đế đã ăn
quả cấm sinh mạng và trí tuệ của
vườn Imen [Hymen] do đó mà loài người
bèn có sinh mạng và trí tuệ, nhưng
đồng thời cũng đắc tội với Thượng
đế. Thượng đế bèn phạt con cháu của
A Đam và Eva phải đời đời chịu khổ.
Đó gọi là cái tội tổ tông (Nguyên
tội) do ông Tổ đầu tiên của loài
người để lại cho con cháu. Tín đồ
đạo Cơ đốc tín ngưỡng Thượng đế
đã phái người con độc nhất của
Thượng đế xuống trần, chịu chết trên
Thánh giá để chuộc tội cho những
người tin Thượng đế.
Trên thực tế, cái khổ
mà Phật giáo giảng, rất khác với cái
tội của đạo Cơ đốc. Cái khổ mà
Phật giáo giảng là do nghiệp báo của
chúng sinh tự làm ra; nghiệp báo đó do
chúng sinh phải chịu, nó bắt nguồn từ
vô minh từ thời vô thỉ đến nay. Đó
là trách nhiệm của cá nhân mỗi
người, không có can hệ gì tới
Thượng đế; cũng không liên quan gì
đến tổ tông; chúng sinh do phiền não
vô minh làm cho mê hoặc bèn tạo ra
nghiệp sinh tử, do nghiệp sinh tử mà
chịu khổ sinh tử. Trong khi chịu khổ sinh
tử, lại bị mê hoặc. Như vậy, do bị vô
minh mê hoặc mà tạo nghiệp, do có tạo
nghiệp mà chịu khổ, rồi lại do khổ mà
sinh mê hoặc. Ba khâu Hoặc, Nghiệp, Khổ
kết lại với nhau thành vòng sinh tử
luân hồi quay mãi không thôi. Vì mê
hoặc là hạt giống của khổ nghiệp
giống như ánh nắng, không khí và nước
làm cho khổ trở thành kết quả của
hoặc và nghiệp. Và khổ quả là cái ma
chúng sinh thực sự cảm thụ. Vì vậy
mà Phật giáo gọi dòng chảy sinh tử
là cõi khổ hay biển khổ. Cũng vì vậy
mà Phật giáo yêu cầu chúng ta vượt
qua dòng chảy sinh tử đó, thoát khỏi
vòng ràng buộc đó của sinh tử. Sống
chết tự do, sống chết tự chủ, không
sống không chết đó chính là cảnh
giới giải thoát.
Bất quá, Phật giáo cầu
giải thoát, không phải dựa vào sự
cứu tế của Phật và Bồ Tát, Phật và
Bồ Tát chỉ dạy cho chúng ta phương pháp
giải thoát chứ không thể giải thoát
thay cho chúng ta. Đó là điểm khác với
đạo Gia Tô nói Jesu chuộc tội cho tín
đồ tin ở chúa. Bởi vì Phật giáo
không chấp nhận thuyết chúng sinh vì bị
Thượng đế trừng phạt mà có tội,
lại càng không chấp nhận tội của tổ
tông trở thành tội của con cháu; cũng
như "tội không can đến vợ con".
Thượng đế không chuộc thay người
cũng như "tội ăn không làm anh no
được". Phật giáo giảng phương
pháp thoát khổ cơ bản là ba môn học
vô lậu; giới, định, tuệ. Giới là
việc đáng làm, không buông thả cũng
không lười biếng; Tuệ là trí sáng
suốt, thấy rõ phương hướng, nỗ lực
tinh tấn, do vậy, sự thoát khổ của
Phật giáo quyết không giống với sự
cầu xin thượng đế chuộc tội của Cơ
đốc giáo.
Ở đây, nhân tiện bàn
luôn vấn đề này; nhiều người cho
rằng Phật quá nhấn mạnh mặt khổ của
cuộc đời; đó là thái độ có phần
thiên lệch chán đời; bởi vì trong
đời người, có khổ mà cũng có vui.
Lại có thể dùng biện pháp để cải
tạo hoàn cảnh sống của con người bớt
khổ thêm vui. Vì vậy họ cho rằng cách
nhìn của Phật giáo là sai lầm. Về
điểm này, Phật giáo giải thích như sau :
Nếu đứng trên lập trường một đời
người mà nói thì Phật giáo không
đòi hỏi con người phải thừa nhận
"có cảm thụ là có khổ". Thực
ra, Phật giáo nói đời khổ, là nói
theo kết luận của đức Phật, quan sát
đời người với trí tuệ và lòng bi
của Ngài. Chúng ta là phàm phu, không
phải là Phật, chúng ta rất khó thấy ra
được sự thật đó. Cũng như một
người gặp thấy một con chó đang ăn
phân, thì cảm thấy ghê tởm. Nhưng bản
thân con chó khi ăn phân lại cảm thấy
ngon lành, thích thú. Nếu chúng ta giải
thích cho chó biết ăn phân là thiếu vệ
sinh, thì con chó sẽ quay đầu lại sửa
chúng ta với giọng bất bình !
Phật đứng trên bờ con
sông sinh tử mà nhìn chúng sinh đang chìm
đắm trong con sông sinh tử, thấy ở nơi
chúng sinh chỉ có khổ không có vui. Dù
là có vui, thì cũng như người gãi
ngứa, khi gãi thì thấy thích, sau khi gãi
thì thấy đau !
Thượng Đế là một danh
từ có một định nghĩa rất rộng rãi.
Có nhiều thượng đế của các loại
tôn giáo. Cũng có nhiều Thượng đế
của Triết học. Nói chung lại, đứng
trên lập trường nào để nhìn Thượng
đế, thì sẽ hình thành một Thượng đế
theo lập trường đó.
Đạo Gia Tô cho rằng, Trời
(thiên) hay Thượng đế của Nho gia Trung
Quốc cũng là Thượng Đế của đạo Gia
Tô. Thực ra, Thượng đế của Nho gia
Trung Quốc là Thượng Đế của triết
học phiếm thần, là Thượng Đế được
con người yêu, nhưng không thể đòi
hỏi Thượng Đế yêu người lại, cũng
tức là Thượng Đế của "Bất khả
tri luận". Thượng Đế của đạo Gia
Tô là thần linh nhân cách hóa; là
Chúa sáng thế đứng bên ngoài vũ
trụ, là vị Thần vạn năng.
Về thuyết khởi nguyên của
vũ trụ, thì dù là tôn giáo ở thời
kỳ đầu hay là triết học cũng thường
thường cho rằng đó là do thần biến
hóa mà thành. Hi Lạp cho rằng Trụ Tư
[Zem] là chúa tể các vị thần. La Mã cho
rằng Cầu Tỷ Đặc [Jupeter] là chúa tể
các vị thần. Các Thần của Ấn Độ cổ
đại rất phức tạp, vị trí của họ thay
đổi là Đại Vu Tư (daus) là đồng nhất
về ngôn ngữ với Zeus của Hi Lạp và
Jupiter của La Mã. Những vị thần có thế
lực trong giới thần linh của sách thánh
Vê đa là Balâuna (Baruna) là thần Tư
pháp. Vị thần của Hư không giới là
"Nhân đà la" [Indra] tức là
Thần Sét. Vị thần của địa giới là A
Kỳ Ni [Agni] là Hỏa thần (thần lửa).
Thần địa ngục là vua DẠ MA (Yama), [nhưng
ông này trị vì trên một cõi trời]. Vì
vậy, Ấn Độ cổ đại sùng bái nhiều
thần (đa thần). Sau này, Ấn Độ giáo,
có thuyết cho rằng, Thượng Đế, tức
Chúa sáng tạo là "Đại Phạm
Thiên", hoặc là "Đại tự tại
thiên", hoặc là "Na la diên
thiên", cuối cùng hình thành quan
niệm Tam vị nhất thể, và công nhận
Đại Phạm Thiên là chúa sáng tạo, Nala
diên thiên là vị thần bảo vệ; Đại
tự tại thiên là vị thần phá hoại.
Nhưng thực ra, đó chỉ là một vị thần
với ba bộ mặt khác nhau mà thôi. Hiện
nay Ấn Độ giáo sùng bái "AMa",
"Thấp La" và cả đến đức Phật
cũng được họ sùng bái như Thượng
đế (danh từ chỉ Thượng đế tính có
tới hàng trăm - Xem bài : Ánh sáng
chân lý - do Chu Tương Quang dịch; tr. 22,
chú 14).
Thượng đế của Đạo giáo
Trung Quốc là Ngọc Hoàng, khác với
Thượng Đế của Nho gia, cũng khác với
Thượng đế của đạo Gia Tô, cũng khác
với Thượng đế của Ấn Độ giáo.
Nếu đánh giá theo quan điểm và nhận
thức của Phật giáo thì Thượng đế
của Lão giáo và Hồi giáo tương đương
với vị chủ tể cõi Trời Đao Lợi của
Phật giáo; Thượng Đế của đạo Gia Tô
(từ Ma Tây đến Pao lô và Angustanh
v.v
đã thăng lên nhiều cấp) tương
đương với Phạm thiên vương của Phật
giáo; Thượng đế của Ấn Độ giáo
đồng nhất với Đại tự tại thiên
vương của Phật giáo; cõi Trời Đao
Lợi là cõi Trời thứ 2 của Dục
giới, gần gũi nhất với cõi người.
Cõi Trời phạm thiên là cõi trời sơ
thiền thuộc sắc giới. Đại tự tại
thiên là cõi Trời cao nhất không có
căn cứ. Vì phạm vi bài này không cho
phép phân tích giới thiệu cặn kẽ,
chứ nếu so sánh Thượng đế quan của
các tôn giáo với 28 cõi Trời thuộc 3
giới thì đó là vấn đề rất thú vị.
