Trong
Kim
cương
thừa,
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trụ
học
liên
hệ
rất
chặt
chẽ
với
nhau.
Tôi
xin
chứng
minh
chúng
liên
hệ
chặt
chẽ
như
thế
nào
và
nói
tổng
quát
về
các
lợi
ích
của
việc
liên
hệ
này. Chúng
ta
bắt
đầu
bằng
cách
nói
lại
quan
niệm
tương
duyên
và
tương
nhập.
Tương
duyên
có
cái
nghĩa
của
tương
đối
hay
tánh
không.
Nó
là
một
trong
hai
cột
trụ
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Trong
trường
hợp
đặc
biệt
này,
tương
duyên
có
ý
nghĩa
đặc
biệt
là
sự
tương
nhập.
Như
ta
biết,
từng
sự
vật,
vì
sự
hiện
hữu
và
bản
thể
của
nó,
đều
phải
tùy
thuộc
vào
các
sự
vật
khác.
Vì
thế
mọi
vật
đều
có
giữ
cái
mầm,
(nguyên)
nhân
và
duyên
(tức
điều
kiện)
của
các
vật
khác.
Ta
có
thể
hiểu
việc
này
dễ
hơn
bằng
cách
áp
dụng
ý
tưởng
tương
duyên
giữa
cái
toàn
thể
và
các
phần
riêng
của
nó.
Bản
thể
của
cái
tổng
hợp
tùy
thuộc
vào
bản
thể
của
từng
phần
riêng,
và
bản
thể
của
từng
phần
riêng
tùy
thuộc
vào
bản
thể
của
cái
tổng
hợp.
Ðây
là
tính
tương
duyên
của
chúng. Theo
truyền
thống
Bắc
truyền,
chúng
ta
thấy
ý
tưởng
này
được
nói
rõ
trong
truyện
‘mạng
lưới
của
Ðế
thích’
(Indra
hay
Nhân
đà
la).
Trong
truyện
này,
mỗi
phần
của
lưới,
vì
sự
tồn
tại
và
đặc
tính
của
nó,
nên
phải
tùy
thuộc
vào
các
phần
lưới
khác,
và
mỗi
phần
nhỏ
của
lưới
tự
nó
chứa
đựng
hết
thảy
cái
đặc
tính
của
toàn
bộ
mạng
lưới.
Ý
tưởng
tương
duyên
hay
tương
nhập
giữa
cái
từng
phần
và
cái
tổng
hợp
cũng
rất
quan
trọng
ở
Trung
hoa,
nơi
mà
tư
tưởng
quan
trọng
độc
nhất
là
triết
lý
Hua-yen,
nền
triết
lý
của
sự
tổng
hợp. Trang
235.
Ý
tưởng
tương
nhập
cũng
có
thể
được
tìm
thấy
trong
Kim
cương
thừa,
ở
đó
ta
có
thể
thấy
nó
qua
chữ
‘khung
cửi’
(tantra)
.
Bạn
có
thể
nhớ
rằng
‘tantra’
nghĩa
đen
là
kiểu
dệt
của
một
miếng
vải
(xin
xem
lại
chương
22).
Việc
dùng
phép
ẩn
dụ
về
miếng
vải
cho
ta
hiểu
được
sự
tương
nhập
giữa
cái
toàn
bộ
và
các
bộ
phận
của
nó.
Ta
thấy
rằng
một
phần
nhỏ
của
miếng
vải
cũng
là
cái
mẫu
toàn
bộ
của
tấm
vải. Trang
235.
Kế
đến,
tư
tưởng
tương
nhập
trên
được
áp
dụng
vào
sự
tương
nhập
giữa
từng
cá
nhân
(đại
diện
cho
từng
bộ
phận
vi
mô)
với
vũ
trụ
(đại
diện
cho
cái
toàn
bộ
vĩ
mô).
Ý
niệm
tương
nhập
về
con
người
với
vũ
trụ
là
điều
đầu
tiên
tôi
muốn
xét
đến
trong
sự
để
tâm
đặc
biệt
hơn
về
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trụ
học
trong
Kim
cương
thừa. Ðể
hiểu
được
vai
trò
năng
động
của
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trụ
học,
chúng
ta
cần
nhớ
lại
ý
tưởng
căn
bản
thứ
hai
của
Kim
cương
thừa,
đó
là
tính
biến
thái
của
kinh
nghiệm.
Ðiều
này
được
diễn
tả
trong
kinh
nghiệm
của
Vô
trước
(Asanga).
Ðầu
tiên,
ngài
không
thấy
được
Phật
Di
lặc,
sau
đó,
ngài
thấy
được
dưới
hình
thức
của
con
chó
bệnh
và
cuối
cùng
thấy
rõ
hơn
với
kinh
nghiệm
của
một
vị
thánh
đã
được
chuyển
biến.
Ý
tưởng
này
cũng
được
diễn
tả
là,
chúng
sinh
ở
trong
6
cõi
giới
khác
nhau,
có
kinh
nghiệm
với
các
hiện
tượng
một
cách
khác
nhau:
đây
là
tính
biến
thái
của
kinh
nghiệm
tùy
thuộc
vào
trạng
thái
tinh
thần.
Vì
thế,
thực
tướng
tùy
thuộc
vào
điều
kiện
tâm
thức
con
người:
tâm
ô
nhiễm
nhận
thức
và
kinh
nghiệm
thực
tướng
theo
một
cách;
trong
khi
tâm
chuyển
biến
và
được
thanh
lọc,
sẽ
kinh
nghiệm
nó
theo
một
cách
khác. Quan
trọng
là
ta
phải
giữ
cả
hai
tính
tương
nhập
và
tính
biến
thái
của
tâm.
Có
thế,
ta
mới
biết
được
sự
liên
hệ
giữa
cá
nhân
và
vũ
trụ
trong
tâm
lý
học,
sinh
lý
học,
và
vũ
trụ
học
Kim
cương
thừa
và
ta
mới
biết
sự
liên
hệ
này
vận
hành
một
cách
năng
động
như
thế
nào
để
đem
lại
kết
quả
cho
sự
chuyển
biến
đó.
Ðây
là
mục
tiêu
của
việc
thực
hành
Kim
cương
thừa. Trang
236.
Ðầu
tiên,
chúng
ta
hãy
xét
đến
tâm
lý
học
trong
Kim
cương
thừa.
Từ
đầu
đến
giờ
tôi
đã
cho
thấy
rằng
Kim
cương
thừa
là
một
sự
phát
triển
tự
nhiên
và
hợp
lý
của
Phật
thừa
nói
chung,
điều
này
ta
cũng
tìm
thấy
trong
Nam
truyền
(Tìểu
thừa)
và
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Với
sự
kiện
này,
ta
không
ngạc
nhiên
là
các
thành
phần
xây
dựng
căn
bản
của
tâm
lý
học
Kim
cương
thừa
lại
thuộc
hệ
thống
trung
tâm
của
tâm
lý
học
Phật
giáo. Các
khối
xây
dựng
này
là
ngũ
uẩn
hay
ngũ
ấm
(5
khối
hoà
hợp
kết
tập
thành
thân
tâm
con
người.
Xin
xem
lại
chương
12).
Năm
khối
hòa
hợp
này
(sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức)
là
những
thành
phần
căn
bản
của
tâm
lý
học
Kim
cương
thừa.
Trong
tình
trạng
tâm
thức
uế
trược,
tình
trạng
bình
thường
của
tất
cả
chúng
ta
trước
khi
được
chuyển
biến
kinh
nghiệm,
5
ngũ
ấm
này
có
liên
hệ
với
5
phiền
não
(ô
nhiễm):
tham,
sân,
si,
mạn
nghi,
tật
đố.
Bạn
chắc
hẵn
đã
để
ý
đến
sự
hiện
diện
của
3
phiền
não
căn
bản
là
nguyên
nhân
kinh
nghiệm
của
đau
khổ
và
thêm
vào
chúng
là
các
đau
khổ
của
mạn
nghi
và
tật
đố. Chúng
ta
cũng
có
thể
thấy
5
phiền
não
này
liên
hệ
với
5
cõi
giới
không
giúp
ta
giải
thoát
được.
Ðó
là,
tham
với
cõi
quỹ,
sân
với
cõi
ngục,
si
với
cõi
thú,
mạn
nghi
với
cõi
thần
thánh,
tật
đố
với
cõi
á
thánh.
Một
điều
đáng
chú
ý
là
ngũ
uẩn
cũng
tạo
nhân
sanh
vào
5
cõi
giới
không
thuận
lợi
trên. Ðây
là
bức
tranh
thực
tế
cho
cái
nhìn
về
các
sinh
vật
chưa
được
chuyển
biến,
chưa
được
trong
sạch
mà
đây
là
điển
hình
cho
kinh
nghiệm
của
chúng
ta,
cũng
là
điển
hình
cho
kinh
nghiệm
của
ngài
Vô
trước
(Asanga)
khi
ông
không
thấy
được
Phật
Di
lặc
(Maitreya).
Ngay
trong
văn
chương
Trí
huệ
Bát
nhã,
ta
cũng
thấy
những
lời
là,
trong
khi
một
Bồ
tát
đang
tiến
về
hướng
Phật
quả,
ngũ
uẩn
của
người
trở
nên
thanh
tịnh
tuyệt
đối.
Trong
Kim
cương
thừa,
lời
phát
biểu
này
được
cho
là
tích
cực
và
đặc
biệt
đến
nổi,
trong
tâm
lý
học
Kim
cương
thừa,
ngũ
uẩn
được
chuyển
biến
và
xuất
hiện
dưới
hình
thức
của
5
chư
Phật
trên
cõi
trời.
Tâm
của
các
chư
Phật
ấy
đã
trong
sạch
hoàn
toàn
nhờ
gieo
duyên
thiện
lành.
Vì
thế,
với
hình
hài
đã
được
chuyển
biến,
ngũ
uẩn
đã
trở
thành
5
chư
Phật
trên
cõi
trời:
uẩn
sắc,
sau
khi
được
thanh
lọc,
xuất
hiện
dưới
hình
thức
Phật
Tỳ
lô
giá
Na
(Vairochana);
uẩn
thọ,
hình
thức
Phật
Bảo
sinh
(Ratnasambhava);
uẩn
tưởng,
hình
thức
Phật
A
di
đà
(Amitabha);
uẩn
hành,
hình
thức
Phật
Bất
không
thành
tựu
(Amogasiddhi);
và
uẩn
thức,
hình
thức
Phật
Bất
động
(Phật
A
súc,
Akshobhya). Trang
237.
Chắc
bạn
có
thể
đã
thấy
5
chư
Phật
cõi
trời
này
được
vẽ
dưới
hình
thức
tượng
thánh
trong
nghệ
thuật
giới
đàn
(mandala),
gồm
nhiều
vòng
tròn
huyền
bí
thiêng
liêng.
Ðây
là
các
biểu
tượng
của
vũ
trụ
đã
được
chuyển
biến
trở
nên
thanh
tịnh.
Những
gì
5
chư
Phật
cõi
trời
đại
diện
là
5
thành
phần
chúng
sinh
đã
được
chuyển
biến
trở
nên
thanh
tịnh
về
phương
diện
tâm
sinh
lý.
Năm
chư
Phật
cõi
trời
tượng
trưng
cho
sự
chuyển
biến
kinh
nghiệm
ô
nhiễm
của
chúng
ta
thành
các
hình
hài
đã
được
giác
ngộ. Năm
chư
Phật
cõi
trời
này
được
cho
biết
là
chư
Thánh
của
Năm
Gia
đình:
đức
Phật
(Hiện
kiếp),
Ratna
(Bảo
vật),
Padma
(Liên
hoa),
Karma
(Tác
nghiệp)
và
Vajra
(Kim
cương).
Ðây
là
những
biểu
tượng
của
ngũ
uẩn
dưới
hình
thái
đã
được
biến
cải. Ở
mức
độ
chưa
chuyển
biến
và
còn
uế
trược,
ngũ
uẩn
bị
gắn
liền
với
5
phiền
não;
ở
mức
độ
được
chuyển
biến,
hết
ô
nhiễm,
5
chư
Phật
cõi
trời
tương
đương
với
5
loại
tri
thức
siêu
việt
(trí
huệ
bát
nhã).
