.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Triết
lý
về
Nghiệp
Trong
bài
này
chúng
tôi
chỉ
trình
bày
một
cách
vắn
tắt
về
triết
lý
nghiệp
báo
đã
được
dạy
trong
kinh
điển,
chứ
không
có
cao
vọng
phân
tách
hay
chứng
minh
cho
triết
lý
cao
siêu
đó.
Chúng
tôi
đặc
biệt
đề
cập
đến
nghiệp
lý
trong
nhà
Phật
với
mục
đích
phân
biệt
với
những
quan
niệm
khác
về
"Nghiệp"
của
các
nhà
tư
tưởng
phi
Phật
Giáo
ngay
trong
thời
Đức
Phật
hay
mãi
về
sau.
Thật
vậy,
càng
ghi
nhận
một
sự
khác
biệt
lớn
lao
về
Nghiệp
Lý
giữa
Phật
Giáo,
Ấn
độ
Giáo,
Bà
La
Môn
Giáo,
Kỳ-Na
Giáo
(Jainism)
và
Ajivakism.
Người
ta
có
khuynh
hướng
đề
cập
đến
chữ
nghiệp
như
là
một
triết
lý
chung
cho
hầu
hết
các
Tôn
Giáo
Đông
Phương
mặc
dù
trên
thực
tế
các
tôn
giáo
đều
chủ
trương
dị
biệt,
hoặc
toàn
diện
hoặc
một
khía
cạnh
nào
đó.
Một
ngộ
nhận
khác,
do
một
số
học
giả
Tây
phương
cho
rằng
Nghiệp
đồng
nghĩa
với
thuyết
Định
Mệnh,
trong
khi
một
số
người
khác
chủ
trương
Nghiệp
mang
sắc
thái
xã
hội
học
và
sinh
vật
học.
Sở
dĩ
có
những
ngộ
nhận
như
thế
vì
người
ta
chỉ
đọc
qua
một
số
sách
báo
nói
về
nghiệp
lý
mà
không
nghiên
cứu
giáo
lý
chính
thống
được
truyền
bá
qua
kinh
điển
nguyên
thủy.
Trước
hết
ta
phải
định
nghĩa
thế
nào
là
Nghiệp,
vì
đó
là
mấu
chốt
giúp
chúng
ta
phân
biệt
nghiệp
lý
dùng
trong
nhà
Phật
và
trong
các
giáo
lý
khác.
Theo
định
nghĩa
được
tìm
thấy
trong
văn
học
tiền
Phật
Giáo
thì
chữ
Nghiệp
được
dùng
để
chỉ
các
nghi
lễ
tôn
giáo,
hay
bổn
phận
của
mỗi
cá
nhân
trong
xã
hội.
Chúng
ta
đọc
thấy
câu
sau
đây
trong
Isàupanisad:
"Kurvanne
veha
karmàni
jijìvisecchatam
samah"
(Hãy
để
cho
con
người
ước
vọng
sống
lâu
trăm
tuổi
và
thi
hành
bổn
phận
trong
xã
hội).
Điều
này
chứng
tỏ
rằng
chữ
Karma/Kamma
-
Nghiệp
dùng
với
nghĩa
bổn
phận
hay
nghiệp
vụ.
Trong
kinh
điển
Phật
Giáo,
chữ
Karma
cũng
được
dùng
với
nghĩa
nghiệp
vụ
hay
nghề
nghiệp
khác
nhau
của
mỗi
người.
Từ
ngữ
Anavajjàni
kammàni
được
Đức
Phật
dùng
để
nhắc
nhở
tín
đồ
nên
làm
những
nghề
nghiệp
hợp
với
đạo
đức
tức
là
ám
chỉ
Chánh
Mạng
chứ
không
phải
Chánh
Nghiệp.
Như
thế
chứng
tỏ
rằng
trong
một
vài
khía
cạnh
chữ
Nghiệp
trong
Phật
Giáo
và
trong
văn
học
tiền
Phật
Giáo
đồng
nghĩa.
Tuy
nhiên
đó
chỉ
là
nghĩa
phụ
thuộc.
Về
phương
diện
triết
học,
chữ
nghiệp
có
một
nghĩa
chuyên
môn
đặc
biệt
chỉ
được
đề
cập
trong
văn
học
Phật
Giáo
mà
thôi.
Đức
Phật
dạy
rằng:
Cetanàham
bhikkhave
kammam
vadàmi
(Này
các
vị
Tỳ
khưu,
Như
Lai
chủ
trương
rằng
"cố
ý"
tức
là
Nghiệp).
Định
nghĩa
này
rất
phổ
thông
mà
bất
cứ
ai
nghiên
cứu
kinh
điển
Pàli
đều
biết
đến.
Như
vậy,
chữ
Nghiệp
ở
đây
được
dùng
để
chỉ
những
hành
động
cố
ý.
Những
hành
động
này
có
thể
là
Thiện
hay
Thiện
Nghiệp,
có
thể
là
Bất
Thiện
hay
Bất
Thiện
Nghiệp,
có
thể
được
biểu
hiệu
qua
thân
gọi
là
Thân
nghiệp,
qua
khẩu
gọi
là
Khẩu
nghiệp
hay
qua
ý
thức
thuần
túy
gọi
là
Ý
nghiệp.
Mỗi
người
đều
phải
chịu
trách
nhiệm
về
kết
quả
của
những
hành
động
thiện
hay
ác
này,
dù
kết
quả
đó
tốt
hay
xấu,
vui
hay
khổ.
Nghiệp
quả
này
có
thể
thể
hiện
trong
kiếp
sống
hiện
tại,
kiếp
kế
cận
hay
bất
cứ
kiếp
sống
nào
trong
tương
lai
tùy
theo
tiềm
lực
của
chúng.