Bởi vì các vị chủ tể
các cõi Trời, đều có đôi chút thói
quen kiêu mạn, thường hay nói với thần
dân của họ rằng họ là vị chúa tể
sáng thế có một không hai, cũng như vua
chúa ở cõi người nay cũng thường
tự xưng là "quả nhân". Ý tứ
là, ngoài họ ra, trong thiên hạ không ai
có thể cao quý vĩ đại hơn họ. Thậm
chí, Tần Thủy Hoàng tự xưng là
"Đức hơn Tam Hoàng, công vượt ngũ
đế", vì vậy, ông tự xưng là Thủy
Hoàng đế [Vị Hoàng đế đầu tiên].
Tâm lý của ông cũng giống như tâm lý
của các vị chủ tể các cõi trời, tự
xem mình là có một không hai. Thậm chí,
có vị còn tỏ ra kiêu mạn đối với
đức Phật nữa [xem Tạp A Hàm cuốn 44.
Các trang 1195-1196]. Kỳ thực, họ đâu
có phải là chúa sáng thế ? Vũ trụ
không thể nào so sức mạnh của bất
cứ vị Thần nào sáng tạo ra được.
Vũ trụ là do nghiệp lực
của chúng sinh cảm ứng mà có, nhiều
nhân duyên hòa hợp mà thành.
Như vậy, Phật giáo có
thừa nhận Thượng Đế tồn tại, nhưng
không cho rằng, Thượng Đế sáng tạo ra
vũ trụ.
Còn Thượng đế của triết
học chỉ là giả thiết của các triết
gia, là một loại quan niệm giả định,
chứ không phải là một đối tượng
thực chứng : vì vậy, Phật giáo không
tin ở sự tồn tại của Thượng đế
của triết học.
Có thể có những người
tin theo tôn giáo thần quyền nói rằng :
"Thượng đế có quyền thưởng phạt
người thiện, kẻ ác. Phật giáo đồ
không sợ Thượng đế hay sao"?
Đúng như vậy, vì Phật
giáo đồ không sùng bái Thượng đế
cho nên cũng không sợ Thượng đế,
Phật giáo đồ tin rằng, tất cả mọi
thiện thần trong ba giới, bao gồm cả
Thượng đế và các vị Thiên chủ của
28 cõi Trời đều tin theo Phật pháp, ủng
hộ Phật pháp; Phật giáo xem họ cũng
như các viên chức quân sự xem các vệ
binh giữ cửa thành. Vệ binh có quyền
kiểm soát sự ra vào cửa thành. Vệ
binh có quyền bắt giữ, tra hỏi bọn phá
hoại, bọn âm mưu lẻn vào cửa hành.
Còn các viên chức quân sự, hành
động theo đúng luật pháp, sao lại có
thể sợ vệ binh được ?
Phật giáo không cho rằng
Thượng Đế có năng lực sáng tạo
vạn vật, cũng không thừa nhận Thượng
Đế có quyền ban phúc giáng họa đối
với chúng sinh. Phật xem Thượng đế
cũng là một trong 6 loại chúng sinh; bất
quá vì ở các đời trước, có tu
phúc báo, cho nên ngày nay được sinh
lên các cõi Trời để hưởng lạc.
Nếu Thượng Đế có tham dự vào sự
nghiệp họa phúc của chúng sinh, cũng là
do sự cảm ứng của nghiệp lực
của loài người mà thôi. Đó là đạo
lý mà câu cách ngôn nói: "Tự
giúp thì người giúp", "Tự hại
thì người hại".
Một số học giả Nho giáo,
có đầu óc thành kiến hẹp hòi, ngay
hiện nay vẫn còn nhắm 2 mắt lại mà
gào thét, khích bác Phật giáo. Kỳ
thực, hiện nay, trong nền văn hóa Trung
Quốc, ngoại trừ những sản phẩm văn
hóa mới nhập khẩu gần đây, còn thì
hầu như không có lĩnh vực nào là
không mang nặng sắc thái Phật giáo.
Về mặt văn học, việc
phiên dịch Kinh Phật đã kích thích và
tạo thành cuộc cách mạng trong văn học
Trung Quốc, từ trong ý tứ thơ văn cho
tới sự diễn biến của thể văn, đều
xuất hiện một khí tượng mới, ngay từ
thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều. Đến
thời Lục triều do phải dịch âm chữ
Phạn, thí dụ dịch âm đầu đề Kinh Hoa
Nghiêm (Avatamsaka) mà đặt ra cách thức
dịch phép vần phiên thiết : 2 chữ Hán
thông dụng, rồi lấy phụ âm đầu của
chữ thứ nhất ghép với vần cuối của
chữ thứ hai tạo thành âm đọc của
chữ được chú âm : do ghép âm mà
sinh ra bốn thanh (tứ thanh) dựa vào bốn
thanh mà cải biến thơ 5 chữ và 7 chữ
thành luật. Người Trung Quốc xưa nay làm
văn, đều chủ trương đọc nhiều, xem
nhiều "đọc nát vạn quyển, hạ bút
như thần", "đọc thuộc 300 bài
thơ Đường, không biết làm thơ cũng
biết ngâm". Vì Trung Quốc là nước
vốn dường như không có lý thuyết
ngữ pháp, nhưng dưới đời nhà
Đường, do phiên dịch nhiều Kinh Phật cho
nên ngữ pháp Ấn Độ đã du nhập vào
Trung Quốc. Thí dụ : "Tám chuyển
thanh" tức danh từ, đại danh từ,
động từ, trợ từ v.v
Hay là như
thuyết "lục ly hợp thích" của
sách Phật cũng là một loại ngữ pháp
của chữ Phạn. Phần đông người bây
giờ coi Mã Văn Thông là ông Tổ của
ngữ pháp học Trung Quốc, thực ra vào
đời nhà Đường, Trung Quốc đã từng
có ngữ pháp học, nhưng chưa được
phổ cập sử dụng trong dân gian mà
thôi. Lại như cuốn "Văn tâm điêu
long" là một cuốn sách bàn về phép
làm văn và thể văn trong văn học sử
Trung Quốc, là một trước tác bất hủ
về phê bình văn học. Tác giả của nó
là Lưu Hiệp (Pháp danh Tuệ Đại là một
người sống trong chùa từ nhỏ, và
cuối đời đã xuất gia). Tác phẩm của
ông chịu ảnh hưởng của văn học Phật
giáo (chú 15).
Thể văn sau đời Đường,
phần lớn thiên về tả thực và lời
văn lưu loát, cũng là do ảnh hưởng
của văn học Phật giáo. Trải qua 2 đời
Tùy, Đường, đến đời Tống, các thể
loại như "đàn từ tiểu thuyết"
[kể chuyện đệm nhạc] và bình thoại
(kể truyện) xuất hiện đều là do ảnh
hưởng của thể "biến văn Phật
giáo". Các bài thơ đời Đường,
đời Tống giống như văn nói, thí dụ
các bài thơ của Bạch Lạc Thiên (tức
Bạch Cư Dị) và của Tô Đông Pha, đều
là loại thơ mới mang dấu ấn của Thiền
Tông
Lương Khải Siêu tiên sinh viết
: "Tập thơ dài đầu tiên trong các
bài thơ cổ của Trung Quốc", "tập
Khổng tước đông nam phi" chịu ảnh
hưởng của tập "Phật sở hành
tán" do đại sư Mã Minh sáng tác.
Các thiền sư lớn đời Đường, dùng
thể văn "ngữ lục" bạch thoại
để nói lên yếu lý của đạo Phật. Do
đó mà có sự xuất hiện các tập
ngữ lục của các nhà lý học đời
Tống và đời Minh, hoàn toàn viết theo
bút pháp "Thiền tông". Các tiểu
thuyết đời Minh và đời Thanh, viết theo
thể văn bình thoại hay là "phỏng
bình thoại", trong tiểu thuyết lại xen
có thơ, sau một đoạn tản văn lại có
những câu kết bằng thơ hoặc một bài
hát nói đệm nhạc có xen thể ca văn
xướng ngôn và bình thoại, rõ ràng
đều chịu ảnh hưởng của văn
"trường hành" và "kệ
tụng" trong kinh Phật. Nhờ phiên dịch
sách Phật, mà Trung Quốc có thêm 3 vạn
5000 từ mới.
Về mặt nghệ thuật : nền
kiến trúc Phật giáo đời Ngụy Tấn
vốn ảnh hưởng đến toàn bộ hình thái
kiến trúc của Trung Quốc. Kiến trúc
Phật giáo không có tính thực dụng của
kiến trúc phương Tây cận đại, nhưng do
ảnh hưởng của cảnh giới cõi Trời
hay cõi Phật được mô tả trong Kinh
Phật, cho nên mang đặc sắc của Phật
giáo nguyên thủy Ấn Độ : cảnh quan
được bố trí có nghệ thuật, trang
nghiêm, hùng vĩ. Kiến trúc tháp Phật
của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc
cũng đánh dấu một bước tiến bộ
mới trong lịch sử phát triển của ngành
kiến trúc ở Trung Quốc. Phật giáo du
nhập vào Trung Quốc đã đem theo nghệ
thuật đắp, nặn tượng. Trước đó ở
Trung Quốc chưa có kỹ thuật đắp, nặn
tượng. Tượng Phật giáo đời
Đường, cực kỳ đẹp đẽ. Khoảng mấy
chục năm trước đây, có người Nhật
Bản phát hiện ra tại một chùa ở Tô
châu có một bức tường gắn tượng
nặn, do người đời Đường xây dựng.
Bức tường này được ông Thái
Nguyên Bồi yêu cầu chính phủ bảo tồn,
gìn giữ. Động Long Môn ở Lạc Dương,
động Vân Cương ở Đại Đồng là
những công trình tượng Phật vĩ đại,
có trình độ nghệ thuật tinh xảo hình
ảnh sống động nó không những là kho
tàng quý báu của nghệ thuật Trung Quốc
và của cả thế giới. Về nghệ thuật
hội họa, phải nói tới các bức tranh
tượng ở Đôn Hoàng, nổi tiếng thế
giới. Đúng như "Mạc Đại
Nguyên" tiên sinh nói : "Động
Vân Cương và động Đôn Hoàng, động
Long Môn không khác gì ba viện bảo tàng
nghệ thuật vĩ đại của miền Bắc Trung
Quốc". Lại nói : "Từ đời Hậu
Hán trở đi, Phật giáo được truyền
vào, nền mỹ thuật Trung Quốc vốn là
mỹ thuật quý tộc, đã biến thành mỹ
thuật tôn giáo; trong lĩnh vực kiến
trúc thì từ lầu đài cung điện chuyển
sang bảo tháp, chùa chiền; trong lĩnh vực
tranh tượng thì tranh tượng vua quan
nhường chỗ cho tranh tượng Phật Bồ
tát; trong lĩnh vực công nghệ thì các
dụng cụ và đồ trang sức chuyển thành
đồ thờ cúng và pháp khí Phật giáo;
nhưng hình thức mỹ thuật đó, từ Hậu
Hán trở về sau, liên tục chiếm vị trí
cực kỳ trọng yếu trong lịch sử văn
hóa Trung Quốc" [Xem "Mỹ thuật
Phật giáo Trung Quốc"] nhờ có nhiều
bia ký Phật giáo được bảo tồn, mà
chúng ta giữ gìn được bút tích của
nhiều danh nhân nổi tiếng, là những
tài sản vô giá, nhờ có Phật giáo
mà được phổ cập trong dân gian.
"Ngư sơn phạn bối".
Là một loại âm nhạc Trung
Quốc theo Phạn âm Phật giáo. Sự phát
hiện ở động Đôn Hoàng cho biết là
trước khi kỹ thuật in sách của Phùng
Đạo xuất hiện thì ở thời đại Tùy
và Đường, đã có các kinh sách Phật
in bằng gỗ khắc.
Về phương diện khoa học,
trước khi Phật giáo du nhập vào Trung
Quốc, đã từng có môn học gọi là
"danh học" [tương tự như luận
lý học] của Đặng Tích, Huệ Thi Mặc
Tử và Tuân Tử. Thế nhưng, phải chờ
đến khi môn "Nhân Minh học" Phật
giáo truyền vào thì Trung Quốc mới bắt
đầu có được một nền luận lý học
hoàn chỉnh. Từ triều nhà Đường đến
triều nhà Minh, Trung Quốc đều dùng lịch
pháp của các thiền sư lập ra, căn cứ
vào thiên văn học của Ấn Độ.
Về mặt tôn giáo, triết
học, khi Phật giáo mới du nhập vào Trung
Quốc thì đạo giáo bài xích Phật giáo
rất kịch liệt. Nhưng đến thời đại
Ngụy và Tấn, thì khi giảng Phật học
người ta hay dẫn chứng Lão Trang và khi
giảng Lão Trang người ta lại hay dẫn
chứng kinh Phật. Từ đó về sau, kinh
sách đạo giáo ngày càng được hoàn
bị thêm và trên nhiều mặt đã dùng
tài liệu của Phật giáo; thí dụ : đạo
giáo đã tiếp thu và vận dụng khái
niệm về Diêm La và địa ngục của Phật
giáo. Trước khi Phật giáo đến Trung
Quốc thì ở Trung Quốc không có khái
niệm gì về Diêm La cả. Đến đời nhà
Tống, có Toàn Chân giáo xuất hiện. Về
căn bản, đó là đạo giáo được
Phật giáo hóa, nhờ tác dụng khích lệ
và mở đường của thiền tông mà nho
gia các đời Tống, Nguyên, Minh đã xây
dựng môn Lý học.
Căn bản đó là nho giáo
được Thiền hóa. Tuy rằng các nhà lý
học, vì thiên chấp, bản vị và nhãn quan
hạn hẹp mà trở lại công kích Phật
giáo, nhưng họ không khác gì "Ngồi
trên giường thiền mà mắng Thiền",
mà Thiền tông chỉ là một nhánh của
Phật giáo. Các nhà lý học đời Tống
và Minh đối với pháp môn Thiền tông
thì cũng chỉ mới hiểu một cách hời
hợt, nên không dám đi sâu, vì sợ
nếu đi sâu sẽ bỏ mất lập trường
của mình. Châu Hy là người xem sách
Phật tương đối nhiều và chính Châu Hy
đã thể nghiệm được điều đó. Các
nhà tư tưởng Trung Quốc ở thời cận
đại, như Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng,
Chương Bỉnh Lân, Lương Khải Siêu, Hồ
Thích, Lương Thấu Minh v.v
tuy rằng vị
tất đã tin Phật giáo, nhưng họ được
tư tưởng Phật giáo mở cho con đường
sáng tạo. Gần đây nhất (từ tháng 6
đến tháng 8 năm 1964 tại hội nghị các
triết gia Đông và Tây lần thứ 4 họp
tại Hạ Uy Di, ông Phương Đông Mỹ, đại
biểu của Trung Quốc cũng nhấn mạnh tinh
thần Phật giáo Đại thừa, và khả
năng của Phật giáo xây dựng một thế
giới tôn giáo. Nhà sử học Tiền Mục
tỏ ra hết sức kínhh trọng Phật giáo.
Triết gia Đường Quân Nghị tự nhận là
chịu ảnh hưởng khích lệ nhiều từ kinh
Viên Giác; có thể thấy Phật giáo đối
với Trung Quốc có sự cống hiến lớn,
trong quá khứ, hiện tại và tất nhiên
cả trong tương lai nữa. Không những
đối với Trung Quốc Phật giáo có cống
hiến như vậy, mà đối với cả nhân
loại cũng là như vậy.
Về mặt phong tục dân gian,
Trung Quốc vốn có tín ngưỡng đối với
Nho gia. Tín ngưỡng đó chú trọng xây
dựng cuộc sống nhân sinh hiện thực,
không có thời giờ tìm hiểu vấn đề
trước khi sinh và sau khi chết. Vì vậy
mà Khổng Tử nói : "Sống còn chưa
biết, sao có thể biết chết" ? Nho gia
gạt ra một bên, không bàn đến các
vấn đề trước khi sinh và sau khi chết,
cũng như vấn đề bản thể vũ trụ siêu
hình cho nên ông đã nói : "Tế thần
như thần tại". Nếu có nói tới
vấn đề thưởng phạt đối với thiện,
ác thì cũng chỉ mong cho con cháu sau này
được nhờ Kinh Thư nói : "Nhà tích
thiện thì niềm vui có dư, tích ác thì tai
họa có thừa". Chính là quan niệm
đó. Thực ra, nhìn vào hiện thực trong
lịch sử làm điều thiện để hy vọng con
cháu được nhờ là chuyện khó đảm
bảo. Thế nhưng từ khi Phật giáo được
truyền vào, thì thuyết Nhân quả
"trồng dưa được dưa, trồng đậu
được đậu", đã đem lại trong dân
gian Trung Quốc một niềm hy vọng mới,
mạnh mẽ. Phật giáo vạch rõ cho chúng ta
thấy vấn đề luân hồi sinh tử, vấn
đề thiện ác báo ứng ! Phật giáo cho
chúng ta biết, mọi người phải có thái
độ trách nhiệm đối với tất cả mọi
hành vi của mình, gặp lành hay gặp dữ
đều do ở nơi mình cả. Đời này không
thấy quả báo thì đời sau sẽ thấy.
Thuyết này cổ vũ mọi người hãy tích
cực bỏ ác làm lành. Thuyết này hàng
nghìn năm nay đã có một ảnh hưởng
sâu sắc và lớn lao đến sự ổn định
xã hội và nhân tâm Trung Quốc, quả
thực không thể nào đánh giá hết
được.
Phẩm "Du già chân thực
nghĩa" gọi chân lý là chân thực,
chia làm 4 loại lớn, gọi là bốn loại
chân thực.
1. Thế gian cực thành
chân thực : chỉ cho những chân thực
thường thức, tùy loại và tùy tục.
Lại chia làm 2 loại
a- Chân
thực phi thế gian, không thuộc nhân
loại.
b- Chân
thực thế gian, thuộc nhân loại, do tự
nhiên hay tập quán, huyễn giác mà
thành.
2. Đạo lý cực thành
chân thực : chỉ cho những chân
thực, có tính lý luận, do các học
thuật gia nghiên cứu, suy diễn ra, lại
chia thành 4 loại :
a- Chân
thực do các khoa học gia thực nghiệm mà
có được.
b- Chân
thực do các triết gia tư biện mà có
được.
c- Chân
thực do các nhà thần giáo tín ngưỡng,
cảm ứng mà chứng đắc.
d- Chân
thực do các nhà tu định ngồi thiền mà
chứng đắc.
3. Chân thực do trí tuệ
thanh tịnh đã đoạn trừ phiền não
chướng chứng đắc. Đó là chân
thực do các bậc thánh xuất thế dùng
trí tuệ giải thoát mà chứng được.
Lại chia làm 2 loại :
a- Chân
thực ngã không do hàng Thanh văn Duyên
giác, tức là các Thánh Tiểu thừa
chứng đắc.
b- Chân
thực một phần ngã không do các bậc
Thánh Đại thừa chứng được.
4. Chân thực do trí tuệ
thanh tịnh đã đoạn trừ sở tri
chướng, chứng được. Đó là chân
thực pháp không do các bậc thánh Đại
thừa giác ngộ chính biến tri, chứng
được. Chia làm 2 loại :
a- Chân
thực pháp không do Bồ Tát chứng
được một phần.
b- Chân
thực pháp không do Phật chứng đắc
một cách viên mãn, tròn đầy.
Phật giáo không bao giờ
phủ định chân lý của người khác một
cách vũ đoán và nông nổi. Phật giáo
chỉ sắp xếp các chân lý thành chủng
loại và đẳng cấp, thừa nhận các
loại chân lý đó đều có vị trí và
giá trị của chúng.
Có một loại thần giáo
ngoại đạo, thường mạt sát tất cả
mọi giá trị, khác biệt với những giá
trị mà mình thừa nhận, chụp cho chúng
cái mũ ma quỷ. Phật giáo quyết không
có thái độ độc đoán như vậy. Như
trên nêu rõ, Phật giáo chấp nhận có 4
loại chân thực, tức là chân lý,
chúng chỉ có sự phân biệt theo nặng
nhẹ, cao thấp mà thôi.
Sự thực, cái gọi là
chân lý thế gian, chân lý thường
thức, thường là không chịu đựng nổi
khảo nghiệm. Chân lý thường thức
thời cổ đại, sang tới các đời sau,
trở thành câu chuyện bông đùa. Chân
lý thường thức ở xứ A, đến xứ B
chỉ là chuyện suông tình ! Còn cái chân
lý do các học giả phát minh ra, thì hoặc
là do hóa nghiệm mà có, hoặc là do suy
lý mà được, hoặc là do cảm ứng
thần linh, hay là do rèn luyện thân tâm,
ngồi thiền điều hòa hơi thở mà
chứng đắc, dù chỉ là những chân lý
bộ phận, tạm thời, huyễn giả, cục
bộ, giả thiết chứ không phải là chân
lý vĩnh hằng bất biến.
Chân lý của Phật giáo là
kết quả đạt được, sau khi đã chứng
ngã không và pháp không. Chứng được
ngã không thì đoạn trừ hết phiền não
chướng, chứng được pháp không thì
đoạn trừ hết sở tri chướng. Sau khi
chứng ngã không thì giải thoát khỏi
sinh tử. Sau khi chứng pháp không thì
không trụ ở Niết Bàn. Kinh Kim Cương
viết : "Không có ngã tướng, nhân
tướng, chúng sinh tướng, thọ giả
tướng". Đó là cảnh giới ngã
không, còn "phiền não tức Bồ đề
[chính giác]" sinh tử tức Niết Bàn
[Tịch diệt], đó chính là cảnh giới
pháp không. Cảnh giới trung đạo diệu
lý phi không phi hữu, không thiên chấp
bên nào thì cũng có những người
chứng được pháp không mới tự
mình thể nghiệm được.
Chân lý rốt ráo của Phật
giáo, tức là chân lý ngã không và
pháp không - Không phải là pháp thế
gian, không thể mô tả bằng lời nói,
chân lý đó "Xa lìa tướng danh
ngôn, tâm tư cũng không nghĩ bàn
được". Đó là chân lý rốt ráo,
mà tính Phật miễn cưỡng gọi là
"chân pháp giới" là "Lý
chân như". Thế nhưng, chân lý rốt
ráo đó của Phật giáo, tuy là không
đặt tên được, không nghĩ bàn
được, nhưng nó vẫn không tách rời
muôn vàn hiện tượng thế gian, và mỗi
hiện tượng thế gian là một bộ phận
của chân lý rốt ráo đó. Vì vậy mà
đại sư Tổ Huệ Năng của Thiền tông
nói rằng : "Phật pháp là ở trong
thế gian, không tách rời thế gian mà
giác ngộ được; nếu tách khỏi thế
gian đi tìm đạo Bồ đề, cũng không
khác gì đi tìm sừng thỏ vậy". Mục
đích của Phật giáo là giảng lý không;
xóa bỏ phiền não chướng của ngã
chấp, xóa bỏ sở tri chướng của pháp
chấp, chứ không phải phủ định vạn
tượng của thế gian. Chân lý Phật giáo
nằm trong chữ "giác ngộ". Chỉ
có tự giác mới thoát khỏi sinh tử.
Chỉ có tự giác giác tha mới có thể
độ chúng sinh; chỉ có giác hành viên
mãn mới có thể thành Phật.
Hòa thượng, ni cô, cư sĩ
đều là những danh từ hết sức thông
tục, nhưng e rằng, số người hiểu rõ
nghĩa của những danh từ ấy không
nhiều.
Theo quan niệm của người
Trung Quốc, thì Hòa thượng là người
xuất gia và với thân phận là người
xuất gia thì "trên ngồi cùng chiếu
với vua, dưới cùng đi với kẻ ăn
mày" nghĩa là cao sang thì rất cao sang,
hèn nghèo thì rất hèn nghèo. Nếu là
đứng đầu một chùa trong đại tùng
lâm thì gọi là Phương trượng hòa
thượng là tôn nghiêm biết bao. Nhưng
người nông dân quê mùa ở làng đẻ
con sợ không giáo dục được, cũng
lại gọi nó là hòa thượng ! Kỳ cục
thật !.
Từ Hòa thượng có ý
từ gì ? Người ta thường giải thích
hòa thượng là Hòa trung tối thượng
(nghĩa là cao nhất trong sự hòa hợp) hay
là "dĩ hòa vi thượng" (nghĩa là
quý nhất là sự hòa hợp). Bởi vì
người xuất gia phải sống theo nếp sống
"sáu hòa hợp" của tăng đoàn.
Đó là : giới hòa đồng tu (cùng tu
giới luật), kiến hòa đồng giải (cùng
kiến giải như nhau), lợi hòa đồng quân
(lợi cùng chia đều), thân hòa đồng
trụ (cùng ở một nơi), khẩu hòa vô
tránh (không tranh cãi nhau), ý hòa đồng
duyệt (ý hòa vui vẻ). Cách giải thích
này cũng tựa hồ có lý. Nhưng tôi có
tra cứu từ nguyên, mới thấy cách
giải thích trên là không đúng.
Hòa thượng hoàn toàn là
do dịch âm từ một từ ngữ Tây vực
(Trung Á) ở Ấn Độ, gọi các nhà bác
học thế gian là Ô tà. Qua tới nước
Vu Điền (Trung Á) thì gọi là Hòa Xã hay
Hòa xà (khosha), qua Trung Quốc, bèn gọi
là Hòa thượng (Xem Ký quy truyện và bí
tạng ký bản). Vì vậy mà ngoại đạo
ở Ấn Độ cũng có Hòa thượng và
Hòa thượng ni [Tạp A Hàm quyển 9, tr.
253, 255].
Như vậy, từ Hòa thượng
không phải là từ riêng của Phật
giáo, nhưng có căn cứ trong Phật giáo.
Luật tạng Phật giáo gọi các vị sư
truyền giới và độ cho người khác
xuất gia là Opađàgia (Upadhyaya). Từ
Hòa xà là dịch âm từ Upadhyaya,
rồi sau đổi thành Hòa thượng. Trong
sách Hán người dùng từ Hòa thượng
sớm nhất là vua Thạch Lặc, ông gọi
Tăng sĩ Ấn Độ Phật Đồ Trừng là :
"Đại Hòa thượng".
Nhưng, đôi khi, trong luật,
thay vì chữ Hòa thượng người ta dùng
chữ Hòa thượng để tránh hiểu lầm,
vì rằng, căn cứ nội dung chữ Upadhyaya,
thì nên dịch là Thân giáo sư (ông thầy
thân cận). Chỉ có những tu sĩ đã thụ
giới tỷ khiêu trên 10 năm, biết rõ 2
bộ luật tỷ khiêu và tỷ khiêu ni, mới
có khả năng độ cho người khác xuất
gia, và truyền giới cho người khác,
mới có thể được gọi là Upadhyaya.
Như thế là có khác với từ Ô tà
(là bác sĩ) ở Ấn Độ, cũng khác
với từ Hòa thượng do Trung Quốc dịch
sai (lão tăng là lão hòa thượng, Sa di
là tiểu hòa thượng, và trẻ con ở
nông thôn, không lớn lên được cũng
gọi là hòa thượng !).
Trong Luật Phật giáo,
người mới xuất gia gọi là Sa di. Sa di
có nghĩa là "siêng năng bỏ ác làm
thiện". Khi đủ 20 tuổi đới, và
thụ giới tỷ khiêu, thì được gọi là
tỷ khiêu (nghĩa là khất sĩ, người ăn
xin). Trên thì ăn xin Phật Pháp, dưới
thì ăn xin đồ ăn, đồ uống. Có
người Trung Quốc giải thích Tỳ kheo là
so với ông Khưu, tức ông Khổng tử.
Giải thích như vậy là chuyện trò đùa.
Thụ giới tỳ kheo trong vòng 5 năm cũng
chưa được làm thầy dạy đối với
các bạn đồng đạo xuất gia. Sau 5 năm,
lại thông hiểu giới luật, mới có tư
cách làm thầy dạy, gọi là Quỹ phạm
sư, từ Ấn Độ gọi là "A xà lê
gia", làm nơi nương tựa cho người
khác, dạy học cho người khác. Trải qua
hơn 10 năm rồi mới được gọi là
"Thân giáo sư", trải qua 20 năm
nữa, được gọi là Thượng tọa, và
sau 50 năm mới được tôn gọi là bậc
"Trưởng Lão Tôn túc". Có thể
nói, hiện nay, ở Trung Quốc, người ta
dùng từ "Hòa thượng", không
đúng với luật chế nhà Phật.
Từ "Ni cô" thường
được dùng để chỉ người phụ nữ
xuất gia.
Ở Ấn Độ, người ta dùng
chữ ni để chỉ phụ nữ, với ý tứ
tôn kính, chứ không dùng chữ ni để
chỉ riêng người phụ nữ xuất gia. Trong
Phật giáo, phụ nữ mới xuất gia gọi
là "Sadini" xuất gia lâu năm, thụ
giới tỳ kheo ni, gọi là Tỳ kheo ni.
Dân Trung Quốc, người con
gái chưa lấy chồng gọi là cô, vì vậy
gọi Sadini và Tỳ kheo ni là ni cô, gọi
như vậy cũng không có gì là coi
thường. Vì vậy mà trong sách Truyền
đăng lục, các bậc đạo đức gọi các
sư cô là ni cô. Thế nhưng, từ khi ông
Đào Tôn Nghi, đời nhà Minh viết cuốn
Huế canh lục xếp ni cô vào hàng "Tam
cô lục bà" thì từ ni cô mới có
ý tứ khinh miệt. Do đó, thời gian gần
đây, ni chúng không muốn người tại gia
gọi họ là ni cô.
Dựa vào chữ Phạn, ni
nghĩa là nữ. Nếu thêm chữ cô nữa,
thành ra nữ cô. Theo văn mà hiểu nghĩa
thì dùng từ như vậy là không thông
rồi. Nữ là phân biệt với nam. Có
nữ cô thì phải có nam cô chăng ? Đã
dùng chữ cô thì phải có đối từ,
như gọi nữ đạo sĩ là nữ đạo cô;
tỳ kheo ni gọi là Phật cô; nữ tu sĩ
của đạo Gia Tô cũng nên gọi là Gia
cô nếu không thì xem nặng bên này, xem
nhẹ bên kia là không phải.
Từ "cư sĩ" cũng
không phải là từ riêng của Phật
giáo. Trong sách Lễ ký của Trung Quốc,
vốn có từ ngữ "cư sĩ cẩm
tịch" nghĩa là chiếu gấm cho cư sĩ.
Cư sĩ vốn có nghĩa là ẩn sĩ có học.
Ở Ấn Độ, từ cư sĩ
cũng không phải là từ ngữ do Phật
giáo tạo ra. Chữ Phạn gọi cư sĩ là Ca
La Việt dù là có tin Phật hay không,
đã là học giả tại gia thì gọi là cư
sĩ.
Phật giáo gọi Phật tử
tại gia là cư sĩ, bắt đầu từ kinh
"Duy Ma Cật". Trong kinh, ông Duy Ma
Cật có 4 tên gọi : Phẩm "Phương
tiện" gọi là Trưởng giả. Phẩm
"Văn Thù thăm bệnh" gọi ông
là Thượng nhân và Đại sĩ. Phẩm
"Bồ Tát" gọi ông là Cư sĩ. Theo
sự giải thích của các ngài La Thập,
Trí Giả, Huyền Trang v.v
thì Duy Ma Cật
là một vị Bồ Tát sắp thành Phật
[Nhất sinh Bổ xứ Bồ Tát] ở cõi Phật
A Sơ tại phương Đông, và thị hiện
thành tướng người tại gia để hóa
độ chúng sinh. Vì vậy, dùng từ cư sĩ
để gọi Phật tử tại gia là có hàm
ý xem cư sĩ là đại Bồ tát. Có thể
thấy, một cư sĩ xứng đáng với tên
gọi đó phải là một vị Bồ Tát Đại
thừa, quyết không phải là một ẩn sĩ.
Thế nhưng, trong Kinh Trường
A Hàm, lại gọi đẳng cấp thứ ba, tức
đẳng cấp Phệ Xá là cư sĩ, lại cũng
gọi vị quan coi ngân khố quốc gia là
"cư sĩ báu", như vậy từ cư sĩ
có các nghĩa thương nhân, nhà kinh doanh,
nhà doanh nghiệp.
Trong sách Luật Hữu Bộ -
Tạp sự quyển 13, Tỳ kheo chia làm 5 loại
kinh sư, luật sư, luận sư, pháp sư và
thiền sư. Giới tụng kinh là kinh sư,
giỏi giữ luật là luật sư. Giỏi về
nghĩa lý của Luận thì gọi là luận sư.
Giỏi thuyết pháp là pháp sư. Giỏi tu
thiền là thiền sư. Thế nhưng trong Phật
giáo Trung Quốc, người ta ít nói tới
Kinh sư và luật sư; còn luận sư, pháp
sư và thiền sư thì được nói tới
rất nhiều.
Từ Thiền sư vốn được
dùng để chỉ vị tỳ kheo tu thiền. Vì
vậy, cuốn "Tam đức chỉ quy"
quyển 3 viết "Tu tâm tịnh lự là
thiền sư". Nhưng ở Trung Quốc, từ
Thiền sư được dùng trong 2 trường
hợp : Một là nhà vua dùng từ
"thiền sư" khi phong tặng những
tỳ kheo có đức có học. Như vua Trần
Tuyên Đế, năm Đại Kiến nguyên niên,
phong Hòa thượng Huệ Tư ở Nam Nhạc là
Đại thiền sư. Vua Đường Trung Tông,
năm thứ 2 niên hiệu Thần Long, sắc phong
Hòa thượng Thần Tú là Đại Thông
thiền sư. Trường hợp thứ 2 là tăng
sĩ ngày nay tôn gọi các cao tăng tiền
bối là thiền sư. Càng về sau, bất cứ
một tỳ kheo nào có đôi chút danh vọng,
đều được tôn gọi là thiền sư.
Từ "luật sư" chỉ cho những tỳ
kheo khéo giữ gìn và giải thích giới
luật. Chỉ xứng đáng gọi là luật sư,
những vị tỳ kheo học giới, trì giới,
khéo giải thích, xử lý, và giải đáp
mọi vấn đề có liên quan tới giới
luật. Địa vị của luật sư trong Phật
giáo tương đương với học giả pháp
luật, pháp quan, đại pháp quan ở thế
gian. Các tỳ kheo và tỳ kheo ni nói chung,
tuy giữ giới không phạm, nhưng chưa
chắc đã thông hiểu toàn bộ luật
tạng. Cho nên một tỳ kheo, muốn trở
thành một luật sư xứng đáng với tên
gọi đó, cũng không phải là chuyện
đơn giản. Pháp sư là người khéo học
Phật pháp và khéo thuyết pháp. Trong quan
niệm của mọi người nói chung, pháp sư
phải là tỳ kheo. Kỳ thực thì không
phải. Trong sách Phật, quan niệm về Pháp
sư rất là rộng rãi, và không hạn chế
ở Tăng ni. Như Phẩm Tựa trong kinh Pháp
Hoa viết : "Thường tu Phạm hạnh, gọi
là pháp sư". Sách Tam Đức chỉ quy,
quyển I viết : "Tinh thông kinh luật
gọi là pháp sư". Sách "Nhân Minh
đại sớ" viết: "Pháp sư là
bậc thầy thực hành Phật Pháp".
Lại có người cho rằng lấy Phật Pháp
tự dạy mình và dạy người gọi là
pháp sư. Do đó, cư sĩ tại gia cũng có
tư cách gọi là pháp sư. Thậm chí, súc
sinh như loại giã can [giống như chồn
nhưng thân nhỏ] khéo thuyết pháp cũng
tự xưng là pháp sư đối với Thiên
Đế. [Vua Đế Thích. Người dịch chú]. Vì
lý do ấy cho nên, Lão giáo chịu ảnh
hưởng của đạo Phật, gọi các đạo sĩ
giỏi bùa chú là pháp sư. Có thể
thấy, từ pháp sư không phải là từ
chuyên dụng để chỉ tỳ kheo Phật giáo.
Theo yêu cầu do Phật chế định, tôi cho
rằng, người xuất gia theo đạo Phật,
đối với người thế tục nên tự xưng
là tỳ kheo (Sadi) hay tỳ kheo ni (Sadini), hay
tự xưng là Sa môn. Tín đồ tại gia,
đối với người xuất gia, có thể nhất
luật gọi A xà lê (hay Sư phụ), cư sĩ
tự gọi là đệ tử, nếu không muốn
thì gọi bằng tên họ mình. Cũng có
người tự gọi là "học nhân"
nhưng theo nghĩa Kinh Phật thì từ học
nhân chỉ cho các bậc Thánh chứng sơ
quả, nhị quả hay tam quả. Người xuất gia
thì gọi là xuất gia; nếu là trưởng
lão thì gọi là trưởng lão; Thượng
tọa thì gọi là Thượng tọa. Nếu bằng
vai với nhau, thì gọi là "tôn
giả", hay một cách thân thiết, gọi
là anh, là sư. Trong thời Phật còn tại
thế, hàng tỳ kheo xưng hô với nhau,
thường là bằng tên họ đạo; Tỳ kheo
gọi tỳ kheo ni là chị, em. Trong ni chúng,
cũng dùng các từ hương lão, thượng
tọa tương đương với bên tăng; bằng
vai vế nhau thì gọi là chị, là em. Còn
người ngoài gọi tỳ kheo và tỳ kheo ni
thì theo tập quán. Nếu vị tỳ kheo đó
đích xác có tư cách là thiền sư, luật
sư, pháp sư, thì cứ gọi họ bằng các
xưng hô đó. Như ngày nay có thông lệ
gọi tỳ kheo, tỳ kheo ni đều là pháp sư
cả, không kể trình độ và tư cách họ
thế nào, thì quả là không hợp với
yêu cầu vậy.
Đúng như vậy, nhiều người hiện nay
không hiểu rõ La Hán, Bồ Tát, Phật là
gì. Thậm chí có những Phật tử tin
Phật đã lâu năm cũng mờ mịt đối
với ý nghĩa các từ đó.
Theo nhận thức của Phật giáo Bắc
truyền, Phật giáo chia thành Đại thừa
và Tiểu thừa. Tiểu thừa chuyên tu
đạo giải thoát. Đại thừa chuyên tu
đạo Bồ Tát. Đại Bồ Tát là kết
hợp "nhân thiên đạo" với
"giải thoát đạo", nghĩa là,
giải thoát khỏi sinh tử mà vẫn không
lìa sinh tử, để có thể hóa độ
những chúng sinh có duyên, đó chính là
đạo Bồ Tát Đại thừa.
Quả vị cao nhất của đạo giải thoát là
A La Hán; La Hán là bậc Thánh của Tiểu
thừa. Có 2 quả vị cao nhất của Tiểu
thừa. Một là quả vị Thánh hàng Thanh
Văn, nhờ nghe Phật thuyết pháp, tu tập
pháp Bốn Đế (khổ, tập, diệt, đạo)
và 37 phẩm bồ đề mà được giải
thoát, đó là La Hán. Hai là quả vị
của những bậc thánh, sinh vào thời
không có Phật, nhưng nhờ tu pháp 12
nhân duyên (vô minh, hành, thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ,
hữu, sinh, lão tử) mà chứng đạo
giải thoát, ra khỏi sinh tử. Phật giáo
gọi các bậc Thánh này là Duyên Giác
hay Bích Chi Phật. Thanh Văn và Duyên Giác
đều thuộc Tiểu thừa. Tiểu thừa lại
chia thành Thanh Văn thừa và Duyên Giác
thừa, cho nên cũng gọi Tiểu thừa là
nhị thừa (2 thừa). Các bậc nhị thừa
cầu ra khỏi sinh tử, nhập Niết Bàn. Họ
nhàm chán cõi sinh tử của loài người
và loài trời, vì vậy, họ không nguyện
trở lại hóa độ chúng sinh. Họ không
thể gọi là Bồ Tát, cũng không thể
thành Phật.
Nếu muốn thành Phật thì phải hành đạo
Bồ Tát. Pháp môn chủ yếu của đạo
Bồ Tát là sáu độ. Bố thí [pháp thí,
tài thí, vô úy thí] (1). Giữ
giới (không làm điều ác, làm mọi
điều lành). Nhẫn nhục (nhẫn điều khó
nhẫn, làm điều khó làm). Tinh tấn
(tiến thẳng ra đằng trước, gặp khó
không nản). Thiền định (chuyên chú vào
một đối tượng, không giao động). Trí
tuệ (chiếu sáng bản thân, chiếu sáng
người khác). Ba tụ giới (tu mọi tịnh
giới, làm mọi điều lành, hóa độ
chúng sinh). Từ lúc ban đầu, phát tâm
tối thượng, tức là phát Bồ đề
tâm, từ bi tâm, không tuệ tâm, trải
qua ba đại kiếp vô lượng, mới đạt
được mục đích thành Phật. Đạo Bồ
Tát, hàng Tiểu thừa không giống. Cho
nên gọi là "nhất thừa".
Đạo nhân thiên là pháp môn lành, tu
tập để được tái sinh làm người hay
làm loài trời. Tiểu thừa tuy không
thích thú gì đạo nhân thiên, nhưng cũng
không phủ định giá trị của đạo nhân
thiên, đạo giải thoát của Tiểu thừa
cũng chỉ là đạo nhân thiên được
nâng cao và thăng hoa. Pháp lành của
nhân thiên cũng là nền tảng của đạo
nhất thừa của Bồ Tát. Do đó pháp
lành của nhân thừa và thiên thừa, 5
giới, 10 thiện là pháp lành chung cho cả
nhị thừa và nhất thừa, cho nên nói
pháp lành của nhân và thiên là pháp
chung cho cả 5 thừa (Nhân, Thiên, Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát).
Đạo giải thoát của Tiểu thừa hay Nhị
thừa cũng là pháp môn chung cho cả
đạo Bồ Tát nữa. Nếu Bồ Tát mà
không tu đạo giải thoát thì sẽ không
phải là Bồ Tát mà chỉ là nhân thiên
đạo. Vì vậy mà đạo giải thoát của
Tiểu thừa được gọi là pháp môn
chung cho cả ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác
và Bồ Tát.
Chỉ có đạo Bồ Tát mới là pháp môn
riêng của Đại thừa hay nhất thừa.
Để tiện ghi nhớ, xin vẽ biểu đồ như
sau :
___________________
(1) Nhân thiên đạo : con đường tu tập, cầu tái sinh ở cõi Trời và cõi người (người dịch chú).
Qua biểu đồ này
thấy rằng, Bồ Tát đạo tuy là pháp
môn riêng của một thừa, nhưng lại là
nơi hướng về của cả 5 thừa vì pháp
chung của ba thừa (ngũ thừa cộng pháp,
tam thừa cộng pháp). Tiểu thừa tuy là
pháp chung của ba thừa, nhưng cũng là
pháp chung của 5 thừa được thăng hoa
lên (nâng cao lên) mà thôi : Pháp chung
của 5 thừa, tuy có tên chung 5 thừa,
nhưng chỉ là thiện pháp của nhân thừa
và thiên thừa.
[Lấy ngũ thừa cộng pháp,
tam thừa cộng pháp và Đại thừa bất
cộng pháp, thâu nhiếp toàn bộ Phật
pháp. Đó là một sáng kiến của đại
sư Thái Hư].
Nhân thiên thừa là pháp
thế gian, là pháp sinh tử, không thể
đưa người ra khỏi biển khổ sinh tử
được. Các bậc thánh mà nói, pháp
thế gian là pháp hữu lậu. Các bậc
thánh Tiểu thừa đều là những bậc
thánh xuất thế, không còn bị sinh tử
chi phối, vì vậy pháp xuất thế được
gọi là pháp vô lậu.
Trong hàng Bồ tát, có
người là phàm phu, có người là
Thánh. Bồ Tát chia thành 52 thứ bậc :
Thập tín, thập trụ, thập hành, thập
hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu
giác : Bốn mươi thứ bậc trước khi
đạt thập địa đều là phàm phu. Mười
hai thứ bậc từ sơ địa trở lên mới
là hàng Thánh. Bồ Tát nêu ra ở trong
đồ biểu là Thánh Bồ Tát. Trong kinh
Phật, thông thường khi nói Bồ Tát mà
không ghi rõ là Địa tiền Bồ Tát [Bồ
Tát trước khi đạt tới sơ địa] thì
đó là Thánh Bồ Tát.
Các bậc Thánh Tiểu thừa
không cần thành Phật mà chỉ cần nhập
Niết Bàn. Về bản chất mà nói, cảnh
giới Niết Bàn của Tiểu thừa, sau khi
nhập Niết Bàn rồi, bèn ở luôn tại
đấy, không còn độ chúng sinh nữa.
Còn Niết Bàn của Đại thừa thì tuy
nhập Niết Bàn nhưng không ở lại Niết
Bàn, và cho rằng sinh tử với Niết Bàn
là cùng một thể, vì vậy mới có câu
: "Sinh tử tức Niết Bàn",
"Vô trụ xứ Niết Bàn". Đó là
cảnh giới của các bậc Thánh Đại
thừa.
Niết Bàn của Tiểu thừa,
là do đoạn ngã chấp và phiền não
chướng, vì vậy A La Hán của Tiểu
thừa, về cảnh giới giải thoát mà
nói, là tương đương với Bồ Tát thất
địa hay bát địa, của Thông giáo. Bậc
Thánh của đạo Bồ Tát là do đoạn một
phần pháp chấp và sở tri chướng một
phần ngã chấp và phiền não chướng,
mà tự mình chứng được một phần
của Pháp tính chân như và tiến vào
hàng sơ địa. Về mặt trình độ đoạn
phiền não chướng mà nói thì A La Hán
tương đương với Bồ Tát Thất địa
hoặc Bát địa; đứng về trình độ
đoạn sở tri chướng mà nói thì La Hán
chỉ mới tương đương với Bồ Tát đệ
nhất tín vị.
Bởi vì, đoạn phiền não
chướng (ngã không) tức là thoát khỏi
sinh tử. Còn đoạn sở tri chướng
(pháp không) tức là không lìa sinh tử.
Giải thoát sinh tử tức là nhập Niết
Bàn. Không lìa sinh tử tức là độ
chúng sinh : giải thoát là tuệ nghiệp;
độ sinh là phúc nghiệp. Cả phúc và
tuệ đều tu là Bồ Tát. Cả phúc và
tuệ đều tròn đầy là thành Phật. Do
vậy, đứng về phúc nghiệp độ sinh mà
nói, La Hán chỉ tương đương với bậc
thứ bảy của Bồ Tát sơ phát tâm, còn
kém sơ địa Bồ Tát đến 33 bậc. Trên
toàn bộ lộ trình thành Phật, vị Bồ
tát sơ địa đã đi được 1/3 đường
(đã đi hết A tăng kỳ kiếp thứ nhất).
Bát địa Bồ Tát đã đi xong 2/3 con
đường (A tăng kỳ kiếp thứ hai). Còn
vị Bồ Tát thập tín vị chỉ mới ở giai
đoạn chuẩn bị vào ba A tăng kỳ kiếp
mà thôi !
Do đó, một vị A La Hán,
muốn thành Phật thì phải từ Tiểu
thừa quay về Đại thừa, và tiến dần
dần từ đệ thất tín vị trở đi. Nhưng
vị A La Hán, sau khi nhập Niết Bàn trong
thời gian ngắn rất khó bỏ Tiểu thừa
hướng về Đại thừa. Vì vậy, tu theo
Tiểu thừa, hầu như cắt đứt duyên
với đạo thành Phật. Do đó, có kinh
luận Đại thừa kích bác đồng loạt cả
Tiểu thừa và ngoại đạo. Thực ra, theo
quan điểm của Kinh Pháp Hoa thì vị A La
Hán chân chính nhất định sẽ lìa bỏ
Tiểu thừa, hướng về Đại thừa. Trong
Hội Pháp Hoa, phần lớn các bậc đại
tỳ kheo và tỳ kheo ni đều là những
bậc A La Hán từ Tiểu thừa hướng
tới Đại thừa.
Bỏ Tiểu thừa, hướng
tới Đại thừa có 2 loại người : Một
loại là, từ trước tới nay, vốn tu
theo Tiểu thừa, nay từ quả vị La Hán
chuyển sang Đại thừa thì phải từ ở
thứ bậc thất tín vị của Đại thừa
mà tu theo Pháp Đại thừa, rồi sau khi
chứng quả La Hán lại tu theo Đại thừa.
Đối với loại này, phải tính cả giai
đoạn trước đây đã tu theo Đại
thừa. Thí dụ, ngài Xá Lợi Phất, trong
các kiếp sống trước đã từng tu theo
Đại thừa, đến cấp "Đệ thất
trụ"; sau chuyển sang tu theo Tiểu
thừa, chứng quả A La Hán rồi lại
chuyển sang Đại thừa. Nói chung là, nếu
trước đây đã tu theo Đại thừa, sau
quay sang Tiểu thừa, rồi lại trở về
Đại thừa, thì chỉ cần một niệm hồi
tâm là có thể chứng nhập sơ trụ vị
của Bồ tát. Hoặc là đã có được
cơ sở tu Đại thừa sâu dày, nhưng vẫn
quay sang Tiểu thừa, sau đó lại hướng
về Đại thừa thì chỉ cần một niệm
hồi tâm là có thể chứng nhập hàng
bậc Thánh Bồ Tát từ sơ địa trở
lên. Đương nhiên, vị A La Hán bỏ Tiểu
hướng Đại, đã là bậc Thánh Đại
thừa mà phúc nghiệp chưa đầy đủ. Do
trình độ trí tuệ và công phu tu đạo
giải thoát vốn có cho nên vị ấy không
bao giờ thoái lui xuống địa vị phàm phu
nữa.
Phật là từ gọi tắt của
Phật đà. Quả vị Phật là quả vị cứu
kính tột cùng của đạo Bồ Tát, cho nên
có thể gọi Phật là vị Bồ Tát cứu
kính. Quả vị Phật cũng là quả vị cứu
kính của đạo giải thoát, cho nên cũng
gọi là Phật là vị A La Hán cứu kính.
Từ A La Hán có nghĩa là xứng đáng
làm ruộng phúc cho loài trời và loài
người, xứng đáng được trời và
người cúng dường. Vì vậy "ứng
cúng" là một trong 10 hiệu của Phật.
Phật có nghĩa là bậc giác ngộ chân
chính, cùng khắp, vô thượng, bậc tự
giác, giác tha và giác hành đầy đủ.
Bồ Tát là giác hữu tình, có nghĩa là
tự giác, giác tha và giác chân chính,
cùng khắp. Thanh Văn, Duyên Giác đều
có nghĩa tự giác và chính giác. Phàm
phu ở loài trời và loài người đều
là những kẻ si mê chưa được chính
giác.
Nay, dùng biểu đồ phân biệt 5 thừa theo tiêu chuẩn trình độ giác ngộ như sau:
Lại còn một điểm
nữa, là hình thức sinh hoạt của A La
Hán theo truyền thuyết của Trung Quốc,
cần phải được sửa chữa thanh lọc
lại. Phật giáo đồ Trung Quốc, vì thấy
trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, có
những chuyện kỳ lạ như Hàn Sơn, Thập
Đắc, Phong Can, Bố đại hòa thượng
v.v
nhưng chuyện như Nam tuyền chém
mèo quy tôn giết rắn hoặc có người
chèo thuyền trên sông, có người sống
một mình trên đảo hoang, có người
sống hòa mình vào cảnh trần tục của
thị trấn, có người bắn cung, múa dao,
có người múa hát theo phụ nữ, có
người nhậu nhẹt rượu thịt, đó là
những cái gọi là tác phong siêu Tổ
vượt Phật của Thiền tông ! Do đó mà
đôi khi nhận lầm những phần tử xuất
gia, phá giới, sống bẩn thỉu và lười
biếng, là A La Hán hóa hiện ! Ở Trung
Quốc, tranh và tượng A La Hán cũng
thường dựng lên những mẫu người
quái dị, quần áo lôi thôi, mồm răng
rộng hoác, ngó bộ rất đáng ghét.
Sự thực thì trong kinh điển Tiểu thừa,
các vị A La Hán đều là các bậc Thánh
tăng giữ gìn giới luật nghiêm túc.
Và chỉ có bọn ác tăng, vi phạm giới
luật mới na ná giống như tranh và
tượng Trung Quốc miêu tả mà thôi. Nếu
chúng ta không thay đổi quan niệm này thì
đó là một sự lăng nhục đối với
các bậc A La Hán.
Ngược lại, dưới con mắt của người
Trung Quốc, Bồ Tát lại có tướng mạo
thùy mị, trang nghiêm đặc biệt. Kỳ
thực thì tuy rằng báo thân của Bồ tát
là trang nghiêm, đẹp đẽ, nhưng vì lợi
ích độ sinh, hóa thân của Bồ tát có
thể mang rất nhiều thân khác nhau. A La
Hán dưới con mắt người Trung Quốc,
đúng ra là hóa thân của Bồ tát thì
phải hơn.
A La Hán là Tăng ni xuất gia, họ là dấu
hiệu biểu trưng cho sự tồn tại Phật
Pháp ở thế gian, cho nên trong ứng xử,
La Hán không thể tùy tiện được, nếu
không thì sẽ không có lợi cho thanh danh
của đạo Phật. Còn Bồ Tát thì không
có thân cố định, Bồ Tát chỉ nhằm mục
đích khai hóa độ sinh. Bồ Tát không
yêu cầu chúng sinh biết mình là Bồ
Tát. Bồ Tát cố nhiên là có thể thị
hiện thành loài người hay loài trời
đầy đủ phúc đức trang nghiêm, nhưng
khi cần thiết cũng có thể hóa thân
thành Ngoại đạo, người đồ tể, thậm
chí làm cả Ma vương, cũng không có hại
gì đối với thanh danh đạo Phật.
Vì vậy, Phật giáo đồ Trung Quốc nên
sửa chữa lại quan niệm của mình đối
với A La Hán mới được.
Nếu xét về xã hội giáo đoàn của
Phật giáo nguyên thủy thì không có
phân chia lãnh đạo và lệ thuộc, mọi
người đều bình đẳng trước Phật
Pháp. Và cũng trong phạm vi Phật Pháp,
mọi người đều có quyền tự chủ
(tự do làm chủ). Vì vậy đức Thích Ca
Thế tôn là vị đã sáng lập ra Phật
giáo, khi sắp nhập Niết Bàn, Ngài cũng
nói với ông A Nan rằng : "Như Lai
không nói ta duy trì chúng, ta nhiếp
chúng" (Trường A Hàm - Kinh Du Hành
I). Phật đôi lúc nói : "Ta ở trong
Tăng chúng", chứ không tự xưng là
lãnh tụ. Phật tự xưng là "Pháp
vương" theo nghĩa Phật đối với mọi
pháp đều tự do tự tại, không có
nghĩa là "thống lĩnh". Do đó,
từ khi có Phật giáo cho đến nay, Phật
giáo không có đẳng cấp trên dưới,
lớn nhỏ. Hoạt động của tăng đoàn 4
người trở lên, miễn là theo đúng
giới luật, đều là hội pháp, phải
được tôn trọng, nếu tăng đoàn A vì
tăng đoàn B có ý kiến bất đồng mà
chia rẽ, thì Phật cũng công nhận sự
chia rẽ đó. Trong sách "ngũ phần
luật quyển 24". Phật nói : "Việc
kính lễ và cúng dường phải bình
đẳng, vì sao như vậy ? Cũng như vàng
thật đem chia làm 2 khúc, không có gì
khác nhau cả". Do đó, biết rằng tinh
thần căn bản của đạo Phật không đòi
hỏi có tổ chức nghiêm mật, từng
từng lớp lớp; tình hình khác hẳn
với đạo Cơ đốc
Bắt đầu từ
Kinh cựu ước, đạo Cơ Đốc đã có
tổ chức chính trị và ý thức chính trị
mạnh mẽ, có tổ chức nghiêm mật, có
nền thống trị đầy quyền lực. Đó
chính là đặc sắc của giáo hội Cơ
Đốc (người ta nói không phải là vô
cớ rằng, tổ chức chính trị và phương
pháp thống trị các đảng cộng sản hiện
nay là học theo giáo hội đạo Cơ Đốc).
