I. Anttha chấp thủ các dục
không phải là chướng ngại và đức Thế Tôn giải
thích các dục là chướng ngại pháp với mười ví dụ nêu rõ các dục là
vui ít khổ nhiều, não nhiều, và các nguy hiểm nơi
đây lại nhiều hơn.
II. Tai hại nắm giữ sai lạc các
pháp.
Trái lại, có một số thiện nam
tín nữ học pháp xong, quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những
pháp ấy, vì được trí tuệ quán sát nên
được rõ ràng. Họ học pháp không phải
vì muốn chỉ trích người khác, không phải vì khoái khẩu biện luận, và chứng
đạt được mục tiêu mà học pháp hướng
đến. Những pháp ấy, vì Tỳ kheo nắm
giữ, đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài.
Vì sao vậy? Vì không nắm giữ sai lạc các pháp. Cũng vậy, một người muốn
bắt con rắn nước, người ấy có thể đè
con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi đè
con rắn với cây gậy có nạng, người ấy có thể nắm giữ cổ con rắn. Dù con
rắn có thể uốn thân của nó xung quanh tay hay cánh tay hay một thân phần
khác, người ấy không thể bị rắn cắn chết hay
đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Vì khéo nắm giữ con rắn
độc. ở đây cũng vậy, những thiện nam tử ấy, vì
Tỳ kheo nắm giữ pháp, Tỳ kheo quán sát ý nghĩa pháp ấy với trí tuệ Do vậy
Thế Tôn khuyên các Tỳ kheo hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Thế Tôn dạy mà thọ trì.
Nếu có kẻ không hiểu rõ ý nghĩa lời Thế Tôn dạy thì người ấy nên
đến hỏi Thế Tôn hay hỏi những bậc Tỳ kheo có
trí để được hướng dẫn.
III. Thế Tôn giảng pháp cho các
Tỳ kheo như chiếc bè để vượt qua sông, không
phải để nắm lấy. Chánh pháp còn phải bỏ
đi, huống nữa là phi pháp.
Đức Thế Tôn xác định Thế Tôn
thuyết pháp, như chiếc bè để vượt qua,
không phải để nắm giữ lấy. Ví như một người đi đến một vùng nước
rộng, bờ bên này, nguy hiểm hãi hùng, bờ bên kia thì an ổn, không có gì sợ
hãi. Nhưng không có thuyền để vượt qua, người
ấy bèn thâu góp cành lá cỏ cây cột lại thành chiếc bè, và dựa trên
chiếc bè này để vượt qua bờ bên kia
một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, lại suy nghĩ chiếc bè
được xây dựng lên một cách công phu,
bỏ lại thì luyến tiếc, nên người ấy đội chiếc
bè trên vai và tiếp tục đi. Hành
động ấy khiến mọi người đàm tiếu, vì
sử dụng không đúng với sở dụng của chiếc bè.
Người ấy, khi qua bờ bên kia rồi, có thể kéo chiếc bè lên bờ, hoặc nhận
chìm xuống nước rồi tiếp tục đi theo công
việc của mình. Và đến đây thì
Thế Tôn nói lên một lời dạy bất hủ, mãi mãi
được truyền tụng cho đến ngày nay: "Này các Tỳ kheo, Ta thuyết pháp
như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm
giữ lấy. Chư Tỳ kheo, các ông cần hiểu ví dụ chiếc bè, Chánh pháp
còn phải bỏ đi, huống nữa là phi
pháp".
IV. Chấp thủ sáu kiến xứ là tự
ngã. Thái độ của kẻ vô văn phàm phu và
bậc Thánh đệ tử.
Kẻ vô văn
phàm phu, không yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các
bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không yết kiến các bậc Chân
nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc
Chân nhân. Xem sắc pháp, xem các cảm thọ, xem các tưởng, xem các hành, xem
cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc,
được ý thức, được đạt tới, được tầm cầu, được ý suy tư: “Cái này là
của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi", và bất cứ kiến xứ
nào, nói rằng: "Đây là thế giới,
đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ
thường còn, thường hằng, sẽ trú như thế này cho
đến mãi mãi, xem như vậy là cái này là
của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi". Thái
độ của vị Thánh đệ tử nghe nhiều thời khác
hẳn, không những các vị này yết kiến, thuần thục, tu tập pháp các
bậc Thánh, các bậc Chân nhân, các vị này đối
với năm thủ uẩn là cái không phải của tôi, không phải là tôi, không
phải là tự ngã của tôi, và bất cứ kiến xứ nào nói rằng: "Đây
là thế giới, đây là tự ngã, sau
khi chết tôi sẽ thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như
thế này cho đến mãi mãi, xem như vậy
là cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không
phải tự ngã của tôi". Vị này do quan sát như vậy,
đối với sự vật không thật có, nên
không có lo âu phiền não.
V. Lo âu phiền não
đến và không
đến với những ai.
1. Có thể có cái không thật có
ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn.
Có người nghĩ như sau: "Cái gì
chắc chắn đã là của tôi nay chắc chắn
không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi
không được cái ấy”.
Người ấy sầu muộn, than vãn,
khóc lóc đi đến bất tĩnh.
2. Có thể có cái gì không thật
có ở ngoài không có thể gây lo âu phiền muộn.
Có người không nghĩ như sau:
"Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay
chắc chắn không còn là của tôi. Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc
chắn tôi không được cái ấy”. Người ấy không
sầu muộn, than vãn, khóc lóc đi đến
bất tỉnh.
3. Có cái gì không thật có ở
trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.
Ở
đây có người không khởi lên tà kiến như sau: "Đây
là thế giới, đây là tự ngã. Sau
khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú. Tôi sẽ trú như vậy
cho đến mãi mãi". Người này nghe Như
Lai hay đệ tử của Như Lai thuyết pháp để bài
trừ tất cả các kiến xứ, cố chấp, luận chấp, thiên kiến, tùy miên, sự
đình chỉ mọi hành
động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ
mọi khát ái, đưa đến ly tham, đoạn diệt Niết
Bàn? Vị ấy không có nghĩ như sau: "Chắc chắn ta sẽ bị
đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc
chắn ta sẽ không tồn tại”. Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc
lóc, đấm ngực đi đến bất tỉnh.
4. Thế Tôn
đặt một số câu hỏi.
Các người có thể nắm giữ một
vật sở hữu gì mà vật sở hữu được nắm giữ ấy
sẽ thường hằng, thường còn, thường trú, không chuyển biến? - Thưa
không!
5. Các người có thể thấy một
vật sở hữu gì được nắm giữ và vật sở
hữu nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú mãi mãi? - Thưa
không !
6. Thế Tôn xác nhận Thế Tôn
cũng không thấy vật sở hữu nắm giữ nào, mà vật sở hữu
được nắm giữ sẽ thường còn, thường
hằng, thường trú, không biến chuyển, có thể trú như thế này mãi mãi.
7. Các người có thể chấp thủ
một ngã luận thủ nào mà ngã luận thủ ấy được
chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu bi khổ ưu não? - Thưa
không!
8. Các người có thấy một ngã
luận thủ nào mà ngã luận thủ ấy được chấp thủ
như vậy lại không khởi lên sầu bi, khổ, ưu, não? - Thưa không?
9. Thế Tôn cũng không thấy ngã
luận thủ nào, mà ngã luận thủ ấy được chấp
thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
10. Các người có ý chỉ kiến y
nào mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? - Thưa không !
11. Các người có thấy kiến y
nào mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não? - Thưa không !
12. Thế Tôn cũng không thấy
kiến y nào mà kiến y được y chỉ như vậy lại
không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
13. Nếu có ngã thời có ngã sở
thuộc, nếu có ngã sở thuộc thời có ngã của tôi. Nếu ngã và ngã sở thuộc
không thể được chấp nhận là thường
còn, thời kiến xứ này – "Đây là thế
giới đây là tự ngã, sau khi chết tôi
sẽ thường còn, thường hằng", kiến xứ ấy có hoàn toàn ngu si không? Kiến xứ
ấy thực sự là triệt để ngu si.
VI. Quan
điểm vô ngã của
đức Phật:
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là
vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời thật không hợp lý khi chánh quán năm
thủ uẩn: “Cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi".
Bất cứ sắc pháp nào, thọ pháp
nào, tưởng pháp nào, hành pháp nào, thức pháp nào, quá khứ tương lai hiện
tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả các
pháp ấy là "cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải tự
ngã của tôi". Cần phải như thật quán với trí tuệ.
VII. Nhờ quán vô ngã
đưa đến giải thoát.
Nhờ quán như vậy, thấy như vậy,
vị Thanh văn nhàm chán
đối với sắc, nhàm chán
đối với thọ, nhàm chán
đối với tưởng, nhàm chán
đối với hành, nhàm chán
đối với thức. Do nhàm chán nên ly
tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong
sự giải thoát có trí khởi lên biết
được “ta đã giải thoát". Vị ấy biết "Sanh
đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những gì nên làm
đã làm, không còn trở lại
đời này nữa".
VIII. Những
đặc tánh của một vị đã giải thoát.
1. Tỳ kheo ấy
được gọi là vị
đã vất bỏ các chướng ngại, nghĩa
là đã
đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây tala bị chặt
đầu, không thể tái sanh trong tương lai.
2. Tỳ kheo ấy
được gọi là
đã lấp
đầy các thông hào tức là đã
đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển
sanh tử.
3. Tỳ kheo ấy
đã nhổ lên cột trụ, tức là
đã đoạn
trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ.
4. Tỳ kheo ấy
đã mở tung các ổ khóa,
đã đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử...
5. Là bậc Thánh
đã hạ cây cờ xuống,
đã đặt
gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy, tức là
đã đoạn
trừ ngã mạn.
IX. Thế Tôn bị xuyên tạc là chủ
trương chủ nghĩa hư vô.
Vì Thế Tôn thuyết một vị Tỳ
kheo được giải thoát như vậy sẽ không một ai
tìm được dấu vết. Ngài nói
thêm: "Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu vết". Vì
lúc thuyết giảng như vậy, một số ngoại đạo
xuyên tạc Thế Tôn là chủ trương chủ nghĩa hư vô,
đề cao đoạn diệt, hủy diệt và sự tiêu
diệt các hữu tình. Thế Tôn phủ nhận lời xuyên tạc như vậy. Xưa cũng như
nay, Thế Tôn nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Nếu có ai phỉ báng Như Lai,
nhiếc mắng Như Lai, Thế Tôn không có sân hận. Nếu có ai tôn trọng cúng
dường Như Lai, Thế Tôn không có hoan hỷ, không có thích thú. Thế Tôn chỉ
suy nghĩ: "Đây là
điều xưa kia đã từng biết rõ. Ở
đây là những trách nhiệm Ta phải làm".
Do vậy, Thế Tôn khuyên các Tỳ kheo chớ có tức tối, sân hận nếu bị người
chỉ trích. Chớ có hoan hỷ thích thú nếu được
người ta lễ bái cúng dường, các Tỳ kheo hãy suy nghĩ: "Đây
là điều xưa kia đã từng biết
rõ. Ở đây là những trách nhiệm ta phải
làm".
X. Lời Thế Tôn khuyên dạy:
"Này các Tỳ kheo, cái gì không
phải các người, các người hãy từ bỏ. Các người từ bỏ sẽ
đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài. Sắc
không phải của các người, hãy từ bỏ sắc. Thọ không phải của các người, hãy
từ bỏ thọ. Tưởng không phải của các người, hãy từ bỏ tưởng. Các hành không
phải của các người, hãy từ bỏ hành. Thức không phải của các người, hãy từ
bỏ thức. Các người từ bỏ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sẽ
được hạnh phúc an lạc lâu dài cho các
người".
Như trong rừng Jetavana này,
nếu người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá, đốt lên
hay làm theo ý họ muốn. Các Tỳ kheo không nghĩ rằng người ấy thâu lượm
chúng ta, đốt chúng ta và làm với
chúng ta tùy theo ý muốn. Vì sao vậy? Vì cỏ, cây, nhành, lá không phải tự
ngã, không phải sở thuộc của tự ngã. Cũng vậy, cái gì không phải của các
người, hãy từ bỏ chúng. Từ bỏ chúng sẽ đem
lại hạnh phúc cho các người. Và cái gì không phải của các người?
Chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
XI. Những lợi ích thiết thực
của pháp đức Phật thuyết giảng.
Vì pháp
được Thế Tôn khéo thuyết giảng khéo khai
thông, khéo khai thị, nên giúp các vị hành trì có thể chứng
được bốn Thánh quả, là quả A-la-hán,
quả Bất lai, quả Nhất lai, quả Dự lưu.
1. Các vị A-la-hán là những vị
đã đoạn
tận các lậu hoặc tu hành thành mãn, việc nên làm
đã làm, gánh nặng
đã đặt
xuống. Lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết
sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ
chánh trí, vòng luân chuyển của những vị này không thể chỉ bày.
2. Các vị Bất lai là những vị
đã đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập diệt tại đây, không phải trở
lui tại đời này nữa.
3. Các vị Nhất lai là những vị
đã đoạn
trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, chỉ
đến đời này một lần nữa sẽ diệt tận
khổ đau.
4. Các vị Dự lưu là những vị
đã đoạn
trừ ba kiết sử, không còn bị đọa lạc
trong đường ác thú, quyết định hướng đến chánh quả.
5. Những Tỳ kheo nào là những
vị Tùy pháp hành, Tùy tín hành, tất cả những vị ấy
đều hướng đến Chánh giác.
6. Vì pháp
được Thế Tôn khéo giảng, nên những vị
nào chỉ đủ niềm tin nơi Thế Tôn, chỉ đủ lòng
thương mến đối với Thế Tôn, tất cả những vị
ấy được hướng về chư Thiên.
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục