Trong
chương
cuối
cùng
này,
tôi
xin
chú
trọng
một
vài
quan
điểm
đã
được
xét
đến
trong
các
chương
30
và
40,
áp
dụng
chúng
vào
đời
sống
hằng
ngày
cũng
như
vào
việc
thực
tập
giáo
lý
Phật.
Tôi
đã
thảo
luận
Vi
diệu
pháp
rất
nhiều,
trong
đó
một
vài
tài
liệu
có
phần
khá
chuyên
biệt
khó
hiểu.
Mặc
dù
không
thể
nào
sử
dụng
toàn
bộ
những
gì
chúng
ta
đã
nghiên
cứu
và
học
hỏi,
tôi
hy
vọng
nó
sẽ
chiếm
một
góc
trong
tâm
của
bạn,
và
bạn
sẽ
có
khả
năng
trở
lại
với
nó
và
dùng
nó
theo
dòng
thời
gian. Tôi
muốn
bắt
đầu
bằng
cách
xin
bạn
chú
ý
đến
hướng
đi
căn
bản
của
đức
Phật
và
Phật
giáo
đối
với
câu
hỏi
toàn
bộ
về
sự
tiến
bộ
tâm
linh.
Bạn
hẵn
nhớ
lại
rằng
hầu
hết
trong
số
37
pháp
dẫn
đến
giác
ngộ
(xem
Chương
40)
đều
có
liên
hệ
đến
cái
tâm
và
tính
cố
gắng.
Sự
nhấn
mạnh
trong
Phật
giáo
luôn
luôn
đặt
trên
2
khía
cạnh
này.
Nó
tương
phản
rõ
rệt
với
các
tín
ngưỡng
khác,
nơi
mà
các
câu
trả
lời
thông
thường
nhất
cho
câu
hỏi
về
tiến
bộ
tâm
linh
là
định
mệnh
hay
ân
huệ
do
một
vài
quyền
lực
ở
ngoài
chúng
ta,
có
thể
là
một
quyền
lực
siêu
nhân,
vô
hình,
quyết
định
số
mệnh
mình,
định
đoạt
sự
tiến
bộ
cho
ta;
hay
là
một
quyền
lực
cá
nhân
ban
ân
phát
huệ,
như
Thượng
đế.
Ðịnh
mệnh
và
ân
huệ
là
những
câu
trả
lời
điển
hình
được
các
tôn
giáo
khác
trong
thời
của
Phật
cho
biết,
và
những
câu
trả
lời
đó
vẫn
còn
đến
ngày
hôm
nay.
Chúng
có
chung
một
đặc
tính:
tùy
thuộc
vào
một
cái
gì
đó
ngoài
chúng
ta
mà
chúng
ta
không
có
hay
có
rất
ít
khả
năng
kiểm
soát
hay
điều
khiển. Phật
đã
dạy
rằng
chính
cái
tâm
và
tính
cố
gắng
riêng
của
bạn
quyết
định
sự
tiến
bộ
và
số
mệnh
của
bạn.
Cái
tâm
và
tính
cố
gắng
là
chìa
khóa
cho
sự
tự
phát
triển,
như
đã
được
phản
ảnh
rõ
rệt
trong
37
pháp
dẫn
đến
giác
ngộ.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
người
ta
thường
nói
rằng
cái
tâm
là
một
vật
quí
giá
nhất
mà
chúng
ta
có
được.
Cái
tâm
thường
được
so
sánh
như
một
viên
ngọc
làm
thỏa
mãn
các
sự
mong
cầu,
ở
chỗ
là
nó
có
thể
giúp
ta
tái
sanh
vào
những
hoàn
cảnh
may
mắn
cũng
như
không
may
mắn.
Chính
trên
căn
bản
của
cái
tâm
mà
người
ta
bước
qua
ngưỡng
cửa
của
sự
hiện
hữu
đã
bị
định
sẵn
để
nhập
vào
tình
trạng
siêu
thế
gian
của
các
vị
thánh.
Nó
là
cái
tâm
quyết
định,
và
nó
làm
như
vậy
qua
sự
chủ
động
để
đạt
kết
quả
cho
mình
trong
những
hoàn
cảnh
đặc
biệt. Chúng
ta
cũng
có
thể
thấy
sự
quan
trọng
của
tâm
được
phản
ảnh
trong
pháp
‘Tứ
như
ý
túc’
(xem
trang
40),
nó
là
các
nhân
tố
tinh
thần
có
thể
ảnh
hưởng
và
kiểm
soát
vật
chất.
Những
gì
chúng
ta
cần
làm
là
tăng
cường,
vun
trồng
và
nâng
cao
cái
tâm.
Chúng
ta
có
thể
thấy
điều
này
rõ
ràng
khi
nhớ
lại
‘Năm
yếu
tố
định’(jhananga)
và
‘Ngũ
chướng’
(nivarana),
tức
hai
mặt
của
thức
thế
gian
thông
thường
(xem
chương
34).
‘Ngũ
chướng’
là
điển
hình
cho
tâm
thức
ở
mức
độ
thấp
nhất,
như
thức
của
thú
vật,
dẫy
đầy
với
các
yếu
tố
chướng
ngại.
Sự
hiện
diện
của
những
chướng
ngại
này
có
nghĩa
là
tâm
con
người
hoàn
toàn
bị
duyên
theo
và
bị
khai
dụng
bởi
những
kích
thích
khác
nhau. Ðối
lại
với
‘Ngũ
chướng’
là
‘Ngũ
định’,
cũng
có
trong
thức
của
thú
vật.
‘Ngũ
chướng’
đối
mặt
và
sau
đó
diệt
trừ
‘Ngũ
chướng’.
Chúng
ta
có
thể
giảm
thiểu
nghiệp
lực
của
các
chướng
ngại
đến
một
mức
nào
đó
để
có
thể
từ
đó
vun
trồng
các
pháp
định. Giả
thử
chúng
ta
đang
đứng
tại
ngã
tư
đường.
Tất
cả
mười
yếu
tố
chướng
ngại
và
pháp
định
đều
hiện
diện
trong
tâm
của
chúng
ta.
Vấn
đề
là
ta
cho
phép
các
chướng
ngại
chi
phối
ta
hay
ta
phát
triển
các
nhân
tố
tăng
cường
của
định?
Ðây
là
một
trận
chiến
rất
quan
trọng
vì
phút
giây
nào
mà
các
chướng
ngại
còn
khống
chế
ta
thì
chắc
chắn
ta
sẽ
thấy
kết
quả
trong
cuộc
đời
này
và
trong
cuộc
đời
kế
tiếp,
dưới
hình
thức
tái
sanh
trong
các
tình
trạng
bất
lợi
hay
khốn
khổ
hơn.
Nếu
tâm
ta
được
nâng
cao
bằng
cách
vun
trồng
‘Năm
yếu
tố
định’,
chúng
ta
sẽ
đạt
được
sự
phát
triển
ở
đẳng
cấp
cao
trong
cuộc
đời
này
và
cuộc
đời
sau. Trang
351.
Một
lần
nữa
chúng
đã
tăng
cường
và
nâng
cao
sức
mạnh
của
tâm
bằng
cách
phát
triển
‘Ngũ
định’,
chúng
ta
có
thể
điều
động
và
hướng
dẫn
tâm
ta
theo
hướng
đi
mong
muốn.
Ðiều
này
được
thực
hiện
qua
‘Ngũ
Ðiều
Căn’:
tín,
tấn,
niệm,
định,
huệ
(xem
trang
40).
Người
ta
nói
rằng,
muốn
hành
trì
Phật
pháp,
có
hai
việc
cần
yếu:
lòng
tin
và
trí
tuệ.
Trí
tuệ
là
việc
chính,
trong
khi
lòng
tin
là
điều
kiện
tiên
quyết.
Trong
vài
tín
ngưỡng
không
phải
Phật
giáo,
lòng
tin
có
nghĩa
là
sự
gắn
bó
mù
quáng.
Với
Phật
giáo,
lòng
tin
có
nghĩa
là
sự
tự
tin
có
thể
thành
công.
Nói
cách
khác,
nếu
không
tin
là
thành
công,
ta
sẽ
không
có
cơ
hội
hoàn
tất
sự
thành
công
ấy
cho
dù
ta
cố
gắng
mấy
di
chăng
nữa.
Với
ý
này,
nếu
không
có
lòng
tin
thì
việc
tu
tập
tâm
linh
giống
như
một
hạt
giống
đã
bị
‘lép’.
Nó
sẽ
không
bao
giờ
đâm
chồi
tiến
bộ,
cho
dù
đất
tốt
bao
nhiêu
hay
công
chăm
bón
cẩn
thận
thế
nào
đi
chăng
nữa. Tín
và
huệ
là
chi
đầu
tiên
và
chi
cuối
cùng
trong
‘Ngũ
Ðiều
Căn’.
Ba
chi
còn
lại
là
‘tấn,
niệm,
định’
lại
xuất
hiện
trong
nhóm
‘Bát
chính
đạo’
(Chương
5,
6
và
7).
‘Tấn,
niệm
và
định’
tương
ứng
với
‘chánh
tinh
tấn,
chánh
niệm
và
chánh
định’
của
nhóm
‘Bát
chính
đạo’
(Con
đường
tám
bước). Lòng
tin
(Tín)
liên
hệ
với
nhóm
đạo
đức
(tức
Giới)
của
‘Bát
chính
đạo’
vì
chính
nhờ
lòng
tin
mà
nó
bắt
buộc
ta
để
ý
sâu
sắc
đến
các
giới
luật
về
đức
hạnh
và
tin
tưởng
vào
luật
nhân
quả
ngay
từ
đầu
cho
việc
hành
trì
của
mình.
Nếu
ta
chưa
hoàn
thành
được
trình
độ
siêu
thường
của
tâm
thức
(như
Phật
và
các
đại
đệ
tử
của
ông,
những
người
có
khả
năng
nhận
thức
trực
tiếp
sự
hiệu
quả
của
các
hành
động
thiện
và
bất
thiện),
chúng
ta
phải
dựa
vào
lòng
tin
để
tạo
ra
nền
tảng
cho
việc
thực
tập
đạo
đức. Chi
‘huệ’,
một
hình
thức
phôi
thai
trong
Ngũ
điều
căn,
tương
ứng
với
nhóm
‘huệ’
(gồm
‘chánh
kiến’
và
‘chánh
tư
duy’)
của
Bát
chính
đạo. Trang
352.
Ðể
kết
luận,
để
hướng
đến
mục
tiêu
giác
ngộ,
ta
cần
phải
tăng
cường,
thúc
đảy
và
nâng
cao
tâm
thức
của
mình.
Cách
làm
là:
1.
Tập
‘Ngũ
định’
để
giảm
bớt
ảnh
hưởng
‘Ngũ
chướng’,
2.
phát
triển
‘Ngũ
Ðiều
Căn’
và
nối
kết
chúng
với
việc
hành
trì
‘Bát
chính
đạo’.
Khi
đã
vững
‘Ngũ
Ðiều
Căn’
thì
chúng
tự
phát
triển
thành
‘Ngũ
Lực’
(xem
chương
40).
‘Ngũ
Lực’
sẽ
đem
lại
cho
ta
các
tình
trạng
siêu
thế
gian
của
các
vị
thánh. Trí
huệ,
nhóm
cuối
cùng
của
Bát
chánh
đạo,
đặc
biệt
liên
hệ
đến
môn
học
Vi
diệu
pháp.
Trí
huệ
là
sự
hiểu
biết
về
sự
thật
tuyệt
đối
(chơn
đế)
và
Vi
diệu
pháp
chuyên
về
phần
trình
bày
chơn
đế.
Khi
nói
đến
trí
huệ,
ta
có
hai
thành
phần
chính:
1.
vô
ngã
và
2.
tánh
không. Chúng
ta
đã
thảo
luận
về
các
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp
cho
việc
phân
tích
kinh
nghiệm
cá
nhân
trong
thuyết
vô
ngã
và
thuyết
duyên
khởi.
Khi
xét
đến
vô
ngã,
chúng
ta
cần
nghĩ
đến
cái
ngã
có
liên
hệ
đến
ngũ
uẩn.
Cũng
giống
như
ý
nghĩ
sai
lầm
về
con
rắn
tùy
thuộc
và
có
liên
hệ
đến
sợi
dây
và
bóng
tối,
khi
ta
xét
cái
ngã
có
liên
hệ
đến
ngũ
uẩn,
ta
thấy
rằng
nó
không
hiện
hữu
chút
nào
cả.
Cái
ngã
không
thể
nào
tìm
thấy
trong
5
uẩn
thức,
thọ,
tưởng,
hành
và
sắc.
Cái
ngã
không
thể
làm
chủ
các
uẩn
cũng
như
chúng
ta
với
chiếc
xe.
Cái
ngã
không
điều
khiển
các
uẩn.
Nó
không
điều
khiển
cái
tâm
cũng
không
kiểm
soát
cái
thân.
Cái
ngã
không
có
cách
nào
xác
minh
được
ở
trong
cũng
như
ở
ngoài
các
uẩn
được. Sau
khi
đạt
được
sự
hiểu
biết
về
vô
ngã,
ta
có
thể
xét
thêm
một
chút
về
‘các
nhân
tố
tích
tập
lại
để
hợp
thành
người’
gọi
gọn
lại
là
‘uẩn’.
Từ
điểm
này,
ta
chuyển
từ
việc
phân
tích
kinh
nghiệm
cá
nhân
xét
theo
‘ngũ
uẩn’
qua
việc
phân
tích
‘ngũ
uẩn’
xét
theo
‘thuyết
duyên
khởi’.
Ngũ
uẩn
không
khởi
đầu
một
cách
tình
cờ
cũng
không
phải
khởi
đầu
mà
không
có
nguyên
nhân.
Sự
khởi
đầu
của
chúng
có
tính
cách
tùy
thuộc--tùy
thuộc
vào
vô
minh,
ái,
thủ
và
vào
nghiệp,
hành
và
hữu
(xem
thêm
chương
10). Người
ta
nói
rằng
thuyết
duyên
khởi
là
gia
tài
lớn
nhất
trong
giáo
lý
của
Phật.
Hiểu
được
thuyết
duyên
khởi
là
chìa
khóa
tháo
gở
cái
mối
đã
giữ
riệt
ta
quá
lâu
trong
kiếp
luân
hồi.
Chính
Phật
đã
nói
rằng
ai
thấy
được
thuyết
duyên
khởi
tức
thấy
Pháp,
và
ai
thấy
Pháp
tức
thấy
Phật.
Ðây
là
một
nhận
xét
rất
khích
lệ,
vì
nếu
ta
có
thể
bắt
đầu
thấy
được
kinh
nghiệm
hằng
ngày
của
chúng
ta
theo
thuyết
duyên
khởi--tức
tính
chất
bị
điều
kiện
hóa,
tương
đối
và
không
tánh
trong
các
yếu
tố
kinh
nghiệm--thì
ta
sẽ
thấy
được
Pháp;
và
qua
việc
thấy
Pháp,
ta
sẽ
thấy
Phật.
Ðến
lúc
đó
thì
bạn
không
thể
nào
nói
được
rằng
bạn
không
thấy
Phật,
rằng
Phật
không
hiện
diện
‘bây
giờ
và
ở
đây’. Tôi
hy
vọng
rằng
bài
nghiên
cứu
Vi
diệu
pháp
này
không
phải
chỉ
là
bài
tập
kiến
thức
mà
nó
sẽ
được
áp
dụng
vào
đời
sống
hằng
ngày
của
chúng
ta,
cho
dù
ở
mức
độ
không
đáng
kể.
Mặc
dầu
nó
có
thể
khó
áp
dụng
cho
tất
cả
12
chương
sau
cùng,
nhưng
tôi
nghĩ
tất
cả
chúng
ta,
những
người
đã
nghiên
cứu
Vi
diệu
pháp
sẽ
không
còn
lầm
lẫn
khi
nghĩ
đến
cái
thực
tại
là
cái
ngã
thuần
nhất,
độc
lập
và
thường
hằng
và
các
vật
cần
thiết,
trọng
yếu
chung
quanh
ta.
Nếu
được
vậy
là
ta
đã
chuyển
được
về
một
hướng
mới,
đó
là
sự
hiểu
biết
thực
tướng
theo
các
nhân
tố
và
các
phần
hành
có
tính
cách
tương
đối
và
tương
tác
nhau.
Chúng
ta
đã
hướng
tầm
nhìn
của
mình
để
thấy
Pháp
và
thấy
Phật. Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002