Cũng
có
khi
nghiệp
quả
không
hiệu
nghiệm,
vì
chúng
quá
yếu
ớt,
không
có
đủ
điều
kiện,
hay
nói
theo
danh
từ
chuyên
môn
là
không
đủ
nhân
duyên,
để
hiện
khởi.
Thật
ra,
nếu
chúng
ta
nghiên
cứu
sâu
xa
hơn,
thì
sẽ
thấy
rằng
Cố
ý
(cetanà)
chỉ
là
điều
kiện
cần
chứ
chưa
đủ
để
tạo
nghiệp
trừ
phi
đó
là
ý
Nghiệp
thuần
túy.
Vì
có
rất
nhiều
nghiệp
cần
đến
sự
hổ
trợ
của
thân
và
khẩu.
Thí
dụ
như
một
người
chưa
thể
bị
ghép
tội
sát
nhân
khi
anh
ta
mới
có
ý
định
đó.
Vì
vậy
trong
kinh
Atthasàlini
phân
định
rất
rõ
ràng
5
điều
kiện
hội
đủ
để
kết
tội
sát
sanh
:
1.
Người
hay
vật
có
sự
sống
2.
Biết
rằng
người
hay
vật
còn
sống
3.
Có
ý
muốn
giết
4.
Cố
gắng
giết
5.
Người
hay
vật
ấy
chết
bởi
hành
động
cố
sát
của
mình.
Như
vậy
chỉ
đơn
thuần
một
điều
kiện
thứ
3,
tức
là
mới
có
ý
định,
chưa
đủ
để
buộc
tội
sát
sanh.
Tuy
nhiên
điều
kiện
thứ
3
là
điều
kiện
tất
yếu,
không
có
nó
không
thể
gọi
là
nghiệp.
Ví
dụ
một
hành
động
vô
ý
của
ta
gây
nên
một
án
mạng,
thì
đó
không
phải
là
tội
cố
sát,
mà
chỉ
có
tội
ngộ
sát
thôi.
Những
nghiệp
biểu
hiện
qua
khẩu
cũng
vậy,
phải
đòi
hỏi
những
điều
kiện
tương
tự
mới
thành
tựu
được.
Nói
một
cách
vắn
tắt,
chữ
nghiệp
được
dùng
trong
Phật
Giáo
để
chỉ
những
hành
động
cố
ý,
qua
thân,
khẩu
hay
ý
và
được
phẩm
định
giá
trị
thiện
ác
tùy
theo
kết
quả
của
chúng.
Nhiều
người
khi
nghiên
cứu
Phật
Học
thường
cho
rằng
Nghiệp
lý
xuất
từ
bài
kinh
Cùlakammavibhanga
(Tiểu
nghiệp
phân
biệt),
Majjhima
Nikàya
(Trung
Bộ
Kinh).
Trong
bài
kinh
này
Đức
Phật
có
đề
cập
đến
Nghiệp
lý
để
làm
tăng
trưởng
đức
tin
của
hàng
tứ
chúng,
nhưng
thật
ra
đó
chưa
phải
là
bài
kinh
chính
đề
cập
đến
triết
lý
này.
Trong
kinh
Cùlakammavibhanga,
một
thanh
niên
Bà
La
Môn
đến
yết
kiến
Đức
Phật
và
yêu
cầu
Ngài
giải
thích
tại
sao
trong
nhân
loại
có
người
yểu
tử,
người
lại
sống
lâu,
có
người
bịnh
hoạn,
người
lại
mạnh
khoẻ,
có
người
xấu
xa,
kẻ
xinh
đẹp,
người
nghèo
hèn,
kẻ
sang
giàu,
có
người
địa
vị
cao
vọng,
kẻ
lại
khốn
khổ
bần
cùng
...
nguyên
nhân
nào
khiến
cho
có
sự
bất
bình
đẳng
như
thế
giữa
con
người
với
con
người
trong
xã
hội.
Đức
Phật
nhân
đó
trả
lời
rằng:
Chúng
sanh
thọ
lãnh
báo
ứng
của
Nghiệp
mà
họ
đã
tạo
tác
và
chính
vì
nghiệp
báo
này
mà
có
sự
bất
bình
đẳng
giữa
tất
cả
chúng
sanh.
Maurice
Maeterlinek,
một
văn
sĩ
nói:
"Chúng
ta
hãy
trở
lại
với
thuyết
Nghiệp
Báo
Tái
Sanh
vì
không
thể
có
cái
gì
cao
đẹp
hơn,
công
bình
hơn
và
đạo
đức
hơn.
Cũng
không
có
một
thuyết
lý
nào
khả
tín
hơn.
Tự
nó
cũng
đủ
chứng
minh
về
tất
cả
những
bất
đồng
về
thể
xác,
tri
thức
và
cả
những
bất
công
xã
hội,
những
sự
thiên
lệch
ghê
gớm
của
số
phận."
Giáo
sư
Allan
G.
Widgery
Standon,
giảng
sư
triết
học,
thần
học,
tại
đại
học
đường
Cambridge
và
sau
này
là
giảng
sư
triết
học
đại
học
Duke
ở
Mỹ
cũng
đã
nói:
"Chắc
chắn
là
con
người
sinh
ra
trong
những
điều
kiện
bất
đồng.
Sự
bất
đồng
đó
tùy
thuộc
tư
cách
hành
động
của
mỗi
người
trong
kiếp
quá
khứ
qua
định
luật
nghiệp
báo."
Nhiều
người
dùng
những
phương
pháp
luận
lý
như
qui
nạp,
diễn
dịch
tam
đoạn
luận,
song
quan
luận...
để
hiểu
triết
lý
nghiệp
báo
thậm
thâm
vi
diệu
của
Đức
Phật.
Nhưng
vấn
đề
nghiệp
báo
không
phải
hoàn
toàn
thuận
lý.