Chính vì vậy mà tổ chức giáo hội Cơ
Đốc giáo, có một bối cảnh lịch sử
lâu dài, và có năng lực lãnh đạo
giáo đoàn trội hơn Phật giáo rất
nhiều. Ngay đối với giáo hội Tân giáo
Cơ Đốc, tuy rằng chia thành rất nhiều
hệ phái không có liên quan với nhau,
nhưng trong nội bộ mỗi hệ phái, tổ
chức của họ vẫn chặt chẽ, tốt đẹp.
Phật giáo chúng ta cho đến nay, vẫn
không thể nói tới một tổ chức giáo
hội có tính thế giới. Trong nội bộ
của từng quốc gia, cũng có nhiều hệ
phái. Và trong nội bộ của mỗi hệ
phái, tổ chức cũng không thống nhất.
Đặc biệt là trong Phật giáo Trung Quốc,
trong lịch sử tuy có lập chế độ
"Tăng quan", nhưng đó là một
chức vụ do chính phủ đặt ra để kiểm
soát Tăng ni và tài sản giáo hội,
chứ không phải là một thiết chế tổ
chức của giáo hội. Ngày nay, tuy cũng
có một Giáo hội Phật giáo Trung Quốc,
với các phân chi hội các Tỉnh, Huyện,
Thị, nhưng nó không có quyền hành chính
thực tế, tài sản các chùa không
thuộc do Giáo hội bổ nhiệm.
Vì vậy năm 1953, Đài Loan tuy có hơn 600
vạn người vẫn không tạo ra được
một lực lượng tích cực, không xúc
tiến được kế hoạch xây dựng sự
nghiệp Phật giáo trên quy mô lớn. Trái
lại, giáo đồ Thiên chúa ở Đài Loan,
chỉ có 26 vạn 5000 người, giáo đồ Cơ
Đốc cũng chỉ có hơn 229 vạn 3000
người, nhưng sức hoạt động của họ,
nếu xét trên bề mặt thì hơn Phật giáo
nhiều. Tỉnh ta chỉ có 4 vạn tín đồ Hồi
giáo, cũng được chính phủ coi trọng
hơn so với Phật giáo. Nguyên nhân là
lực lượng của họ tập trung, còn Phật
giáo thì ai làm gì thì làm.
Căn cứ vào số liệu thống kê thế
giới, số người theo các tôn giáo
lớn trên thế giới Cơ Đốc giáo (kể
cả cũ và mới) chiếm vị trí thứ
nhất, có tất cả 9 ức tín đồ (900
triệu). Phật giáo chiếm vị trí thứ hai,
với 600 triệu tín đồ. Hồi giáo chiếm
vị trí thứ ba với 400 triệu tín đồ; vị
trí thứ tư thuộc Ấn Độ giáo với 300
triệu 8 nghìn vạn tín đồ; thứ 5 là Do
Thái giáo với 5 nghìn vạn tín đồ (báo
Sư tử hống quyển 3, kỳ thứ 10; tr. 4).
Nếu 600 triệu tín đồ Phật giáo biết
hợp tác đoàn kết với nhau thì sẽ đem
đến cho nhân loại biết bao quang vinh an
lạc !
Ở đây, cần đề xuất một vấn đề,
tức là số liệu thống kê ghi trong bài
"Phật giáo châu Á", đăng ở
tập "Địa đồ chu san" của Nhật
báo Trung ương ngày 14 tháng 12 năm 53
Dân quốc. Số liệu thống kê đó có
nhiều sai lầm. Nó ghi : cả thế giới chỉ
có 300 triệu tín đồ Phật giáo, tức
là giảm 1/2 so với số liệu thống kê
chính thức. Sai lầm này có thể là do
Chu San ước lượng Phật giáo đồ ở
Trung Quốc đại lục chỉ có khoảng 100
triệu, tức 13% tổng dân số. Đây là
một sự đánh giá rất "có vấn
đề". Đồng thời, tờ Chu San lại cho
rằng Phật giáo Ấn Độ và Tích Lan,
nhất là Phật giáo Tích Lan, thuộc về khu
Phật giáo Đại thừa, đó là một sai
lầm nghiêm trọng. Ngay ở Việt Nam, Phật
giáo cũng có cả Đại thừa và Tiểu
thừa. Tờ Chu San cũng không chú ý gì
đến tình hình Phật giáo ở ngoài châu
Á. Thí dụ ở Mỹ hiện nay, đã có 17
vạn Phật giáo đồ, 170 ngôi chùa và tu
viện rải rác tại các bang.
Phật giáo không phải là một tổ chức
chính trị, vì vậy mà cho đến nay, vẫn
chưa có một giáo hội thống nhất theo
kiểu lưới của Phạm Thiên, tuy rằng
vẫn có tổ chức có tính biểu trưng là
"Hội Ái hữu Phật giáo thế
giới". Hội này được lập do sáng
kiến đề xuất của đại sư Thái Hư ở
Trung Quốc. Sớm nhất là từ năm dân
quốc thứ 17 (T. L 1928), đại sư Thái Hư
có 2 điểm hy vọng : Một là xóa bỏ quan
niệm thiên chấp về Đại thừa và Tiểu
thừa. Hai là liên hiệp Phật giáo các
nước lại, thắt chặt tình hữu nghị
giữa các nước và thúc đẩy nên hòa
bình thế giới. Cuộc vận động này,
phải trải qua 22 năm hun đúc, đến ngày
6 tháng 6 năm 1950 mới triệu tập được
tại Tích Lan Đại hội đại biểu thế
giới lần thứ nhất. Trong số các nhân
vật ủng hộ Đại hội, có quốc vương
và Tăng thống Thái Lan, Tổng Thống và
Tăng thống Miến Điện, Thủ tướng và
Tăng tống Tích Lan, vị Đạt Lai Lạt Ma
Tây Tạng, Quốc vương và vua Sãi ở
Camphuchia, Tăng thống Việt Nam, Thiên
Hoàng Dục nhân (Hirohito) của Nhật Bản.
Lúc bấy giờ, Trung Quốc cử Pháp sư
Pháp Thường (đang dạy Phật học ở
Tích Lan) làm đại biểu. Đại hội có
quyết định hai năm triệu tập một lần
Đại Hội. Cho đến nay, đã tổ chức
được bảy lần Đại hội, lần lượt
ở Tích Lan, Nhật Bản, Miến Điện,
Nêpan, Thái Lan, Camphuchia, Ấn Độ v.v
Đáng tiếc là bắt đầu từ Đại hội
lần thứ ba tổ chức tại Miến Điện,
tức là năm 1954, tổ chức Phật giáo
thế giới thuần nhất lại biến thành
nơi tranh cãi giữa hai phái tự do và
thân cộng sản (Xem Hải Triều Âm, quyển
45, số tháng 10, bài của Pháp sư Lạc
Quan).
Trong kỳ Đại hội lần thứ 7, họp năm
1964, có sự kiện đoàn đại biểu Trung
Quốc đại lục, cùng với các đoàn
đại biểu Liên Xô, Ngoại Mông, Miến
Điện, Đông Pakittăng v.v
đề xuất
kháng nghị với Đại hội về việc mời
đoàn của Trung Hoa dân quốc tham gia Đại
hội lên án cuộc chiến tranh ở Việt Nam
và Lào; đoàn đại biểu Inđônêxia
trách mắng kịch liệt Malayxia v.v
Tất
cả những sự kiện đó đà làm biến
chất tôn chỉ của Đại hội.
Chính vì vậy mà cho đến nay, Hội Ái
Hữu Phật giáo thế giới, mặc dù có
hội viên hơn 60 quốc gia và khu vực [Kỳ
Đại hội lần thứ 7, có đại biểu 53
đơn vị tham gia] nhưng cống hiến của nó
đối với Phật giáo thế giới và nhân
loại còn rất hạn chế. Ngay 2 chữ
"Ái hữu" (Hội Ái hữu, nghĩa
là lấy tình hữu nghị để đoàn kết
người này người kia, 2 chữ đó ngày
nay vẫn còn bị ảnh hưởng của chính trị
thử thách, thì còn nói gì chuyện khác
nữa). Trong 14 năm qua, Hội Ái hữu Phật
giáo thế giới nhất trí về ngày đản
sinh của Phật Thích Ca là ngày 15 tháng 5
dương lịch mỗi năm. Sự nhất trí này
được thực hiện trong một nghị quyết
của Đại hội lần thứ 2 họp ở Nhật
Bản năm 1952, đã thông qua quyết nghị do
đại biểu Tích Lan đề xuất, lấy lá
cờ 5 màu làm giáo kỳ Phật giáo thế
giới. Giáo kỳ này là do đại tá Ôn
Cốt người Mỹ thiết kế (1832-1907) còn
có những thành tích khác thì không
đáng nói (chú 17).
Tổ chức hành chính Phật giáo toàn thế
giới, tuy không phải là yêu cầu căn
bản của Phật giáo, nhưng đã trở
thành nhu cầu cấp thiết của thời đại
ngày nay. Nhưng còn phải cố gắng trong
nhiều thời gian nữa mới có thể phát
triển Hội Ái hữu Phật giáo thành một
tổ chức hành chính của Phật giáo toàn
cầu.
Nguồn: www.quangduc.com