Tathagata Meditation Center, San Jose, California, USA
Tiểu sử Hoà thượng U Pannadipa
1.- Sắc uẩn (Rùpakkhandha) |
Dhammacariya Aggamahàsadhamma Jotikadhaja
Người bắt
N
Trưởng lão Hoà thượng U
Panditabhivamsa công nhận Người là vị Thiền sư Cao cấp Nàyaka Kammatthàna
Cariya và mời Người giảng dạy tại Trung tâm Mahàsi ở Yangon; Người
Hoà thượng U Pannadipa
Hoà thượng Beelin kế
Đến tháng Chạp năm 1999, Người
được thỉnh sang giảng dạy tại Như Lai Thiền Viện (Tathagata
Meditation Center) ở San Jose, California. Nơi
Người vừa
------*------
Đề tài bài Pháp thoại
nầy c
-ooOoo-
1.- Sắc uẩn (Rùpakkhandha): Tập họp các hiện tượng vật chất. ^
Một hôm có vị tỳ kheo tên
Àyasmà Ràdha
-- Bạch Thế tôn, có danh từ
"chúng sanh" (satta) nơi thế gian nầy. Dùng
Đức Phật đáp:
-- Nầy thiện nam tử Ràdha,
"chúng sanh" là một sanh vật, là kẻ có ước muốn, có quyến luyến, hay
có ái mộ
Ở
Nghiã thứ hai của chúng sanh
là hình thức bằng lời có nghiã là "tríu mến vào" . Cho dầu kẻ nào
có thích thú mà tríu mến vào vật chất, hoặc là tríu mến thường thường thôi
Nếu ta quan sát cẩn thận và
Nhóm n
Bốn nhóm n
Ba nguyên tố còn lại cũng có
mặt trong hai mươi phần thân thể nói trên, nhưng chúng chẳng
Ngay cả một sợi tóc, khi ta
quan sát kỹ, cũng có
Một vị thiền giả nào có khả n
Thiền giả chẳng nên trụ lại nơi
ý niệm của bốn nguyên tố. Vị ấy phải nên chỉ nhận thức về các
Tại sao vậy? Bởi vì, thay vì
quan sát các hiện tượng thiên nhiên, vị thiền giả
Ngoài hai mươi bộ phận thân thể
vừa kể trên
Có bốn hình thái của nguyên tố
lửa, tejo dhàtu, trong cơ thể. Sức nóng của thân thể (thân nhiệt),
ở trạng thái bình thường,
Có sáu loại hình thái gió,
vàyo dhàtu, trong cơ thể.
Cho tới
Khi các nguyên tố
Thật ra, tấm thân vật chất có
thể
Nhưng
Tuy nhiên, mắt thường trông vào
tấm thân vật chất thì thấy ra thường hằng, khả ái, dễ cai quản và có một
tự thể. Do
2.-Thọ uẩn (Vedanàkkhandha): Tập hợp các cảm thọ. ^
-- "Nầy thiện nam tử Ràdha, kẻ
nào tríu mến vào, hoặc có cảm tình mạnh mẽ với các uẩn,
Đức Phật dạy có ba loại cảm thọ nơi tấm thân vật chất:
(1) Thể nghiệm một sự vật đáng ưa là một lạc thọ
(sukkha vedanà).
(2) Thể nghiệm một sự vật
(3) Thể nghiệm một sự vật chẳng
Bởi vì các xả thọ có tánh cách trung hoà, chẳng hiện rõ rệt nơi các giác quan, nên phần nhiều con người quen thuộc hơn với các lạc thọ và khổ thọ.
Vào mùa hè nóng nực, một người
cảm thấy khoẻ khoắn khi một ngọn gió mát thổi tới. Vào mùa
Cả ba loại cảm thọ
Lạc thọ, sukkha vedanà,
khởi lên khi một hình ảnh khả ái
Xả thọ, upekkhà vedanà,
khởi lên khi một hình ảnh
Thật ra, các lạc thọ, khổ
thọ, và xả thọ chỉ giản dị là các cảm giác. Khi một người chẳng
quán sát một sự vật kỹ lưỡng, hoặc chẳng
Nhưng
Bởi vì sự tích sau
Sau khi nhận thức
Ngẫu nhiên, một hôm Upatissa
gặp
Đại
Upatissa muốn
Và
Mặc dầu lời dạy
Ước muốn
Upatissa liền thuật lại cuôc
gặp gỡ với Tỳ kheo Át bệ và
Kế
Có 250 người
Rồi
C
Khi Dighanakha tới nơi,
Chữ "
Nhưng lời
Mặt khác, quan
Vừa nghe lời nói của
Các Phật tử thông thường khi
chưa có
Các Luận sư về Chú giải giải
thích rằng, bởi vì các người chủ trương bất diệt tin tưởng nơi sự hiện hữu
ở hiện tại và tương lai, và thấu hiểu về nghiệp báo của các hành vi thiện
và bất thiện, cho nên họ có thực hành các hành vi thiện cũng chỉ vì họ sợ
phải làm các hành vi bất thiện. Nhưng họ thích thú
Mặt khác, các người chủ trương
thuyết hư vô chẳng biết rằng cuộc hiện hữu trong hiện tại là do quá khứ mà
thành, còn cuộc hiện hữu ở tương lai là do cuộc hiện hữu hiện tại gây nên.
Do
Tuy nhiên, nếu các người chủ
trương thuyết hư vô lại gặp
Chẳng hiểu rõ
Nếu ai mà bám chặt vào một
trong ba quan kiến
"Thân thể của ông do bốn
Đức Phật cũng dạy Dighanakha
cách nhận thức về bản thể thực sự của tấm thân -- bản thể vô
thường, gây
Sau khi dạy cho Dighanakha cách
quán chiếu tấm thân vật chất xong,
Cả ba loại cảm thọ chẳng thể
nào cùng hiện hữu cùng một lúc
Tùy thuộc vào các
Tại sao lại cái bụng? Cũng như
hơi thở
Khi thiền giả
Một lạc thọ phải
Như vậy, thiền giả sẽ thấy rõ
các cảm giác thích thú và khó chịu vừa mới khởi lên và rồi lại biến mất
Đức Phật liền cắt nghiã
cho Dighanakha biết làm cách nào mà cái tri kiến minh sát về tuệ giác
quán chiếu chán ghét (nibbidànupassanà nàna) khởi lên trong tâm
thức của thiền giả. Tuệ ấy khởi lên khi,
Trong bản Kinh Trường Trảo (Dighanakha)
nầy, các loại hiện tượng vật chất còn chưa
Lại còn một
Đức Phật cũng giải thích
các tri kiến về
Do sự sanh khởi của tri kiến về
A la hán
Kế
Trong bản Kinh Bông Hoa (Puppha
Sutta), nơi Phẩm Tương ưng Uẩn (Pali: Khandhavagga) (
Chẳng phải chỉ có
Trong khi
Một thuyết khác về sự giác ngộ
của
Sau khi thuyết giảng xong bài
pháp,
Cuộc hội họp các tỳ kheo nầy
Nếu ta biết quán chiếu
Thường nhơn nghĩ rằng lạc thọ,
khổ thọ và xả thọ kéo dài mãi vô tận. Tuy nhiên, nếu ta luôn luôn tỉnh
giác về các hiện tượng vật chất và tâm linh khởi lên tại ngưỡng cửa của
sáu c
Tuệ giác vừa nói trên là sự thể
nghiệm tri kiến thấy
Một người chẳng thực tập Thiền
Minh sát, hoặc một thiền giả chưa chứng
3.- Tưởng uẩn (Sannàkkhandha): Tập hợp các tri giác . ^
Kẻ nào còn tríu mến các tri
giác hoặc còn vướng mắc vào tưởng uẩn, tức là tập hợp các tri giác, thì
(1) tri giác về sự vật được thấy;
(2) tri giác về âm thanh,
(3) tri giác về mùi,
(4) tri giác về vị,
(5) tri giác về xúc chạm,
(6) tri giác về pháp (= sự vật).
Tưởng uẩn, sự tập hợp của các
tri giác,
Đức Phật đã ví tưởng uẩn
như một ảo ảnh, một hiện tượng huyển ảo
Cùng một thế ấy, những kẻ cảm
nhận sai lầm về cái thấy, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm và pháp (= sự
vật) thì cho
Để vứt bỏ cái quan kiến
sai lầm
Thế rồi, những gì trước
4.- Hành uẩn (Sankhàrakkhandha): Tập hợp các tâm hành. ^
-- Nầy thiện nam tử Ràdha,
Có hai loại tâm hành (sankhàra):
(1) hành vi chịu ảnh hưởng của các điều kiện,
(2) hành vi tạo điều kiện gây ra ảnh hưởng.
Loại tâm hành thứ nhứt, chịu
(1) hành vi cố ý, tạo nghiệp (kamma),
(2) ý thức,
(3) thời tiết, và
(4) thức
Bắt
Các tâm hành bị
Nhiệt
Do
Theo
Khi cường
Chúng ta sắp cứu xét loại hành
uẩn thứ nhì, tức là loại gây ra các
Trong ngũ uẩn, mỗi uẩn có chức
n
Thọ uẩn chỉ có
Được hành uẩn thúc
Thực ra, hành uẩn chẳng hề có
một cốt tủy nội tại nào cả, chẳng hề có một linh hồn nào cả. Sự biểu hiện
của hành uẩn chỉ là các hiện tượng thiên nhiên xảy ra do theo một tiến
trình thuộc tương quan nhân quả mà thôi. Hành uẩn chẳng có linh hồn và vì
thế mà các chúng sanh mới bị
Kẻ nào giao du với bạn dữ, hay
theo học với một vị thầy xấu, hoặc suy tư chẳng
Bị ảnh hưởng bởi sự tham lam và
giận hờn, các hành
Nhìn kỹ với tuệ giác minh sát,
ta có thể quan sát thấy chẳng có một thực thể tự ngã nào, một cốt lõi nội
tại nào, một bản thể nào
Hành uẩn gồm có n
(1) tâm sở xúc (phasa)
khởi lên khi các phần nhạy cảm của sáu c
(2) tâm sở chú tâm (manasikarà)
khởi lên khi có sự chú ý
(3) tâm sở
(4) tâm sở tầm (vitaka)
là sự tiếp xúc sơ khởi của tâm lên
(5) tâm sở tứ (vicàra)
là sự tiếp xúc kéo dài liên tục dán chặt tâm lên trên
(6) tâm sở nỗ lực (viriya), gắng sức
(7) tâm sở tham (lobha)
(8) tâm sở sân hận (dosa), giận hờn, (9) tâm sở vô minh (moha), mê muội,
(10) tâm sở kiêu mạn (màna), phách lối,
(11) tâm sở tà kiến (ditthi),
ý kiến sai lầm, (12) tâm sở nghi ngờ (vicikicchà)
(13) tâm sở vô tham (alobha), chẳng tham lam,
(14) tâm sở vô sân (adosa), chẳng giận hờn,
(15) tâm sở vô si (amoha), chẳng mê muội,
(16) tâm sở tín (saddhà), tin tưởng,
(17) tâm sở tỉnh giác (sati),
(18) tâm sở từ (metta),
(19) tâm sở bi (karunà),
(20) tâm sở hỉ (mudità).
Thân hành, khẩu hành và ý hành
do tâm sở tác ý (cetanà) thúc
Tà kiến cho rằng "mọi hành
5.- Thức uẩn (Vinnanakkhandha): tập hợp các sự hiểu biết. ^
Đức Phật có nói: "Nầy
thiện nam tử Ràdha, sự luyến mộ vào ý thức hoặc vào thức uẩn xảy ra nơi
các sanh vật. Khi sự luyến mộ vào ý thức xảy ra, thì sanh vật
Thức uẩn gồm có:
(1) nhãn thức,
(2) nhĩ trhức,
(3) tị thức,
(4) thiệt thức,
(5) thân thức, và
(6) ý thức.
Sáu loại thức
Trong số n
Chẳng phải chỉ
Đức Phật ví ý thức như
một huyễn thuật, một ảo tưởng suông, một mánh khoé của nhà ảo thuật.
Thường nhơn lầm xem nhãn thức như là một người
Có n
(1) nhãn thức vào lúc mắt thấy,
(2) nhĩ thức vào lúc tai nghe,
(3) tị thức vào lúc mũi ngửi,
(4) thiệt thức vào lúc
(5) thân thức vào lúc sờ mó.
Vào lúc mà ta thể nghiệm
Tuy nhiên, nếu ta khảo sát tiến
trình tư duy, ta cũng sẽ thấy
Nêu lên thí dụ về tiến trình tư
duy, một vị Sa di trẻ tuổi
Khi một vật có thể cảm giác
Khi việc thông báo ở cửa mắt
chấm dứt thì nhãn thức ở mắt hiện lên, và ngay trong lúc ấy, nhãn thức ở
mắt ấy chỉ hay biết suông về sự hiện diện của vật hữu hình ấy mà thôi. Khi
nhãn thức ở mắt biến
Tiếp theo sau ý thức quyết
Tuy nhiên, khi một vật hữu hình
chẳng
Khi
Trong sự mô tả vừa qua về tiến
trình tư duy trong việc nhìn thấy một vật hữu hình, ý thức chỉ hay biết
Tiến lên từ cấp bực thực tại
tuyệt
Nơi tiến trình tu duy cửa ý lần
thứ nhứt gồm có mười thời như sau: một thời ý thức nơi cửa ý báo nhận
Trong giai
Nơi cửa mắt và nơi cửa ý lần
thứ nhứt, tiến trình tư duy chỉ có nắm bắt
Nếu chỉ hay biết về vật hữu
hình, về âm thanh, về mùi, về vị, về cảm giác trên thân, hoặc ngưng ngay
tại cửa ý lần thứ nhứt của tiến trình tư duy, thì
Như thế, nếu ta ghi nhận
"thấy, thấy" vào
Đường lối quán chiếu nầy
phù hợp với giáo pháp ditthi ditamata, từ ngữ Pali có nghiã là
"chỉ hay biết về..." mà thôi. Hơn nữa, thiền giả còn có
Khi sự khởi sanh và biến diệt
tạm thời của mọi hiện tượng trở nên hiển nhiên, bản thể của chúng về vô
thường, gây
Đôi mắt của người chưa thực
tập thiền Minh sát (vipassanà) thường bị dối gạt khi nhận thức sai
lầm rằng
Bởi vì tất cả hiện tượng, dầu
là tâm linh hoặc là vật chất, hiện khởi lên riêng biệt và cũng biến mất
Thế cho nên, tất cả n
Đức Phật đã chỉ dạy cách
làm thế nào
"Cho
Cũng như bọn trẻ nhỏ
Đức Phật tiếp tục chỉ
dạy Ràdha với các lời lẽ như sau: " Nầy thiện nam tử Ràdha, ông nên phá
hủy sắc uẩn và thực tập việc gạt bỏ sự khát ái. Cũng như các trẻ con kia
phá huỷ các nhà chòi bằng cát khi chúng
Hãy thực tập mãi cho
Đức Phật giải thích cho
Ràdha hiểu rằng sự
Vòng tròn lậu hoặc gồm có vô
minh, khát ái và chấp thủ. Vòng tròn hành nghiệp gồm có các hành
Còn chưa biết
Khi kẻ nào khao khát bám níu
vào các uẩn và suy
Tùy thuộc vào vòng tròn các hậu
quả, vô minh, khát ái và chấp thủ khởi lên. Các cấu nhiễm nầy cũng là
thành phần của vòng tròn lậu hoặc. Chịu ảnh hưởng của vòng tròn lậu hoặc,
vòng tròn các hậu quả khởi lên. Như thế, cả ba vòng tròn tác
Nếu giữ vững mãi sự tỉnh thức
cho liên tục, thì ý thức về
Do vì các lậu hoặc
Hiện tượng siêu nhiên
Bởi thế cho nên
Nếu thiền giả khởi
Khi
Nếu tâm ghi nhận bị các tư
tưởng hoặc mơ mộng, làm
Trong cuộc thực tập việc tỉnh
thức liên tục, tâm ghi nhận sẽ trùng hợp với
Khi tâm
Tương quan nhân quả giữa các
hiện tượng vật chất và tâm linh sẽ
Thiền giả sẽ hiểu rõ rằng,
chẳng những ý thức khởi lên ở cửa mắt, mà cả vào lúc
Học thuyết Lý Duyên khởi,
Paticcasamuppada, giải thích mối liên hệ hỗ tương giữa các hậu quả và
các yếu tố gây
Trong khi thực tập tỉnh thức
liên tục, thiền giả sẽ quán sát sự sanh khởi và sự biến diệt của các
Luôn luôn tỉnh giác, thiền giả
sẽ quán sát sự sanh khởi và sự biến diệt của các hiện tượng xảy ra vô cùng
nhanh chóng. Mặc dầu các hiện tượng hiện khởi và tiêu diệt hết sức nhanh,
nhưng
Đến mức
Vẫn còn nhiều giai tầng cao hơn
cần
Vào
Khi, xuyên qua
Khát ái là c
Mặc dầu vậy, kẻ nào biết rõ bản
chất nguy hiểm của việc tái sanh và ước muốn chẳng phải sanh trở lại, thì
sự ước muốn
Và mặc dầu sợ hãi phải sanh lại
nơi cảnh
Vì còn thiếu tuệ giác thâm viễn
về A la hán
Vị ấy chẳng
Sau khi
Lang thang
qua bao kiếp Luân hồi,
Ta cố tìm nhưng rồi chưa gặp
Kẻ xây dựng lên ngôi nhà nầy;
Cứ mãi tái sanh, khổ sở thay!
Ô kià! Anh thợ làm nhà!
Nay ta bắt gặp, khó mà xây thêm.
Cây
Rui mè, kèo cột bỏ ngổn ngang.
Ta nay chứng
Ái tham, dục vọng, hoàn toàn tiêu vong.
Mấy câu thơ trên
Một sự giải thích chi tiết hơn,
tuy thiếu phần thi vị, là
"Xuyên qua A la hán
"Tâm trí ta an trú vào cõi diệt
tận
Vì lòng từ bi vô hạn
Nay với ý thức về sự khổ
Giáo pháp của Ngài rất sáng tỏ:
nhổ bật rễ khát ái lên thì sẽ giết chết
Và con
Nguyện cầu tất cả
Nguyện cầu tất cả, qua sự thông
suốt về Bát Chánh
Nguyện cầu tất cả
Montreal, 13 tháng 01, 2004,
Thiện Nhựt phỏng dịch.
---o0o---
Nguồn: www.quangduc.com