Mặc
dù
Đại
Đức
Ananda
khuyên
chúng
ta
chỉ
nên
tin
những
gì
đạt
được
bằng
lý
trí,
nhưng
triết
lý
nghiệp
báo
không
thể
chỉ
dùng
lý
mà
hiểu
được.
Do
đó
Đức
Phật
dạy
rằng:
"Kammavipàko
acinteyyo"
(không
nên
suy
nghĩ
về
hiệu
năng
của
nghiệp
lực).
Thật
vậy
chúng
ta
chỉ
có
thể
thông
suốt
được
sự
vận
chuyển
của
nghiệp
qua
lý
trí,
kinh
nghiệm
và
nhất
là
trực
giác.
Dẫu
sao
chúng
ta
cũng
có
thể
chứng
kiến
được
sự
thật
hiển
nhiên
là
có
sự
thiên
lệch
rõ
rệt
trong
xã
hội
loài
người
nói
riêng
và
chúng
sanh
nói
chung.
Và
khi
Đạo
Phật
đã
chứng
tỏ
được
nguyên
nhân
của
sự
bất
đồng
đó
thì
dĩ
nhiên
Đạo
Phật
cũng
chủ
trương
san
bằng
những
bất
công
trong
xã
hội.
Thật
vậy,
những
bất
công
trong
xã
hội
có
thể
san
bằng,
hay
giảm
thiểu.
Về
phương
diện
kinh
tế,
nếu
được
cải
tạo
khéo
léo
thì
trật
tự
xã
hội
sẽ
ổn
định,
con
người
có
thể
sống
lâu
hơn,
mạnh
khoẻ
hơn,
những
sự
chênh
lệch
về
vật
chất
được
giảm
thiểu
để
đưa
xã
hội
đến
chỗ
tương
đối
bình
đẳng
hơn.
Về
phương
diện
tinh
thần,
sự
bất
đồng
gây
nên
do
mức
độ
tham
lam,
sân
hận
và
si
mê
nhiều
hay
ít.
Vì
vậy
muốn
san
bằng
những
bất
đồng
về
tinh
thần
thì
phải
tiêu
diệt
tham,
sân,
si
bằng
những
đức
tính
Bố
Thí,
Từ
Bi
và
Trí
Tuệ.
Thông
suốt
được
tác
động
vận
chuyển
của
nghiệp
tức
là
đã
đắc
Đệ
Nhị
Minh
(dutiyà
vijjà)
trong
Tam
Minh
(tisso
vijjà):
Túc
Mạng
Minh,
Sinh
Tử
Minh
hay
Thiên
Nhãn
Minh,
và
Lậu
Tận
Minh
mà
Đức
Phật
đã
chứng
ngộ
trong
đêm
thành
đạo.
Khi
ấy
tâm
của
Ngài
nghiêm
tịnh,
thanh
khiết,
vô
nhiễm,
thoát
ly
khỏi
các
lậu
hoặc,
nhu
nhuyến,
thích
ứng,
chánh
trực
và
tự
tại.
Ngài
chuyên
chú
vào
hiện
tượng
sinh
tử
của
chúng
sinh
và
với
Thiên
Nhãn,
Ngài
thấy
chúng
sanh
có
kẻ
cao
thượng,
người
thấp
hèn,
kẻ
xinh
đẹp
người
xấu
xa,
kẻ
hạnh
phúc
người
khốn
khổ;
sinh
sinh,
tử
tử
tùy
theo
nghiệp
của
họ.
Trong
kinh
Mahàsìhanàda,
Majjhima
Nikàya
(Trung
Bộ
Kinh),
Đức
Phật
nói
đến
sự
chứng
nghiệm
của
Ngài
như
là
một
cuộc
thực
nghiệm
khoa
học.
Ngài
thuyết:
"Có
5
con
đường
gọi
là
ngũ
đạo.
Này
Sàrìputta,
Ngũ
đạo
đó
là
gì?
Địa
ngục,
súc
sanh,
ngạ
quỉ,
người
và
trời.
Như
Lai
biết
rõ
những
cõi
địa
ngục,
con
đường
dẫn
tới
địa
ngục
hay
những
loại
nghiệp
nào
đưa
vào
cảnh
giới
khổ
đau
này
sau
khi
chết.
Này
Sàrìputta,
Như
Lai
biết
rõ
tâm
của
mỗi
chúng
sanh
trong
đó,
chúng
sanh
nào
vì
hành
động
như
thế
nào,
tạo
những
nghiệp
nhân
như
thế
nào,
rồi
phải
bị
sanh
vào
địa
ngục
như
thế
nào
sau
khi
thân
hoại
mạng
chung.
Rồi
với
tâm
thanh
tịnh,
sáng
suốt
và
siêu
việt.
Như
Lai
thấy
chúng
sanh
ấy
đọa
vào
địa
ngục
chịu
nhiều
đau
khổ.
Giống
như
có
một
người
mệt
lã,
kiệt
lực
đang
khấp
khểnh
tiến
đến
một
hầm
lá
cháy
ngùn
ngụt.
Một
người
khác
chứng
kiến
tận
mắt
cảnh
đó
tự
nhủ
rằng:
chắc
chắn
người
này
sẽ
sa
chân
vào
hầm
lá.
Rồi
quả
nhiên
sau
đó
thấy
người
kia
rơi
vào
hầm
lá
và
chịu
nhiều
đau
khổ.
Chúng
sanh
sinh
vào
cảnh
giới
súc
sanh,
ngạ
quỉ
cũng
chịu
nhiều
bất
hạnh
tương
tự.
Chỉ
có
chúng
sanh
sinh
vào
cõi
người
tương
đối
sống
hạnh
phúc
hơn,
và
chúng
sanh
sinh
vào
cõi
trời
được
hưởng
nhiều
an
lạc."
