TRONG PHẬT GIÁO
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Để giữ được cuộc sống hạnh phúc gia đình giữa chồng và vợ được lâu dài, Đức Phật dạy 5 bổn phận của người chồng đối với vợ:
·
Tôn trọng nhau (Respect).
·
Lịch sự nhã nhặn với nhau
(Courtesy).
·
Trung thành (Faithfulness).
·
Tôn trọng quyền làm vợ (Hang over
authority to her).
·
Cung cấp cho vợ những vật trang
sức cần thiết (Providing her with necessary adornment).
Ngược lại, vợ cũng phải biểu hiện 5 bổn phận
của mình đối với chồng:
·
Thể hiện tốt trách nhiệm của mình
đối với chồng (Well performing her duties).
·
Biểu hiện lòng mến khách đối với
dòng dõi giữa 2 gia đình (Showing her hospitality to the skin of both
families).
·
Trung thành (Faithfulness).
·
Giữ gìn kỷ lưỡng tài sản của
chồng (Well watching over the husband’s wealth)
·
Khéo léo và linh động thực hiện
các việc kinh doanh.(Skill and industry in discharging all her bussiness).
d. Bạn bè với nhau
(21)
Trong phần này, đức Phật đãđưa ra 5 phương
pháp để cư xử trong tình bạn. Vị ấy phải tự mình làm tròn trách nhiệm của
mình đối với bạn theo 5 điều:
·
Rộng lượng với bạn (Generosity).
·
Nhã nhặn với bạn của mình
(Courtesy).
·
Có lòng nhân từ (Benevolence).
·
Cư xử với bạn giống như cư xử với
chính mình (Treating them as he treats himself).
·
Nói lời tốt đẹp (Being as good as
his word).
Ngược lại, người bạn của vị ấy cũng đáp lại cho
vị ấy theo 5 cách:
·
Bảo vệ bạn khi bạn không kịp đề
phòng (Protecting him when he is off his guard).
·
Giữ gìn của cải cho bạn (Guarding
his property).
·
Là nơi nương tựa cho bạn trong
lúc nguy hiểm (Becoming a refuge in danger).
·
Không từ bỏ bạn trong lúc khó
khăn (Not forsaking him in his family).
·
Quan tâm đến gia đình của bạn
(Showing consideration for his family).
e. Bổn phận giữa chủ đối với đầy tớ
(22)
Đức Phật dạy người chủ phải cư xử với người đầy
tớ của mình theo 5 cách:
·
Phân công việc phải tùy theo sức
khẻo và khả năng của đầy tớ (Assigning their work according to their
strength and capabilities).
·
Cung cấp đầy đủ thức ăn và lương
bổng cho họ(Supplying them with food and wages).
·
Chăm sóc họ khi bệnh hoạn
(Looking after them in sickness).
·
Thỉnh thoảng chia sẽ cho họ những
món ăn ngon (Sharing withthem occasional delicacies).
·
Cho phép họ nghỉ ngơi đúng lúc
(Granting leave at time).
Ngược lại, người tớ phải thể hiện 5 bổn phận
trách nhiệm của mìng đối với chủ như:
·
Thức dậy trước người chủ của mình
(Rising before the owner).
·
Đi ngủ sau chủ của mình (Going to
rest after the owner).
·
Bằng lòng với công việc được giao
(Contenting themselves with what is given to them).
·
Làm việc hết lòng (Well working).
·
Làm tốt thanh danh của chủ
(Establishing a good reputation for the owner).
Đặc biệt đối với Tăng-ni, bằng sự tuân thủ
giới tiểu-trung và giới đại , vị ấy thận trọng những hành vi thiện trong
lời nói và việc làm của mình. Sống trong sạch, phẩm hạnh tốt, phòng hộ các
căn, vị ấy chánh niệm tĩnh giác. Vị ấy đạt được sự thanh tịnh về
thân-khẩu-ý (By the observance of Sìla with the Culla Sìla(Minor
Precepts, Majjhima Sìla(Medium Precepts), and Maha Sìla(Major Precepts),
one encompasses himself with good deeds in act and word. Pure are his
means of livelihood, good is his conduct, guarded the door of his senses,
he is mindful and seft-possessed. He attains the purification of
body-speech-and mind)
(23). Với sự hòan hảo
giới hạnh, vị ấy tẩy trừ tâm tham ái, ác ý, yếu ớt và biếng nhác, trạo cử
và hối tiếc, và tâm nghi ngờ (with fulfilment of moral conduct, he
purifies his mind of lusts, of malevolence, of weakness and of sloth, of
flurry and reget, and of doubt)(24).
Khi 5 phiền não đã được tẩy trừ, tâm vị ấy an tịnh chứng và trú vào Tứ
thiền. Sau đó, tâm vị ấy hướng đến Thắng trí, và chứng đắc Tam minh và Lục
thông. Đây là kết quả dị thục của đời sống Sa môn trong cuộc đời.
Từ vấn đề được đề cập ở trên, chúng ta có
thể nói rằng: sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tẩy trừ những hành vi bất
thiện, xây dựng một con người đạo đức và gương mẫu trong xã hội, hình
thành một xã hội hòa bình và hạnh phúc cho con người. Đây là nguyên tắc
đạo đức cơ bản được đức Phật thiết lập vì an lạc hạnh phúc và giải thoát
cho mình và người trong cuộc sống hiện tại cũng như trong tương lai.
3.Sự tu
tập Giới (Sìla):
Trước khi đề cập về sự tu tập giới, chúng ta
không quên đề cập đến công năng và nhiệm vụ của nó. Nhiệm vụ của giới gồm
có 2 nghĩa: hành động để chấm dứt tà hạnh và thành tựu đức không lỗi nơi
người có giới. Bởi thế khi gọi là Giới, cần hiểu rằng nó có nhiệm vụ chặn
đứng các tàhạnh là nhiệm vụ của nó theo nghĩa hành động, và bản chất không
lỗi kể như nhiệm vụ của nó trong nghĩa thành tựu. Vì ở đây, chính hành
động hoặc sự thành tựu được gọi là nhiệm vụ. Còn công năng và lợi ích của
việc trì giới là “phòng phi chỉ ác”(tức là ngăn chặn những việc
làm sai trái và đình chỉ các việc ác. Chính nhờ hành trì đúng đắn các giới
điều đức Phật chế ra, hành giả đạt được sự thanh tịnh về thân-khẩu-ý và
đạt được sự vô uý).
Theo quan điểm của đạo Phật, Giới được đặt
trên nền tảng tình yêu thương rộng lớn và lòng thương xót đối với tất cả
chúng sanh. Vì thế, muốn thành tựu giới trọn vẹn, chúng ta cần phải sống
với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy
nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt. Nhờ vậy, 3 nghiệp được thanh tịnh:
“Thân khẩu ý thanh tịnh,
thị danh Phật xuất thế
Thân khẩu ý bất tịnh, thị danh Phật diệt độ”
Thân khẩu ý thanh tịnh tức là: thân tránh xa
những điều xấu ác như sát sanh-trộm cắp-tà dâm….; miệng không nói dối, nói
2 lưỡi, nói lời độc ác…; ý không móng khởi lên tham-sân-si và tà kiến.
Trong khi thực hành giới , chúng ta cần nhất phải giữ gìn thân và miệng bề
ngoài cho đúng với giới luật thì tâm trí bên trong mới được trong sạch .
Trong và ngoài đều trong sạch, tức nhiên dung nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ
ngộ . Muốn đạt đến chỗ ngộ , hành giả cần phải hướng về những giới điều
như : nhiếp luật giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới( Tam
Tụ Tịnh Giới) … Nếu thực hành đúng Giới học như trên , tức nhiên thân tâm
giải thoát được mọi sự ràng buộc và không sanh khởi những hành vi bất
thiện. Nhờ có sức mạnh của việc trì giới, chúng ta có thể vượt lên sư chi
phối của ngoại cảnh, của nội tâm; hầu tìm đến sự an tịnh cho chính mình
ngay trong cuộc đời.
Trong thời đại hiê䮠nay, người đệ tử Phật (
nói chung) và Tăng - Ni trẻ (nói riêng) cần phải tu tập giới như thế nào
để hoà hợp với cuộc đời khi chúng ta thực hiện nhiệm vụ “Truyền trì đạo
mạch” của đức Thế Tôn ?
Trong kinh Kim cang, có câu :
“Nhất thiết hữu vi pháp – Như mộng , huyễn,
bào ảnh
Như lộ diệc như điển – Ưng tác như thị quán”.
Thật
vậy, vạn vật trên cuộc đời này đều do các duyên hoà hợp mà sinh khởi và
hoại diệt khi duyên tan rã. Các pháp đều không trường tồn, luôn sanh diệt
diệt sanh, sanh sanh diệt diệt, sanh để rồi diệt, diệt để rồi sanh … cứ
như thế luôn đổi thay biến hoá từ tình trạng này sang tình trạng khác.
Chúng như chiêm bao, như huyễn hoá, như bọ bào, như bóng nắng, sương mai,
như điện chớp … nên gọi là vô thường, giả tạm, không thật có … Người học
cần phải biết phân biệt như vậy mà quán sát rằng : con người do Thất đại
(Địa, Thủy, Hoả, Phong, Không, Kiến, Thức) giả hợp mà thành. Hay nói khác,
do duyên của 5 Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) giả hợp mà thành một con
người, mọi sự vật trên cuộc đời đều do Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) giả
tác thành mà hiện hữu. Tất cả luôn bị sức búa của thời gian tàn phá, tiêu
diệt và hủy hoại theo quy luật tất yếu của cuộc sống . Dòng đời luôn vận
chuyển theo thời gian mà thay đổi, sanh diệt và không bao giờ đứng yên một
chổ. Mọi thứ trên cuộc đời đều phải vận động để tiến hoá, đấranh để sinh
tồn. Vì vậy Đức Phật đã từng nói : “Tất cả những lời dạy của Ngài như
ngón tay chỉ mặt trăng” . Chúng ta chớ lầm tưởng ngón tay là cứu cánh,
nó chỉ là “phương tiện” để chỉ cho mọi người hướng đến mặt trăng mà thôi!
Mọi giáo điều của Ngài chỉ là phương tiện để giúp cho con người nương theo
đó vượt thoát mọi khổ đau, hầu hướng đến sự an lạc giải thoát cho chính
mình. Cũng vậy, giáo điều của Phật chỉ tạm chế ra khi có người trong Tăng
đoàn phạm lỗi , nếu không ai có lỗi thì Ngài không chế. Do đó, giới điều
của Phật chỉ là phương tiện làm cho con người thuần thục về tư tưởng, về
lối sống và ứng xử với nhau một cách tốt đẹp. Nếu con người vốn thuần thục
trong giới, họ trở thành những người mẫu mực, chân chánh, thân tâm luôn
thanh tịnh thì cần gì phải giữ gìn giới điều. Khi cây chưa bén rễ, chúng
ta cần phải có hàng rào (giới) để ngăn cản loài chó, gà không bươi phá.
Khi nó bén rễ, phát triển cao lớn, cfnh lá sum xuê thì dù cho không có
hàng rào chăng nữa, gà chó cũng chẳng làm tổn ại gì đến cây.
Trong
tạng kinh Phật giáo đức Phật có đề cập đến 5 sự lợi ích cho người trì giới
và sống đúng giới luật:
a.
Tiền của dồi dào qua công việc làm đứng đắn (Acquirement of great
wealth through his industry and of strong rectitude)
b.
Tiếng lành đồn xa (Good report of him are spread aboard)
c.
Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào , hoặc xã hội, hoặc giới thượng
lưu, hoặc giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng
đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy không sợ hãi và bối rối. (His entering
into whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or members of a
religious order,etc., with his confident and self-possessed mind.)
d.
Chết không sợ hãi (Death without anxiety)
e.
Sau khi chết, vị ấy được thác sanh vào cõi thiên giới (Rebirth
into some happy state in heaven after death)(25)
Và
ngược lại, đức Phật cũng đề cập 5 sự hãm hại và mối nguy hiểm đến với
những ai không tuân thủ giới :
a.
Tài sản bị hao hụt ( Falling from great property through sloth and
devoid of rectitude)
b.
Tiếng ác đồn xa (His evil repute gets noised abroad)
c.Khi
vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc
giới Bà la môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn
giáo (Sa môn) … tâm vị ấy luôn sợ hãi và bối rối. (His entering into
whatever society, Nobles, Brahmins, Householders, or men of a religious
order,etc., with shy and confused mind)
d.
Chết với tâm đầy sợ hãi (Death with full anxiety)
e.
Sau khi chết, vị ấy bị thác sanh vào cõi ác thú (Rebirth into some
unhappy state of suffering or woe after death)(26)
Nói
tóm lại, người Tăng Ni trẻ chúng ta sống trong một thời đại văn minh tiến
bộ , cần phải hiểu biết thâm sâu về sự tu tập giới. Chúng ta không nên
đóng kín những giới điều của Phật trong một khuôn mẫu nhất định mà phải
dùng trí quán sát “Tuỳ Duyên Bất Biến” trong khi tu tập . Dẫu biết
rằng giới lànền tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cửa
ngõ của Niết Bàn; song chúng ta phải biết thực hành giới trong từng hoàn
cảnh, tình huống khác nhau khi tu tập; miễn là tâm hồn định tĩnh, không
tham đắm với ngoại cảnh xung quanh. Giống như cây to lớn phải nảy cành
thay lá nhưng không bao giờ rời gốc của nó. Chúng ta cũng vậy, luôn uyển
chuyển về sự tu tập giới trong từng hoàn cảnh thích hợp với mình không nên
quá khắc khe hoặc phóng khoáng trong việc tu tập giới. Chủ yếu là làm sao
thân tâm chúng ta được an tịnh, tướng mạo đoan trang trong một thái độ
thoải mái, lịch lãm. Có như vậy, ta mới hoà nhập vào lối sống cuộc đời một
cách dễ dàng khi hoá độ. Tinh thần này đã được các vị thiền sư, tổ sư vận
dụng nó làm “kim chỉ nam” trong qúa trình hành đạo, cũng như ngài Tùng
Thẩm Pháp sư vì muốn khai ngộ cho đệ tử mà tự tay mình bóp chết con mèo
trước mặt các hàng đệ tử với một tâm trạng lắng đọng vô tư; như vậy đối
với ngài có sát sanh chăng? Ngài Thiền Lão Thiền sư làm cố vấn, ngài Thảo
Đường làm quốc sư, ngài Đỗ Thuận Thiền sư được vua Lê Đại Hành mời vào
cung bàn luận việc chính trị ngoại giao của nước nhà … Như vậy, các ngài
đã tham đắm danh lợi, hoặc mất tính chất một tu sĩ, hay phá giới chăng?
Là
đời hậu tấn, chúng ta phải noi theo tinh thần của các vị tiền bối, luôn
“phóng khoáng” trong một “trật tự nề nếp” khi tu học giới mà không chấp
chặt ở một giới điều nào cả. Điều quan trọng nhất là luôn duy trì và giữ
vững thân tâm mình được thanh tịnh, an lạc; chánh niệm tĩnh giác trong khi
đi-đứng-nằm-ngồi-nói năng-cư xử … một cách lịch thiệp, ôn hoà và nhã nhặn.
Như vậy, ta đã biết tực hành giới một cách trọn vẹn. Chúng ta đừng qua
niệm rằng: giữ giới tức là mắt thấy sắc không nhìn, tai không dám nghe
tiếng, mũi không dám ngửi mùi hương, lưỡi không chịu nếm hương vị, thân
không dám va chạm, ý không dám suy nghĩ; đó là những người giữ giới theo
sự cố chấp trong từng giới điều. Là con người, lẽ dĩ nhiên chúng ta luôn
cần những món ăn vật chất để nuôi cơ thể và những cuộc vui giải trí hầu
làm thoải mãn tinh thần của con người khi mệt mỏi. Song, là một tu sĩ Phật
giáo, chúng ta phải ăn uống như thế nào để khỏi bị bội thực; tiếp xúc với
ngoại cảnh như thế nào hầu không bị ô nhiễm, tham đắm và đừng để mọi người
chê bai. Đó mới là người biết sống, biết tu trì giới luật trọn vẹn của
Phật. Đạo Phật chúng ta luôn luôn hoà mình vào cuộc đời, mãi mãi là bông
sen mang hương thơm đến cho đời và mọi người mà không bị tổn hại đến hương
sen. Vì vậy, hoa sen là một hình ảnh tượng trưng cho tinh thần nhập thế
của Đạo Phật, tượng trưng một lối sống “tuỳ duyên bất biến” của người tu
sĩ trong thời hiện đại với sứ mạng :
“Truyền trì đạo mạch, tục diệm truyền đăng, xiển dương Chánh pháp, lợi lạc
quần sanh, báo Phật ân đức” trên tinh thần “Đạo pháp – Dân tộc
–CNXH”.
“Hương Chiên đàn Già la – Hương Sen và Vũ quý,
Ngần ấy loại hương vị – Không sánh bằng Giới hương”
(Sandalwood or Tagara, a lotus flower or a vasiki,
Among these kinds of perfume, the perfume of virtue is unsurpassed )(27)
Hay: “Ít giá trị hương này – Hương già-la, chiên đàn,
Chỉ hương ngườiđức hạnh – Tối thượng toả thiên giới”
(Scanty is the scent that comes from Tagara and sandalwood but the
perfume of those who possess virtue rises up to the gods as the highest.)(28)
III.
KẾT LUẬN: (Conclusion)
Như trên đã đề cập, Sìla của Phật giáo luôn dựa trên đạo đức (morality) và lòng từ (compassion) . Sự tuân thủ giới luật (Sìla) là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo đức cá nhân hầu làm cho con người thoát khỏi mọi khổ đau ở đời . Vì thế, đức Phật đã sử dụng nhiều phương tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các giới điều cho các đệ tử tuân hành hầu mang lại sự an lạc và hạnh phúc cho con người.
Mặt khác, Sìla của Phật giáo được bắt nguồn từ nỗi đau khổ của con người. Có nghĩa là sự tuân thủ giới luật (Sìla) không là gì cả ; nó chỉ là những phương tiện tạm thời hầu giải thoát con người từ những phiền não vô minh và tham ái, đạt được sự thanh tịnh thân và tâm (giác ngộ giải thoát) .
Sống trong thời đại văn minh tiến bộ, chúng ta cần phải hiểu và thực hành giới(sìla) một cách chính xác trong khi tu tập. Có nghĩa là chúng ta không nên cố chấp vào những giới điều của Phật như là một khuôn khổ ấn định không bao giờ thay đổi, mà hãy quan sát nó bằng trí tuệ sâu xa của chính mình trong khi tu tập giới. Mặc dù Sìla là nền tảng của trí tuệ, là thềm thang của sự giải thoát, là cách cửa của sự Niết bàn, chúng ta phải nhận thức như thế nào khi tu tập giới trong nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau với tâm an tịnh của chính mình. Hay nói cách khác vị ấy nên uyển chuyển để tu tập giới trong những tình huống thích hợp với chính mình và không nên giữ một thái độ quá khắc khe hoặc quá lỏng lẻo trong khi tu tập giới. Dĩ nhiên, là một con người, chúng ta cần phải thưởng thức những món ăn ở đời để giữ gìn thân thể và vui chơi nhiều trò chơi giải trí để thoải mái tinh thần; Nhưng điều quan trọng là chúng ta ăn uống như thế nào để không bị bội thực, và làm thế nào để thưởng thức những thú vui ở đời mà vẫn luôn giữ tâm an tịnh và giải thoát. Đó làngười biết tuân thủ giới luật một cách đúng đắn và hợp lý.
“Hương các loài hoa thơm – Không bay ngược chiều gió,
Nhưng hương người đức hạnh – Ngược gió khắp tung bay,
Chỉ có bậc Chân nhân – Toả khắp mọi phương trời”
(The scent of flowers does not travel against the wind, nor that of
Sandalwood, or of Tangara and Malika flowers. But the fragance of good
people travels even against the wind, a good man pervades every quarter)(29)
Đặc biệt chúng ta nhận thấy rằng : Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển và tồn tại lâu dài trong cuộc đời cần phải có những con người xã hội đứng đắn. Con người xã hội đứng đắn là con người hoàn hảo về ý thức đạo đức cá nhân với sự vắng mặt của tham sân si ở nội tâm . Sự tuân thủ giới luật không phải là một cái gông cùm áp đặt con người làm điều này không làm điều kia, nó chỉ giúp cho con người quay về với ý thức đạo đức cá nhân của chính họ và diệt tận mọi phiè⮠não khổ đau. Con người sống trong sự thực hành giới có nghĩa là sống trong ý thức đạo đức của chính mình vì thế, mục đích của giới trong Phật giáo là giáo dục con người trở thành người xã hội gương mẫu, người lý tưởng , và người hoàn hảo trong xã hội .
Vai trò của giới Phật giáo là làm cho con người giải thoát tất cả mọi ràng buộc ở đời cũng như cải tạo những hành vi bất thiện mà con người gây ra trong xã hội. Khi con người sống trong giới (Sìla) và thân tâm trở nên an tịnh không còn phiền não tham sân si, xã hô褐trở nên an bình, không còn những vấn đề sát sanh, trọm cắp, v.v.; hoặc xung đột, thù oán cũng như những vấn đề xuống cấp đạo đức cá nhân. Về quan điểm môi trường sinh thái, con người xã hội không những giữ gìn môi trường, cây cối, thảo mộc, đường xá sạch và xanh ; mà còn bảo vệ và chăm sóc chúng bằng ý thức đạo đức của chính mình. Kết quả là xã hội và môi trường sinh thái ngày càng phát triển và tồn tại lâu dài từ trong ánh mắt và trái tim của chúng ta. Đối với giáo dục, giới Phật giáo có một nền giáo dục tâm lý vượt hẳn trên nền giáo dục ở đời vì tính siêu việt của nó . Điều này có nghĩa là giới Phật giáo có một phương pháp giáo dục tuyệt vời diệt tận mọi phiền não hầu mang lại an lạc hạnh phúc tối thượng cho con người. Từ quan điểm này, vai trò của giới Phật giáo có sự đóng góp to lớn đói với sự phát triển xã hội hiện nay trong nhiều phương diện khác nhau.
Bên cạnh , vì tầm quan trọng về vai trò của giới (Sìla) trong giai đoạn hiện nay, người viết chỉ hy vọng rằng chúng ta nên có những công trình nghiên cứu rõ ràng về giới của Phật giáo qua hai quan điểm Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo, hoặc nên có sự nghiên cứu nghiêm túc về Sìla dựa theo lời dạy nguyên thủy của đức Phật mà không dựa theo tư tưởng của các trường phái khi các nhà học giả Phật giáo muốn thực hiện công trình của mình . Tại sao? Vì mỗi trường phái đều có những khái niệm về Sìla riêng biệt và khác nhau; do đó, nguyên từ của Sìla ngay càng xa rời với ý nghĩa nguồn gốc của nó , cũng như mất đi vai trò quan trọng của nó trong cuộc sống con người hiện nay.
Ta có thể nói: với tính uyển chuyển năng động và tích cực của việc thực hành Sìla, giới Phật giáo luôn thích nghi với mọi tình huống hoàn cảnh xã hội, và luôn hiện hữu trong cuộc đời như là một sự cần thiết của xã hội ngày nay. Có như vậy đạo Phật mới đứng vững và hiện hữu được lâu dài ở mọi thời gian và không bao giờ bị mai một, như lời phát biểu của cựu thủ tướng Srilanka Bandaranaike đã nhấn mạnh:
“Phật
giáo sẽ trường tồn như mặt trời, mặt trăng và loài người hiện hữu trên mặt
đất; vì Phật giáo là tôn giáo của con người, của nhân loại nói chung”
(Buddhism will last as long as the sun and moon last and the human race
exists upon the earth, for it is the religion of man, of humanity as a
whole)(30)
Bibliography
I. PRIMARY
SOURCES:
1. Rhys
Davids, T.W. (trans), Sacred Books of the Buddhists: Dialogues of the
Buddha, and F.Max Muller (ed), vol. II, part I, the fifth edition
reprinted, Oxford: P.T.S., 1992.
2. Rhys
Davids, T.W and C.A.F. (trans), Sacred Books of the Buddhists:
Dialogues of the Buddha, vol. III-IV, part II-III, the fourth edition
reprinted, Oxford: P.T.S., 1989.
3. Horner,
I.B. (trans), The Book of the Discipline - Vinaya Pitaka, vol.
III, Oxford: PTS, 1993.
4. Rhys
Davids, T.W., and Hermann Oldenberg (trans), The Sacred Books of the
East: Vinaya Texts, and F. Max Muller (ed), vol. 13, Delhi: Motilal
Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1996.
5.
Buddhaghosa, B. The Path of Purification, trans. by Đànamoli, the
4th edition, Sri lanka : Buddhist Publication Society, 1979.
II. SECONDARY
SOURCES:
1. Vincent A.
Smith, The Edicts of Asoka, Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers
Pvt. Ltd., 1992.
2. Edward J.
Kormondy, The Concept of Ecology, 3rd edition, Delhi: Prentice -
Hall of India Pvt. Ltd., 1994.
3. Kern, H.,
Manual of Indian Buddhism, Delhi: Motilal Banarsidass, 1989.
4. Prof.
Sanghasen Singh, A Study of the Sphutàrthà Srighanaca-rasangraha Tika,
Delhi: Buddhist Text Society, 1975.
5.
Saddhàtissa, H., Buddhist Ethics: Essence of Buddhism, London:
George Allen and Unwin Ltd., 1970.
6. Nikunja
Vihari Banerjee (trans), The Dhammapada, Delhi: Munshiram
Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1989.
III. DICTIONARIES:
1. Rhys
Davids, T.W., and William Stede, Pali - English Dictionary, Delhi:
Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1997.
2. Monier -
William, M. Sanskrit - English Dictionary, Delhi: Motilal
Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999.
3. Cowie,
A.P. (chief-editor), Oxford Advanced Learner’s Encyclopaedic
Dictionary, London: Oxford University Press, Oxford, 1992.
4. Paul
Procter (chief-editor), Cambridge International Dictionary of English,
London: Cambridge University Press, Cambridge, 1995.
5. William
Edward Soothill and Lewis Hodous (compilator), A Dictionary of Chinese
Buddhist Terms, Delhi: Motilal Banarsidass, 1997.
Delhi, ngày 20/02/2001
Chú thích:
(1) N. V. Banerjee (trans), The Dhammapàda, verse 183, p.103. (Pháp Cú, kệ 183, trang 103).
(2) Ibid., verse 281, p. 109.(Như trên, kệ 281, trang 109).
(3) Vincent A. Smith, The Edicts of Asoka, pp. 6 – 8. ( Những Sắc Dụ của vua A Dục, từ trang 6-8).
(4) Edward J. Kormondy, Concept of Ecology, preface xiv.(Khái niệm về MôiTrường, lời nói đầu xiv)
(5) N.V.Banerjee (trans), op.cit.,verse 49, p.126.( như trên, kệ 49,trang 126)
(6) A. P. Cowie (ed) , Oxford Advanced Learner’s Dictionary, p.704. (Từ Điển Oxford nâng cao, trang 704).
(7) Paul Proctor (ed) , Cambridge International Dictionary of English, p. 1109. (Từ Điển Anh Văn quốc tế Cambridge, trang 1109).
(8) William Edward Soothill and Lewis Hodous (compilers) , A Dictionary of Chineses BuddhistTerms, p.239. (Từ Điển Thuật Ngữ Phật Học Trung Quốc, trang 239).
(9) B. Buddhaghosa, The Path of Purification, p.7.(Thanh Tịnh Đạo, trang 7)
(10) T. W. Rhys Davids and W. Stede, Pàli- English Dictionary, p.712. (Từ Điển Pàli-Anh, trang 712).
(11) M. Monier-William, Sanskrit- English Dictionary, p. 1079.(Từ Điển Sanskrit- Anh, trang 1079).
(12) T. W. Rhys Davids and H. Oldenberg (trans), The Sacred Book of the East, vol. 13, pp. 3-68 ( Thánh Điển Phương Đông, tập 13, từ trang 3 đến trang 68)
(13) I. B. Horner(trans), The Book of Discpline: Vinaya Pitaka, vol.III, pp. 156-176. (Luật Tạng, tập III, từ trang 156 đến trang 176.)
(14) T. W. Rhys Davids and H. Oldenberg, op. cit., p.211.(như trên, trang 211)
(15) H. Kern, Manual of Indian Buddhism, p.70. (Sách Giáo Khoa về Phật Giáo Aᮍ Độ, trang 70.)
(16) H. Saddhàtissa, Buddhist Ethics: Essence of Buddhism, pp. 87-112.(Đạo Đức Phật Giáo: Nền Tảng của Phật Giáo, từ trang 87 đến trang 112).
(17) Prof. Sanghasen Singh, A Study of the Sphutarthà Srighanacarasangraha Tika, p. 14.
(18) T. W. and C. A. F. Rhys Davids (trans), Sacred Book of the Buddhists: Dialogues of the Buddha, vol. IV, part III, pp. 180-181.(Thánh Kinh Phật Giáo: Trường Bộ kinh, chương IV, phần III, trang 180 đến trang 181).
(19) Ibid., p. 181.( Như trên, trang 181).
(20) Ibid., pp. 181-182.(Như trên, từ trang 181 đến trang 182)
(21) Ibid., p. 182.(Như trên, trang 182).
(22) Ibid., pp.182-183. (Như trên, từ trang 182 đến trang 183).
(23) T. W. Rhys Davids (trans), op. cit., vol. II, part I, p. 79. (Như trên, chương II, phần I, trang 79).
(24) Ibid., p. 82.(Như trên, trang 82).
(25) Ibid.,vol III, part II,p.91.(như trên, chương III, phần II, trang 91.)
(26) Ibid, pp.90-91.(như trên,, từ trang 90 đến trang 91)
(27) N. V. Banerjee (trans), op.cit.,verse 55, p.127. (như trên, kệ 55, trang 127).
(28) Ibid.,verse 56, p.127. (như trên, kệ 56, trang 127).
(29) Ibid.,verse 54, p.127. (như trên, kệ 54, trang 127).
(30) Phật giáo dưới mắt các nhà trí thức, Tr. 56, T.Tâm Quang dịch.
Nguồn: www.quangduc.com