Tri
thức
siêu
việt
đầu
tiên
là
tri
thức
Pháp
giới
(Dharmadhatu),
tương
đương
với
Phật
Tỳ
lô
giá
na
(Vairochana).
Tri
thức
Pháp
giới
là
tri
thức
về
thực
tướng
các
sự
vật
và
về
sự
tinh
túy
của
chúng.
Nói
một
cách
khác,
Pháp
giới
(Dharmadhatu)
là
đặc
tính
cần
thiết
của
tất
cả
các
hiện
tượng,
đó
là,
tánh
không
và
tính
bất
nhị
của
chúng
sự.
Vì
thế,
uẩn
sắc
được
biến
đổi
là
Phật
Tỳ
Lô
Giá
Na,
và
sự
biến
đổi
này
là
sự
biến
đổi
cái
phiền
não
của
vô
minh
thành
tri
thức
siêu
việt
cho
cái
thực
tánh
của
tất
cả
các
sự
vật,
tức
tánh
không. Trang
238.
Thứ
hai,
với
Phật
Bảo
Sinh
(Buddha
Ratnasambhava),
vị
Phật
biểu
tượng
cho
thọ
uẩn.
Ðây
là
sự
chuyển
biến
của
lòng
tự
hào
thành
tri
thức
bình
đẳng
siêu
việt.
Ðây
là
tri
thức
xem
tất
cả
mọi
vật
bằng
nhau.
Trong
Bát
nhã
Tâm
kinh,
người
ta
nói
rằng
‘Trí
tuệ
bát
nhã’
đã
chuyển
sự
không
bình
đẳng
thành
bình
đẳng.
Trong
trường
hợp
của
Phật
Bảo
Vật,
chúng
ta
có
loại
tri
thức
xem
các
sự
vật
là
bình
đẳng.
Hơn
bất
cứ
mọi
thứ,
tri
thức
bình
đẳng
không
thấy
một
sự
phân
biệt
nào
giữa
luân
hồi
và
niết
bàn.
Tri
thức
bình
đẳng
siêu
việt
không
thấy
khác
nhau
giữa
luân
hồi
và
niết
bàn
và
cho
phép
chư
Phật
và
chư
Bồ
tát
hoạt
động
một
cách
tự
do
trong
thế
giới
này. Thứ
ba,
trong
trường
hợp
của
tưởng
uẩn,
nó
đã
được
chuyển
biến
và
thanh
lọc
để
thành
Phật
A
di
đà.
Ở
đây,
ta
có
sự
chuyển
biến
tham
muốn
thành
phân
biệt.
Ðây
là
tri
thức
có
thể
thấy
tất
cả
các
sự
vật
theo
đặc
tính
cá
biệt
của
chúng.
Trong
một
ý
nghĩa
nào
đó,
điều
này
tương
đương
với
tri
thức
Pháp
giới
(Dharmadhata)
đây
là
tri
thức
về
cái
đặc
tính
tinh
túy
và
phổ
quát
của
tất
cả
các
sự
vật,
đó
là
tánh
không.
Là
một
điều
bổ
túc
cho
tri
thức
Pháp
giới
(Dharmadhata),
chúng
ta
có
tri
thức
phân
biệt,
đó
là
tri
thức
các
đặc
tính
cá
biệt
của
tất
cả
các
sự
vật. Thứ
tư,
trong
trường
hợp
hành
uẩn,
nó
được
thanh
tịnh
thành
hình
thức
Phật
Bất-không-thành-tựu
(Buddha
Amogasiddhi),
chúng
ta
có
được
sự
chuyển
biến
lòng
đố
kỵ
thành
tri
thức
toàn
bích.
Tri
thức
này
là
cái
khả
năng
biết
chính
xác
thực
trạng
tất
cả
giống
hữu
tình
để
sao
cho
có
thể
được
giúp
họ
hoàn
thành
tốt
đẹp
nhất
trên
đường
hướng
về
Phật
quả. Trang
239.
Cuối
cùng,
trong
trường
hợp
thức
uẩn,
nó
dược
thanh
lọc
thành
hình
thức
Phật
Bất
Ðộng
(Phật
A
xúc,
Buddha
Akshobhya).
Ta
có
được
sự
chuyển
biến
mối
ác
kiến
thành
một
kiến
thức
giống
như
cái
gương,
có
khả
năng
phản
ảnh
tất
cả
sự
vật.
Cái
gương
phản
chiếu
chính
xác,
không
thiếu
không
thêm
bất
cứ
vật
gì
đứng
trước
nó. Vậy
là,
bạn
đã
có
thể
thấy
được
sự
sắp
xếp
đối
xứng
các
thành
phần
tâm
sinh
lý,
với
ngũ
uẩn
bị
ô
nhiễm
tương
đương
với
5
chư
Phật
trong
cõi
giới
không
còn
ô
nhiễm.
Cũng
như
thế,
có
sự
đối
xứng
giữa
5
phiền
não
khi
chưa
chuyển
biến,
còn
uế
trược,
tương
đương
với
5
tri
thức
đã
được
chuyển
biến
và
không
còn
uế
trược. Sự
sắp
xếp
đối
xứng
giữa
kinh
nghiệm
bất
tịnh
và
thanh
tịnh
cũng
được
chuyển
thành
khối
vật
chất.
Ở
cấp
thanh
tịnh,
5
thành
phần
của
thế
giới
này--đất,
nước,
lửa,
gió
và
không
gian
(ngũ
đại)
lấy
hình
thức
của
5
thiên
nữ.
Những
vị
này
là
vợ
của
5
chư
Thánh
cõi
trời.
Thành
phần
của
không
gian,
tương
đương
với
sắc
uẩn,
được
chuyển
biến
không
còn
ô
nhiễm,
thành
một
nữ
thánh,
vị
này
là
vợ
của
Phật
tỳ
lô
giá
na
(Vairochana).
Các
thành
phần
vật
chất
‘đất,
nước,
gió,
lửa’
tương
đương
với
các
uẩn
‘thọ,
tưởng,
hành,
thức’,
theo
thứ
tự,
được
chuyển
biến
thanh
tịnh
thành
các
nữ
thánh,
là
vợ
của
Phật
Bảo
Vật,
Phật
Vô
lượng
Quang
(hay
A
di
Ðà),
Phật
Bất
Không
Thành
Tựu
và
Phật
Bất
Ðộng
(Ratnasambhava,
Amitabha,
Amoghasiddhi
và
Akshobhya). Trong
Tâm
lý
học
Kim
cương
thừa,
vì
thế,
chúng
ta
có
các
uẩn
ấm,
phiền
não
và
các
yếu
tố
tầm
thường,
bất
tịnh
đã
được
chuyển
biến
thanh
tịnh
thành
5
vị
thánh
trên
cõi
trời,
5
kiến
thức
siêu
nhiên
và
5
vị
nữ
thánh
vợ
của
5
chư
Phật
cõi
trời.
Chúng
ta
cũng
có
2
cấp
độ
kinh
nghiệm
đối
xứng
nhau,
cấp
một
là
tiêu
chuẩn
của
các
hình
tướng
bất
tịnh,
cấp
kia
là
tiêu
chuẩn
của
các
hình
tướng
đã
được
thanh
tịnh.
Ðây
là
hệ
thống
tổ
chức
căn
bản
của
tâm
lý
học
Kim
cương
thừa. Trang
240.
Trong
hệ
thống
Kim
cương
thừa,
5
vị
thánh
ở
cõi
trời,
cùng
với
5
phối
ngẫu,
được
tìm
thấy
chính
trong
thân
thể
của
cá
nhân
từng
người.
Họ
hiện
diện
tại
5
trung
tâm
năng
lực
tâm
linh,
còn
được
gọi
là
luân
xa
(chakras),
được
tìm
thấy
trong
thân
thể
của
mỗi
người.
Năm
trung
tâm
năng
lực
tâm
linh
nằm
trên
đỉnh
đầu,
cổ
họng,
trái
tim,
lỗ
rún
và
bộ
sinh
dục.
Tại
mỗi
nơi,
có
một
trong
5
vị
Phật
trên
cõi
trời
với
phối
ngẫu
được
nằm
trên
một
ngai
vàng
hoa
sen:
Phật
Tỳ
lô
giá
Na
(Vairochana)
tượng
trưng
cho
uẩn
sắc
đã
được
thanh
tịnh,
nằm
trên
đỉnh
đầu;
Phật
Vô
lượng
quang
(tức
A
di
đà)
biểu
hiện
cho
uẩn
tưởng
đã
được
thanh
tịnh,
nằm
ở
cổ
họng;
Phật
Bất
Ðộng
(Akshobhya),
biểu
tượng
cho
uẩn
thức
đã
được
trong
sạch,
ở
trái
tim;
Phật
Bảo
Vật
(Ratnasambhava)
tượng
trưng
cho
uẩn
thọ
đã
được
thanh
tịnh,
ở
tại
lỗ
rún;
và
Phật
Bất
không
thành
tựu
(Amogasiddhi),
biểu
tượng
cho
uẩn
hành
đã
được
thanh
tịnh,
nằm
tại
bộ
sinh
dục. Có
một
số
kinh
mạch
của
luân
xa,
được
gọi
là
NADIS,
nối
liền
các
trung
tâm
luân
xa
(năng
lực
tâm
linh)
với
nhau.
Dầu
có
rất
nhiều,
nhưng
có
3
kinh
mạch
chính:
kinh
mạch
trung
tâm
(avadhuti),
chạy
thẳng
từ
trên
đỉnh
đầu
đến
bộ
sinh
dục
và
nối
5
luân
xa;
và
2
kinh
mạch
bên
phải
và
trái
của
kinh
mạch
trung
tâm
(rasana
và
lalana).
Ở
trình
độ
thực
hành
Kim
cương
thừa
cao
cấp,
hành
giả
có
thể
khai
dụng
và
điều
khiển
dòng
mạch
của
năng
lượng
tâm
linh,
tức
năng
lượng
của
cái
tâm,
qua
các
kinh
mạch
tâm
linh
này.
Ðiều
này
giúp
bạn
hợp
nhất
lại
được
các
kinh
nghiệm
tâm
sinh
lý
mâu
thuẫn
nhau
có
trong
mỗi
người
và
trong
vũ
trụ.
Nhờ
vậy,
bạn
nhận
ra
được
qua
thiền
định,
sự
hợp
nhất
tuyệt
đối
của
tất
cả
các
đối
nghịch,
sự
tiêu
diệt
tất
cả
các
đối
đãi.
Ðây
là
mục
tiêu
của
việc
hành
trì
mật
giáo. Trang
241.
Qua
việc
thể
hiện
ngắn
ngủi
này
về
sinh
lý
học
Kim
cương
thừa,
bạn
có
thể
thấy
các
khối
xây
dựng
căn
bản
của
kinh
nghiệm
trong
tâm
sinh
lý
học,
được
thấy
từ
cấp
bất
tịnh
hay
cấp
thanh
tịnh,
được
phản
ảnh
như
thế
nào
trong
việc
hình
thành
nên
tư
chất
con
người
về
phương
diện
sinh
lý
học. Trang
241.Qua
việc
hợp
nhất
được
các
mâu
thuẫn
trong
phạm
vi
kinh
nghiệm
tâm
sinh
lý
cho
một
cá
nhân,
người
thành
thạo
về
Kim
cương
thừa
có
khả
năng
chuyển
biến
cái
nhìn
của
mình
cho
một
vũ
trụ
nhất
thống.
Người
này
có
khả
năng
làm
được
như
vậy
bởi
vì
thân
xác
của
ông
là
một
đại
diện
thu
nhỏ
của
vũ
trụ
này.
Trong
vũ
trụ
học
Kim
cương
thừa,
các
đặc
điểm
của
một
vũ
trụ
nhất
thống
hiện
diện
trong
kinh
nghiệm
tâm
sinh
lý
của
mỗi
một
người.
Núi
Sumeru,
ngọn
núi
trung
tâm
của
vũ
trụ
theo
vũ
trụ
học
Phật
giáo,
được
nằm
trong
một
vòng
thân
xác
của
hành
giả,
giống
như
mặt
trời
và
mặt
trăng,
các
dòng
sông
thiêng
liêng
của
Ấn
độ
và
những
nơi
hành
hương
được
tìm
thấy
trong
vòng
thân
xác
thu
nhỏ
lại
này. Những
đặc
điểm
của
vũ
trụ
không
chỉ
nằm
trong
thân
xác
con
người
mà
nó
còn
là
những
đặc
điểm
nguyên
thủy
của
kinh
nghiệm
đã
được
chuyển
biến
trở
nên
thanh
tịnh.
Chúng
ta
đã
thấy
là
5
vị
thánh
trên
cõi
trời
được
tìm
thấy
trong
5
trung
tâm
luân
xa
(năng
lực
tâm
linh)
thân
thể
con
người.
Cũng
vậy,
chúng
ta
thấy
rằng
kinh
nghiệm
riêng
mỗi
người
thực
sự
chẳng
có
gì
khác
hơn
là
kinh
nghiệm
của
vũ
trụ
đã
trở
nên
thanh
tịnh,
vì
vậy
thân
xác
thực
ra
là
lầu
đài
thần
thánh
của
chư
Phật
siêu
phàm.
Vì
thế,
trong
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trũ
học
Kim
cương
thừa,
chúng
ta
thấy
được
ý
nghĩa
thực
của
thành
ngữ
‘thân
xác
là
một
ngôi
đền’.
Một
ngôi
đền
gồm
các
chư
Thánh
trên
cõi
trời,
những
người
này
không
khác
gì
hơn
là
những
hình
hài
hiện
hữu
đã
được
chuyển
biến
từ
những
mẫu
hiện
hữu
bình
thường
của
các
thành
phần
kết
hợp
tâm
sinh
lý. Bạn
thấy
trong
Kim
cương
thừa
có
sự
tương
đương
chặt
chẻ
giữa
kinh
nghiệm
bình
thường
và
kinh
nghiệm
đã
trở
nên
thanh
tịnh.
Sự
tương
đương
này
được
thiết
lập
qua
ý
tưởng
vi
mô
và
vĩ
mô. Ðặc
biệt,
Kim
cương
thừa
cung
ứng
một
kế
hoạch
tâm
lý
và
sinh
lý
đặc
biệt
cho
các
thành
phần
kinh
nghiệm:
chúng
bị
khuất
phục
bởi
sự
khai
dụng
trực
tiếp
và
hữu
hiệu
của
cái
tâm.
Kế
hoạch
này
dùng
các
trung
tâm
năng
lực
tâm
linh
và
các
kinh
mạch
mà
năng
lực
tâm
linh
đi
qua. Những
gì
tôi
cố
gắng
thực
hiện
trong
chương
này
là
để
cho
thấy
rằng,
trong
hệ
thống
tâm
lý
học,
sinh
lý
học
và
vũ
trụ
học
Kim
cương
thừa
cũng
như
trong
huyền
thoại
và
biểu
tượng
Kim
cương
thừa,
chúng
ta
không
có
sự
mô
tả
gì
bí
ẩn
hay
kỳ
dị
trong
các
hình
thức
ngẫu
nhiên
hay
tùy
tiện.
Ngược
lại,
chúng
ta
có
một
hệ
thống
được
vẽ
ra
rất
cẩn
thận,
hợp
với
các
nguyên
tắc
căn
bản
của
con
đường
Phật
giáo
giải
thoát.
Những
gì
chúng
ta
có,
thực
sự
chỉ
là
sự
phát
triển
đặc
biệt
phong
phú
và
đầy
màu
sắc
của
các
ý
kiến
chúng
ta
đã
thấy
trong
các
tông
phái
Phật
giáo
cổ
đại,
trong
tâm
lý
Vi
diệu
pháp.
Tất
cả
các
ý
kiến
này
có
một
nội
dung
rất
dứt
khoát.
Kim
cương
thừa
cung
ứng
được
các
cách
thức
đầy
màu
sắc,
trong
sáng
và
hấp
dẫn
với
những
thành
phần
khác
nhau
của
kinh
nghiệm
tâm
sinh
lý
học.
Kim
cương
thừa
cũng
mô
tả
cách
chuyển
biến
và
hoàn
tất
như
thế
nào
qua
sự
thanh
lọc
dần
dần
mô
thức
hiện
hữu
của
con
người.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002