Trong
kinh
Màhàkammavibhanga
(Đại
nghiệp
phân
biệt),
Majjhima
Nikàya
(Trung
Bộ
Kinh),
Đức
Phật
dạy
rằng,
có
một
vài
vị
đạo
sĩ
nhờ
tinh
tấn,
chánh
niệm
đã
đắc
được
định
lực.
Với
nhãn
quan
siêu
phàm,
sáng
suốt
vị
ấy
thấy
một
người
bất
thiện
sau
khi
thân
hoại
mạng
chung
vẫn
tái
sinh
vào
cảnh
giới
an
lạc
hơn.
đạo
sĩ
ấy
nghĩ
rằng:
không
có
nghiệp
bất
thiện
cũng
không
có
quả
của
nghiệp
bất
thiện,
mọi
người
dù
họ
hành
động
bất
thiện
hay
không
khi
mạng
chung
vẫn
được
tái
sanh
vào
nhàn
cảnh.
Đức
Phật
không
đồng
ý
với
quan
niệm
đó.
Đành
rằng
có
thể
có
chúng
sanh
mặc
dù
hành
động
bất
thiện,
sau
khi
thân
hoại
mạng
chung
vẫn
được
sinh
vào
cảnh
giới
an
lạc.
Nhưng
sở
dĩ
như
vậy
là
vì
trong
những
kiếp
xa
xưa
họ
đã
tạo
nhiều
thiện
nghiệp.
Thêm
vào
đó
trong
giờ
lâm
chung
người
ấy
giữ
được
tâm
niệm
chân
chính.
Sự
sai
lầm
của
các
đạo
sĩ
là
do
họ
chỉ
thấy
được
một
vài
kiếp
sống
của
một
chúng
sanh
nào
đó
chứ
không
thông
suốt
được
toàn
diện
hiện
tượng
phức
tạp
của
dòng
nghiệp
báo.
Sự
vận
chuyển
của
dòng
nghiệp
báo
chỉ
là
một
trường
hợp
đặc
biệt
của
nguyên
lý
nhân
quả
trong
đó
gồm
những
định
luật
sinh
lý,
vật
lý,
tâm
lý
và
nghiệp
lý.
Định
luật
nghiệp
báo
còn
được
gọi
là
Luật
Nhân
Quả
của
hành
động
thiện
hay
bất
thiện.
Theo
Phật
Giáo,
Nghiệp
báo
không
có
nghĩa
là
định
mạng,
vì
vậy
định
luật
nghiệp
báo
không
cố
định
mà
thường
được
xem
như
là
những
khuynh
hướng.
Theo
kinh
Cùlakammavibhanga
thì
thường
một
nghiệp
nhân
thiện
có
khuynh
hướng
đem
lại
một
nghiệp
quả
lành,
một
nghiệp
nhân
bất
thiện
có
khuynh
hướng
đưa
đến
một
nghiệp
quả
dữ.
Nếu
phân
tích
chi
tiết
hơn
chúng
ta
thấy
nghiệp
được
phân
loại
theo
4
cách:
1.
Về
phương
diện
công
tác,
có
4
loại
:
-
Sanh
nghiệp:
là
nghiệp
lực
chi
phối
tái
sanh.
Thức
tái
sanh
và
sắc
uẩn
đầu
tiên
tùy
thuộc
vào
sanh
nghiệp
này.
-
Tử
nghiệp:
là
nghiệp
lực
duy
trì
sự
sinh
tồn
của
một
chúng
sanh
từ
khi
mới
sanh
cho
đến
khi
lâm
chung.
Con
người
được
hưởng
hạnh
phúc
trong
kiếp
sống
của
họ
hay
không
tùy
thuộc
ở
trì
nghiệp
này.
-
Chuyển
nghiệp:
là
nghiệp
lực
làm
trở
ngại
sanh
nghiệp
khiến
cho
đời
sống
đang
bình
thường
bỗng
gặp
khó
khăn.
-
Đoạn
nghiệp:
là
nghiệp
lực
cắt
đứt
sanh
nghiệp.
Như
một
người
bị
chết
bất
đắc
kỳ
tử.
Bất
đắc
kỳ
tử
không
phải
do
định
mệnh
hay
số
phận,
cũng
không
phải
oan
uổng
mà
chính
vì
đoạn
nghiệp
của
một
người
quá
mạnh
khiến
cho
kiếp
sống
bị
đứt
đoạn
nửa
chừng.
2.
Về
phương
diện
năng
lực
của
quả
báo,
nghiệp
có
4
loại
:
-
Cực
trọng
nghiệp:
là
nghiệp
lực
rất
mạnh,
nếu
là
nghiệp
ác
có
thể
sa
đọa
vào
địa
ngục
vô
gián
nên
còn
gọi
là
vô
gián
nghiệp.
Những
nghiệp
cực-trọng
đó
là
giết
cha,
giết
mẹ,
giết
A-la-hán,
chia
rẽ
Tăng
chúng
và
gây
thương
tích
cho
Đức
Phật.
-
Cận
tử
nghiệp:
là
nghiệp
tạo
lúc
lâm
chung.
Nghiệp
này
có
thể
do
hành
động,
lời
nói
hay
chỉ
nhớ
lại
những
nghiệp
đã
làm
lúc
sanh
tiền.
Một
người
có
thể
từng
làm
nhiều
việc
thiện
nhưng
khi
chết
nhớ
lại
một
điều
ác
nào
đó
rồi
sanh
vào
cảnh
khổ.
Trái
lại
một
người
suốt
đời
hầu
như
làm
ác
nhưng
lúc
lâm
chung
giữ
được
tâm
niệm
lành
thì
vẫn
được
sanh
vào
nhàn
cảnh.
Tuy
nhiên
những
hành
động
thiện
hay
ác
kia
vẫn
còn
tích
trữ
cho
đến
khi
hội
đủ
nhân
duyên
sẽ
phát
khởi.
-
Tập
quán
nghiệp:
là
nghiệp
thường
được
tạo
tác
trong
suốt
kiếp
sống
của
ta
và
nó
đã
trở
thành
tập
quán.
Như
một
người
đồ
tể
đã
biến
hành
động
giết
chóc
thành
thói
quen
không
bỏ
được.
Do
đó,
nếu
là
tập
quán
bất
thiện
thì
rất
nguy
hiểm
cho
sự
tu
tập.
Trái
lại
nếu
đó
là
tập
quán
thiện
thì
đem
lại
nhiều
kết
quả
khả
quan.
-
Tích
lũy
nghiệp:
là
những
nghiệp
lực
còn
duy
trì
chưa
phát
hiện
vì
chưa
đủ
nhân
duyên
hay
điều
kiện
thuận
tiện.
Thường
nghiệp
này
không
mạnh
lắm,
nên
làm
xong
có
thể
quên
ngay.
3.
Về
phương
diện
thời
gian,
phản
ứng,
nghiệp
được
chia
làm
bốn
loại:
-
Hiện
báo
nghiệp:
là
những
nghiệp
gây
hậu
quả
ngay
trong
kiếp
hiện
tại.
Như
một
người
ăn
trộm
bị
bắt
cầm
tù,
hay
những
tội
nhân
bị
bắt
quả
tang
và
bị
tử
hình
...
-
Sanh
báo
nghiệp:
là
những
nghiệp
đem
lại
hậu
quả
trong
kiếp
kế
tiếp.
Như
một
người
bố
thí,
trì
giới
và
tâm
hồn
thanh
tịnh
khi
lâm
chung
được
tái
sanh
nơi
nhà
cảnh.
Trái
lại
những
người
sát
sanh,
trộm
cướp...
sau
khi
lâm
chung
bị
sa
đọa
vào
4
ác
đạo
.
-
Hậu
báo
nghiệp:
nếu
nghiệp
chưa
được
trả
quả
trong
kiếp
hiện
tại
hay
trong
kiếp
kế
cận,
thì
sẽ
phát
khởi
trong
bất
cứ
một
kiếp
nào
về
sau
khi
hội
đủ
điều
kiện.
Thường
nghiệp
lực
này
không
mạnh
lắm.
Đây
chỉ
là
trường
hợp
một
người
làm
lành
khi
lâm
chung
có
tâm
niệm
bất
thiện,
phải
tái
sanh
trong
khổ
cảnh
và
sau
kiếp
sống
đó
mới
nhận
được
quả
lành
đã
làm
trong
quá
khứ.
Trái
lại
một
người
làm
ác,
với
tâm
niệm
lành
lúc
lâm
chung
có
thể
tái
sanh
trong
nhàn
cảnh
và
sau
kiếp
sống
đó
mới
chịu
đau
khổ
do
kết
quả
của
hành
động
bất
thiện
trước
kia.
Đó
là
lý
do
tại
sao
một
vài
đạo
sĩ
khi
thấy
một
chúng
sanh
làm
ác
sau
khi
thân
hoại
mạng
chung
vẫn
được
sanh
vào
nhàn
cảnh
và
kết
luận
rằng
không
có
kết
quả
của
hành
động
thiện
ác.
Thật
ra,
vì
họ
chỉ
thấy
được
một
vài
kiếp
sống
chứ
chưa
chứng
kiến
được
toàn
diện
hiện
tượng
nghiệp
báo.
-
Vô
hiệu
nghiệp:
là
những
nghiệp
đáng
lý
có
kết
quả
trong
hiện
kiếp
hay
kiếp
sau,
nhưng
không
đủ
yếu
tố
để
phát
khởi
nên
trở
thành
vô
hiệu
quả.
Nhất
là
trường
hợp
Đức
Phật
và
các
vị
A-la-hán,
những
nghiệp
lực
yếu
ớt
còn
sót
lại
không
chi
phối
được
các
Ngài.
4.
Về
phương
diện
cảnh
giới,
nghiệp
cũng
được
chia
làm
4
loại:
-
Bất
thiện
nghiệp:
là
những
nghiệp
trả
quả
trong
bốn
đường
ác
đạo
hay
làm
người
trong
tình
trạng
bất
hạnh.
đó
là
những
nghiệp:
sát
sanh,
trộm
cắp,
tà
hạnh,
nói
dối,
nói
hai
lưỡi,
ác
ngữ,
nói
lời
vô
ích,
tham,
sân
và
tà
kiến.
-
Dục
giới
thiện
nghiệp:
là
những
nghiệp
trả
quả
ở
6
cõi
trời
dục
giới,
ở
đó
chúng
sanh
được
hưởng
đời
sống
hạnh
phúc,
hoặc
trả
quả
làm
người
được
sống
an
lạc.
Những
nghiệp
này
là
phóng
sanh,
bố
thí,
phạm
hạnh,
chân
thật,
nói
lời
hòa
hợp,
ái
ngữ,
nói
lời
hữu
ích,
không
tham,
không
sân
và
chánh
kiến.
-
Sắc
giới
thiện
nghiệp:
là
kết
quả
của
thiền
định
hữu
sắc,
những
người
đắc
được
bốn
bực
thiền
hữu
sắc
sẽ
tái
sinh
trong
16
cõi
sắc
giới
thiên.
ở
đó
chúng
sanh
sống
rất
an
tịnh
không
tham
sân
và
si.
-
Vô
sắc
giới
thiện
nghiệp:
là
những
kết
quả
của
các
bậc
thiền
vô
sắc.
Có
4
cõi
vô
sắc
giới
thiên,
trong
đó
đời
sống
rất
vi
tế,
thanh
tịnh
và
tự
tại,
các
chúng
sanh
ở
đó
sống
rất
lâu
nhưng
đến
khi
quả
báo
không
còn
hiệu
lực,
họ
cũng
phải
trở
lại
dục
giới
chịu
những
quả
vui
khổ
họ
đã
tạo
trước
kia.
Như
vậy
Nghiệp
là
một
định
luật
Nhân
Quả
công
bằng
trong
đó
có
tự
do
và
trách
nhiệm,
khác
hẳn
với
định
mệnh
thuyết
cho
rằng
con
người
phải
chịu
số
phận
mà
trời
đã
định
sẵn,
họ
không
có
quyền
tự
do
quyết
định
tạo
lấy
cho
mình
một
đời
sống
tùy
theo
ý
muốn
của
mình.
Và
dĩ
nhiên
như
thế
con
người
không
chịu
trách
nhiệm
về
mọi
hành
động
của
mình,
vì
trách
nhiệm
đó
đã
có
trời
gánh
vác.
Nếu
nói
rằng
Đạo
Phật
không
nêu
cao
nhân
vị
thì
quả
thật
quá
sai
lầm
vì
trong
nghiệp
lý
con
người
được
hoàn
toàn
tự
do
và
nhận
lãnh
trách
nhiệm
về
sự
tự
do
của
mình.
Trái
lại,
chính
thuyết
thiên
mệnh
mới
chà
đạp
nhân
vị
của
con
người,
vì
theo
đó
con
người
luôn
luôn
bị
trời
thưởng
phạt,
chứ
không
có
quyền
tự
quyết;
và
nếu
có
tự
quyết
thì
cũng
tự
quyết
chiều
theo
ý
trời,
và
con
người
không
bao
giờ
có
ý
định
được
bình
đẳng
với
trời.
Đạo
Phật
không
những
tôn
trọng
nhân
vị
mà
còn
cố
gắng
nâng
nhân
vị
đó
lên
Phật
vị
một
cách
hoàn
toàn
bình
đẳng.
Chúng
ta
đã
định
nghĩa,
phân
loại
và
nói
đến
tính
cách
khả
chứng
bằng
lý
trí,
quan
sát,
kinh
nghiệm
trực
giác
của
Nghiệp
theo
quan
niệm
nhà
Phật.
Nay
chúng
ta
hãy
so
sánh
chữ
Nghiệp
được
dùng
trong
Phật
Giáo
và
trong
các
tôn
giáo
khác.
Trước
hết,
chúng
ta
hãy
so
sánh
với
chủ
trương
của
đạo
Jainism,
theo
đó
con
người
không
thể
phát
triển
đức
dục
và
trí
dục
nếu
chưa
trả
hết
tất
cả
những
hậu
quả
của
bất
thiện
tiền
nghiệp.
Vì
vậy
tôn
giáo
này
dạy
tín
đồ
phải
thực
hành
khổ
hạnh
để
sớm
được
thoát
khỏi
ảnh
hưởng
của
tội
lỗi
mà
họ
đã
làm
trong
những
kiếp
quá
khứ.
Mặt
khác,
đạo
Jainism
chủ
trương
khác
hẳn
với
Phật
Giáo
rằng
giá
trị
của
hành
động
đạo
đức
tùy
thuộc
ở
thân
hơn
là
ở
ý
chí.
Trong
kinh
Upali,
Majjhima
Nikàya
(Trung
Bộ
Kinh),
có
ghi
lại
trường
hợp
một
vị
đạo
sĩ,
thuộc
Jainism
mà
thời
đó
gọi
là
Nigantha,
đến
yết
kiến
Đức
Phật.
Sau
đây
là
một
mẫu
đối
thoại
trong
Trường
Bộ
Kinh
:
Khi
đạo
sĩ
Nigantha
chào
hỏi
Đức
Thế
Tôn
và
an
tọa,
Đức
Phật
hỏi
đạo
sĩ
rằng:
"Này
đạo
sĩ,
trong
đạo
Nigantha
vị
giáo
chủ
Nàtaputta
dạy
có
bao
nhiêu
loại
nghiệp?"
"Bạch
Đức
Gotama,
trong
đạo
của
chúng
tôi,
vị
giáo
chủ
Nàtaputta
không
hề
nói
đến
cái
nghiệp
nhưng
chỉ
dạy
về
cái
tội
mà
thôi."
"Vậy
có
bao
nhiêu
thứ
tội?"
"Bạch
Ngài,
tội
có
3
loại:
tội
do
thân,
do
khẩu
và
do
ý."
"Trong
ba
tội
ấy
tội
nào
nặng
hơn
hết?"
"Bạch
Ngài,
chính
tội
của
thân
nặng
hơn
cả."
Sau
khi
xác
nhận
ba
lần
như
thế,
đạo
sĩ
Nigantha
lại
hỏi
Đức
Phật:
"Bạch
Đức
Gotama,
còn
theo
Giáo
Pháp
của
Ngài
có
mấy
thứ
tội?"
"Này
đạo
sĩ,
trong
Giáo
Pháp
của
Như
Lai
không
hề
nói
đến
cái
tội,
nhưng
chỉ
dạy
về
cái
nghiệp
mà
thôi."
"Bạch
Ngài,
vậy
có
bao
nhiêu
thứ
nghiệp?"
"Nghiệp
cũng
có
3
loại
là:
thân
nghiệp,
khẩu
nghiệp
và
ý
nghiệp."
"Bạch
Ngài,
trong
ba
loại
nghiệp
ấy
loại
nào
quan
trọng
nhất?"
"Này
đạo
sĩ,
chính
ý
nghiệp
là
quan
trọng
nhất."
Qua
đoạn
kinh
trên,
chúng
ta
thấy
chủ
trương
về
nghiệp
giữa
Phật
Giáo
và
Jainism
không
hoàn
toàn
giống
nhau.
Một
đằng
xem
hành
động
cố
ý
mới
tạo
nghiệp
lực
một
đằng
cho
rằng
dù
vô
tình
hay
cố
ý
vẫn
có
giá
trị
thiện
ác
như
nhau.
Hai
quan
niệm
như
thế
không
thể
bị
đồng
nhất
hóa
được.
Một
chủ
trương
khác
của
giáo
phái
khổ
hạnh
Ajivika
cho
rằng
tất
cả
những
hành
động
cũng
như
những
kinh
nghiệm
hiện
tại
hoàn
toàn
bị
chi
phối
bởi
tiền
nghiệp.
Trong
khi
đó
Đạo
Phật
không
chấp
nhận
thuyết
tiền
định
và
xem
nghiệp
quá
khứ
chỉ
là
một
trong
những
yếu
tố
chi
phối
đời
sống
hay
kinh
nghiệm
vui
khổ
của
con
người
mà
thôi.
Theo
Đạo
Phật
con
người
không
phải
sống
tùy
thuộc
hoàn
toàn
vào
nghiệp
quá
khứ
mà
chịu
ảnh
hưởng
của
nhiều
yếu
tố
khác
nhau:
--
Yếu
tố
ngoại
giới:
như
điều
kiện
thời
tiết,
ảnh
hưởng
của
vị
trí,
phương
hướng,
cũng
như
những
tình
trạng
xã
hội
...
--
Yếu
tố
vật
lý:
tức
là
những
điều
kiện
vật
chất,
những
ảnh
hưởng
của
hiện
tượng
vật
lý.
--
Yếu
tố
sinh
lý:
tức
là
điều
kiện
cấu
tạo,
vận
chuyển
và
tiến
hóa
của
cỏ
thể,
kể
cả
luật
di
truyền.
--
Yếu
tố
tâm
lý:
tức
là
những
định
luật
về
hiện
tượng
nội
giới.
Điều
này
được
Đức
Phật
phân
tích
rõ
ràng
trong
Abhidhamma
(Thắng
Pháp).
--
Yếu
tố
nghiệp
lý:
tức
là
nguyên
lý
nhân
quả
của
hành
động
cố
ý
như
chúng
ta
đã
định
nghĩa
và
phân
loại
ở
trên.
Như
vậy
đời
sống
của
con
người
phối
hợp
bởi
nhiều
yếu
tố
và
ảnh
hưởng
bởi
nhiều
môi
trường
chứ
không
hoàn
toàn
do
nghiệp
quá
khứ
của
mình
(sayam
katam),
không
do
quyết
định
độc
đoán
của
một
ngoại
nhân
nào
(param
katam),
cũng
không
ngẫu
nhiên
mà
có
(adhicca
sammuppanna).
Con
người
cũng
như
vạn
hữu
đều
hình
thành
bởi
nhiều
nhân
duyên
(paticca
samupana).
Nếu
có
người
hiểu
rõ
tất
cả
những
điều
kiện
đó
họ
có
thể
chế
ngự
thiên
nhiên
và
chính
mình
để
đạt
đến
chỗ
tự
tại
vô
ngại.
Đạo
Phật
nhằm
mục
đích
tiêu
diệt
mọi
điều
kiện
ràng
buộc
con
người
để
đưa
đến
vô
điều
kiện
(unconditioned,
vô
vi)
tức
là
Niết
Bàn,
là
giải
thoát.
Cuối
cùng
chúng
ta
so
sánh
với
thuyết
định
mệnh
(fatalism)
và
thuyết
di
truyền
(heredity).
Như
chúng
ta
đã
đề
cập
trước
đây,
sự
liên
quan
của
nghiệp
báo
khác
hẳn
với
thuyết
định
mệnh
vì
nghiệp
không
phải
là
yếu
tố
duy
nhất,
độc
đoán
chi
phối
đời
sống
con
người
và
chúng
ta
có
thể
tiêu
diệt
hay
biến
đổi
nghiệp
cùng
với
những
điều
kiện
khác
để
vươn
lên.
Theo
kinh
điển
Bà
La
Môn,
mọi
hành
động
của
con
người
đều
bị
chi
phối
bởi
thiên
nhiên
(prakiti)
và
thiên
nhiên
lại
được
vị
trời
Phạm
Thiên
(Thượng
đế)
an
bài
định
đoạt.
Bởi
thế
con
người
đành
phải
bó
tay
trước
số
phận
mà
tạo
hóa
đã
định
sẵn,
hoặc
phải
cúng
tế
để
cầu
xin
được
gia
ân,
ban
phúc.
Chắc
hẳn
là
có
người
không
chịu
nổi
số
phận
quá
đen
tối
của
mình
mà
tự
hỏi
không
biết
ai
đã
trao
cho
tạo
hóa
cái
thứ
quyền
năng
độc
đoán,
bất
công
như
thế.
Vì
sao
tạo
hóa
lại
định
số
phận
mỗi
người
một
khác.
Nếu
đấng
tạo
hóa
toàn
năng
thì
không
toàn
thiện,
vì
Ngài
đã
tạo
một
sự
chênh
lệch
lớn
lao
giữa
con
người
với
con
người.
Nhưng
nếu
Ngài
toàn
thiện
thì
không
toàn
năng
vì
Ngài
không
đủ
sức
san
bằng
sự
chênh
lệch
đó
để
đưa
con
người
đến
chỗ
tương
đối
hạnh
phúc
hơn.
Dĩ
nhiên
con
người
có
quyền
đưa
ra
những
vấn
nạn
hữu
lý
đó.
Vì
không
lý
gì,
trong
cái
thời
mà
con
người
đã
ý
thức
được
chủ
quyền
và
nhân
bản
lại
bị
cưỡng
bách
phải
chịu
qui
phục
trước
một
tha
lực
chuyên
chế
hoàn
toàn
không
do
họ
ủy
quyền.
Theo
Đạo
Phật,
thì
con
người
là
thượng
đế
của
chính
mình
chứ
không
ai
khác
(attàhi
attanonàtho,
ko
hi
nàtho
parosiyà).
Vì
tất
cả
các
điều
kiện,
kể
cả
nghiệp
đều
có
thể
tự
mình
sửa
đổi
được.
Bởi
thế,
hạnh
phúc
hay
đau
khổ
đều
do
mỗi
cá
nhân
tạo
lấy
cho
mình.
Được
tự
do
hay
nô
lệ
tùy
thuộc
ở
chỗ
con
người
làm
chủ
các
điều
kiện
hay
bị
các
điều
kiện
làm
chủ.
Về
phương
diện
thuyết
di
truyền,
mặc
dù
Đạo
Phật
nhìn
nhận
rằng
luật
di
truyền
có
ảnh
hưởng
đến
đời
sống
con
người,
nhưng
di
truyền
không
phải
là
một
yếu
tố
quyết
định
duy
nhất
như
một
vài
nhà
tư
tưởng
hay
khoa
học
gia
chủ
trương.
Di
truyền
và
nghiệp
là
hai
yếu
tố
khác
nhau
trong
những
điều
kiện
tạo
thành
đời
sống
con
người:
Di
truyền
thuộc
về
điều
kiện
sinh
lý
(bìyaniyàma)
trong
khi
nghiệp
đặt
căn
bản
trên
ý
chí
(Cetanà).
Một
người
có
thể
có
một
đặc
tính
thể
chất
nào
đó
từ
cha
mẹ
di
truyền
lại
nhưng
chính
nghiệp
lực
do
anh
ta
tạo
ra
có
ái
lực
đối
với
đặc
tính
đó,
sự
tương
ứng
này
gọi
là
nhân
duyên
tương
khởi.
Trong
trường
hợp
tính
tình
thì
nguồn
gốc
dường
như
không
phải
là
di
truyền
mà
là
nghiệp
lực
hay
những
điều
kiện
xã
hội.
Hai
đứa
con
song
sinh
ít
khi
có
tính
tình
giống
nhau,
và
nếu
chúng
được
đặt
trong
những
điều
kiện
xã
hội
khác
nhau
thì
tính
tình
lại
càng
biến
đổi.
Xem
thế
yếu
tố
di
truyền
không
phải
là
yếu
tố
quyết
định.
Khi
phân
tích
các
tác
phẩm
McTaggart,
Giáo
sư
Triết
học
đại
học
đường
Cambridge,
người
đã
nhiệt
liệt
bênh
vực
thuyết
nghiệp
báo
trong
cuốn
"Vài
Giáo
Điều
Tôn
Giáo"
(Some
Dogmas
of
Religion),
và
cuốn
"Bản
Chất
Của
Hiện
Hữu",
Giáo
sư
C.
D
Broad
đã
viết:
"McTaggart
đã
chỉ
cho
chúng
ta
thấy
rằng
giả
thuyết
về
ái
lực
tương
tuyển
giữa
những
loại
tâm
hồn
này
và
thể
xác
kia
có
thể
giải
thích
được
sự
tương
đồng
về
đặc
tính
tinh
thần,
giữa
cha
mẹ
và
con
cái
mà
người
ta
thường
cho
là
trực
tiếp
ảnh
hưởng
của
sự
di
truyền.
Vì
di
truyền
nên
con
cái
giống
với
cha
mẹ
hơn
là
người
khác.
Thêm
vào
đó,
những
cơ
thể
giống
nhau
sẽ
tương
ứng
với
những
tâm
lý
giống
nhau,
và
vì
thế
những
tiếp
hợp
tử
phát
triển
thành
những
cơ
thể
tương
tự
có
khuynh
hướng
hấp
dẫn
những
tâm
lý
tương
tự
để
tạo
thành
thai
bào.
Tôi
nghĩ
phải
nhìn
nhận
rằng
lý
thuyết
này
rất
thích
đáng
và
tinh
tế"
(Examination
of
McTaggart's
Phylosophy,
Vol.
2,
Part
2,
Page
614-615).
Tóm
lại,
nghiệp
báo
đóng
một
vai
trí
rất
quan
trọng
trong
Giáo
Lý
nhà
Phật.
Tuy
nhiên
chúng
ta
nên
nhớ
rằng
Đức
Phật
thuyết
minh
nghiệp
lý
không
phải
với
mục
đích
khuyến
khích
làm
điều
kiện
để
hưởng
thụ
hạnh
phúc
trong
cõi
cực
lạc,
thiên
đường,
nhưng
để
giúp
con
người
thoát
ra
khỏi
dòng
nghiệp
báo
triền
miên
(Kammakkhayya).
Do
đó
ngay
từ
những
điều
kiện
đầu
tiên
để
đạt
được
quả
vị
thứ
nhất
-
quả
Dự
Lưu
-
trong
hàng
Thánh
nhân
là
phải
:
--
Diệt
thân
kiến
(sakyà
ditthi),
tức
là
không
chấp
ngã.
--
Diệt
hoài
nghi
(vicikiccà),
tức
là
nắm
được
chân
lý,
không
còn
tin
phù
phiếm
ở
định
mệnh.
--
Diệt
giới
cấm
thủ
(sìlabbataparàmàsa),
tức
là
không
còn
chấp
vào
các
nghi
lễ,
định
lệ
nữa.
Một
người
như
thế
sẽ
không
còn
thối
hóa
(avinipàta)
và
chắc
chắn
sẽ
đạt
được
cứu
cánh
giác
ngộ
(Niyatosambo
dhiparàyàno).
Đó
là
con
đường
dẫn
tới
sự
đoạn
diệt
ảnh
hưởng
của
nghiệp
lực
và
phát
triển
tinh
thần
vô
ngã,
từ
bi
và
trí
tuệ.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục