|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 6
ĐẠO
PHẬT ĐỐI CHIẾU VỚI CÁC PHƯƠNG TIỆN KHÁC
-ooOoo-
ĐẠO PHẬT CÓ GIỐNG
NHỮNG GIÁO LÝ ĐƯƠNG THỜI KHÁC TẠI ẤN KHÔNG?
Giáo Pháp chứng ngộ bởi Đức
Phật chưa bao giờ được nghe thấy trước đây.
Trong bài thuyết pháp
đầu tiên trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka), Đức Phật
dạy rằng từ trước đến nay chưa ai từng được nghe Pháp
mà Ngài giảng dạy. Kiến thức về Pháp được khơi dậy
rất sáng tỏ về quan điểm, về sự hiểu biết, trí tuệ,
sự thâm nhập, và giác ngộ của Ngài.
Nhiều người cho
rằng Đức Phật không thuyết giảng một học thuyết mới mà
Ngài chỉ canh tân giáo lý cổ truyền đang hiện hữu tại
Ấn. Tuy nhiên, Đức Phật không chỉ là nhà cải cách Ấn Độ
Giáo như một số lãnh đạo của tín ngưỡng cổ xưa này
khẳng định. Cách sống và giáo lý của Ngài khác biệt hẳn
cách sống và những đức tin tôn giáo của người dân Ấn Độ
đã có. Ngài sống, giảng dạy, và chết không phải như một
Vị Thầy Vệ Đà hay Bà La Môn Giáo. Đức Phật không xác
nhận đã mang ơn nơi nào về đức tin cũng như cách tu tập.
Đức Phật coi tự mình khai sáng một phương pháp đạo giáo
hữu lý, mở ra một con đường mới. Tóm lại Ngài đã cách
mạng lối sống đạo lý một cách cao thượng.
Đó là lý do chính
tại sao nhiều nhóm tôn giáo khác không đồng ý với Ngài. Ngài
bị buộc tội, công kích, và thóa mạ bởi những vị thầy tên
tuổi và của giáo phái Vệ Đà - truyền thống Bà La Môn. Do
ý đồ muốn phá Đức Phật hay muốn sát nhập Đức Phật và
Giáo Lý của Ngài vào tôn giáo của họ nên người Bà La Môn
trước thời đại trước Tây Nguyên đã đi quá xa chấp
nhận Đức Phật như Đấng Vô Thượng hay một hóa thân của
Thượng Đế của họ. Những nhóm khác lại khinh miệt Ngài
như một vasalaka, mundaka, samanaka, nastika, và sudra.
(Những danh từ này được sử dụng trong thời Phật tại
thế để lăng mạ nhà tu hành).
Đương nhiên là Đức
Phật đã cải cách một số các tập tục, nghĩa vụ trong đạo
giáo, nghi lễ, đạo lý, và lối sống. Phẩm cách cao cả
của Ngài tựa như đầu đinh nhọn chọc vào những trái bóng
bóng của các tín ngưỡng tu tập sai lầm làm chúng nổ tung và
phô bày sự rỗng tuếch.
Những liên hệ rộng
lớn về giáo lý căn bản, triết lý và tâm lý, cho rằng Đức
Phật đã cóp nhặt những ý kiến của những tôn giáo hiện
hữu thời bấy giờ là hoàn toàn vô căn cứ. Chẳng hạn trước
thời Đức Phật chưa hề có ý niệm về Tứ Diệu Đế, Bát
Chánh Đạo và Niết Bàn. Mặc dù sự tin tưởng về Nghiệp và
tái sanh rất phổ biến lúc bấy giờ, Đức Phật đã đưa ra
những giải thích hợp lý và rốt ráo về sự đức tin này và
trình bày nó như một định luật nhân quả tự nhiên. Mặc dù
vậy, Ngài không hề châm biếm đức tin hay cách hành trì chân
thành của bất cứ đạo giáo nào cả. Ngài tán thán giá
trị của Chân Lý mà Ngài thấy được ở nhiều tôn giáo khác
và Ngài lại còn cho thêm cách thuyết minh tốt đẹp hơn về
đức tin của họ. Cho nên Ngài đã từng nói Chân Lý phải
được tôn trọng dù bất cứ ở đâu. Tuy nhiên Ngài chẳng
bao giờ sợ sệt mà không dám nói thẳng về những hành vi đạo
đức giả hiệu và dối trá.
ĐẠO
PHẬT LÀ MỘT
LÝ THUYẾT HAY MỘT TRIẾT LÝ?
Sự giác ngộ của Đức Phật không phải là
một sản phẩm của trí năng đơn thuần.
Trong thời Đức Phật
tại Ấn, có rất nhiều học giả theo đuổi kiến thức chỉ
để nhằm lợi ích cho bản thân. Những người này đầy ắp
hiểu biết về lý thuyết. Thật vậy, một số đi từ tỉnh,
thành thị này đến phố thị khác để tranh luận so tài và
nỗi vui mừng rộn ràng của họ là đánh bại được địch
thủ trong các trận khẩu chiến này. Đức Phật nói những người
như vậy chưa gần được sự chứng ngộ chân lý vì mặc dù
tài giỏi và kiến thức cao, nhưng họ vẫn chưa có trí tuệ
thực sự để vượt khỏi tham, sân, si. Quả vậy, những người
như thế thường tự đắc và khoa trương. Quan niệm ích kỷ
của họ làm xáo động bầu không khí đạo giáo.
Theo Đức Phật, trước
nhất ta phải tìm hiểu chính tâm ta. Phải làm công việc này
bằng cách tập trung tâm định để đạt được trí tuệ thâm
sâu hay sự thấu suốt. Tuệ giác này đạt được không
phải bằng lý luận triết lý hay kiến thức thế gian nhưng
bởi sự âm thầm quán chiếu cái "ta" ảo tưởng.
Phật giáo là lối
sống đứng đắn đem bình an và hạnh phúc cho mỗi chúng
sanh. Phật Giáo là một phương pháp loại bỏ lầm than tìm
cầu giải thoát. Giáo lý của Đức Phật không giới hạn cho
một quốc gia hay một chủng tộc nào. Giáo lý đó cũng
chẳng phải là tín điều hay đức tin suông. Đó là giáo lý
cho cả vũ trụ. Đó là giáo lý muôn thuở. Mục tiêu của giáo
lý ấy là phục vụ bất vụ lợi, thiện chí, hòa bình,
giải thoát và loại bỏ khổ đau.
Giải thoát trong Phật
Giáo là một vấn đề cá nhân. Bạn phải tự cứu bạn cũng
như bạn phải ăn, uống, ngủ nghỉ. Lời khuyên dạy của Đức
Phật nhắm vào đường lối giải thoát, nhưng Ngài không bao
giờ muốn những lời khuyên dạy ấy được tiếp nhận như
một lý thuyết hay một triết lý. Khi người ta hỏi Ngài là
Ngài chủ trương lý thuyết gì, Ngài trả lời Ngài không
thuyết giảng lý thuyết nào, và những gì Ngài thuyết giảng
đều là kết quả của chính kinh nghiệm bản thân Ngài. Cho nên
giáo lý của Ngài không cống hiến một lý thuyết nào. Lý
thuyết không thể mang con người đến mức toàn hảo về tâm
linh. Lý thuyết chính là cùm xích trói buộc tâm thức, cản
trở bức tiến của tinh thần. Đức Phật dạy: "Người
trí không đặt niềm tin vào những lý thuyết suông. Họ khó
tin vào những gì họ chỉ thấy và nghe".
Lý thuyết là sản
phẩm của trí năng, và Đức Phật hiểu rằng trí thức của
con người có giới hạn. Ngài dạy rằng giác ngộ không chỉ
do trí năng mà đạt được. Ta không thể hoàn tất được
cuộc giải phóng bằng một lớp đào tạo trí năng. Câu trên
đây có vẻ như không hợp lý nhưng đó là sự thật. Những
nhà trí thức dành quá nhiều thì giờ quý báu vào việc nghiên
cứu, phân tích để phê phán và tranh luận. Họ thường bỏ
rất ít thì giờ hay không có thì giờ cho việc tu tập.
Một tư tưởng gia uyên
bác (nhà triết lý, khoa học, siêu hình học vân vân...) cũng
có thể biến thành một nhà trí thức điên khùng. ông ta có
thể là một nhà trí thức siêu việt với thiên phú lãnh
hội ý kiến rất nhanh và có thể diễn tả tư tưởng rất rõ
ràng. Nhưng ông ta không chú ý đến hành động của chính ông
ta và những hậu quả của nó, và nếu ông cứ miệt mài hoàn
thành ước vọng và sở thích của mình bằng mọi giá, theo
Đức Phật, ông là nhà trí thúc điên khùng, một người trí
thức hạ đẳng. Một người như vậy sẽ tự ngăn chặn
mức tiến bộ tâm linh của mình.
Giáo lý của Đức
Phật chứa đựng việc thực hành trí tuệ không bị giới
hạn vào lý thuyết hay triết lý vì triết lý chỉ đề cập
đến kiến thức mà không chú trọng đến việc áp dụng
kiến thức vào việc tu tập hàng ngày.
Phật Giáo đặt
trọng tâm vào việc tu tập và chứng ngộ. Triết lý gia
thấy những lầm than và thất vọng của đời sống, nhưng không
giống như Đức Phật, họ không đưa ra giải pháp thực
tiễn để vượt qua những khủng hoảng là một phần bản
chất bất-toại-nguyện của đời sống. Nhà triết lý chỉ
đẩy tư tưởng của họ vào đường cùng. Triết lý hữu ích
vì làm phong phú tinh thần và giảm thiểu những tín điều không
cho mở mang tâm trí. Về mặt trên đây, Phật Giáo công nhận
giá trị của triết lý, nhưng triết lý không thỏa mãn được
sự khao khát về tâm linh.
Xin hãy nhớ mục tiêu
chủ yếu của người Phật Tử là đạt thanh tịnh và giác
ngộ. Giác ngộ đánh bại vô minh là gốc rễ của sanh tử.
Tuy nhiên sự đánh bại vô minh đó không thể hoàn tất
ngoại trừ bằng sự huân tập, lòng tin tưởng vào chính mình.
Tất cả những nỗ lực khác - nhất là chỉ có tính cách
học thức suông đều không hữu hiệu. Vì thế Đức Phật
kết luận: "Những câu hỏi siêu hình không đem lợi ích,
không liên quan gì đến Pháp, không đưa đến giới hạnh, đến
buông bỏ, đến chuyển hóa tham dục, hay đưa đến trầm
lặng, an lạc, đến hiểu biết thực sự hay tuệ giác cao thâm
hay đến Niết Bàn. (Kinh Malunkyaputta Sutta - Majjhima Nikaya). Thay
vào việc luận đoán siêu hình, Đức Phật chú tâm chỉ dạy
một hiểu biết thực tiễn về Tứ Diệu Đế mà Ngài khám
phá ra: Cái Gì là Khổ, Cái Gì là Nguyên nhân của Khổ, Cái
Gì là Dứt Khổ, và Làm Sao Diệt Khổ để giác ngộ được
sự giải thoát cuối cùng. Tất cả những Chân lý ấy toàn là
những vấn đề mà bất cứ ai cũng có thể thực hành được,
chứng nghiệm được và nhận định được nếu người đó
thực sự muốn giải thoát.
Giác ngộ xua tan vô
minh, đó là lý tưởng của đời sống người Phật Tử. Bây
giờ chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng giác ngộ không phải
là một hành động của trí thức. Luận đoán suông sẽ đi
ngược lại giác ngộ và không đi đến sự tiếp xúc gắn bó
với cuộc sống. Cho nên tại sao Đức Phật đặt trọng tâm
vào kinh nghiệm bản thân. Thiền định là một hệ thống
khoa học thực tiễn để kiểm soát Chân Lý đến từ kinh
nghiệm bản thân. Qua thiền định, ý chí cố gắng vượt lên
khỏi điều kiện mà chính ý chí đã đặt lên chính nó, đó
là sự tỉnh thức của tâm thức. Siêu hình học chỉ cột chúng
ta xuống một khối tư tưởng và lời nói rối ren, mờ mịt.
PHẬT GIÁO CÓ BI QUAN
KHÔNG?
Phật giáo không bi
quan mà cũng không lạc quan. nhưng là một tôn giáo thực
tiễn.
Vài nhà phê bình cho
Phật Giáo là bệnh hoạn, yếm thế, lẩn quẩn bên khía
cạnh đen tối, u ám của cuộc sống, là kẻ thù của các
lạc thú vô hại, dửng dưng chà đạp lên các thú vui hồn
nhiên của cuộc đời. Họ coi Phật Giáo như bi quan, nuôi dưỡng
thái độ vô vọng về cuộc đời, khuyến khích một cảm giác
mơ hồ chung chung cho rằng đau khổ và tội lỗi chiếm ưu
thế trong mọi công việc của con người. Những lời chỉ trích
này căn cứ vào cái nhìn của họ về Tứ Diệu Đế là mọi
sự vật do duyên sinh đều trong trạng thái đau khổ. Hình như
những người này quên rằng không những Đức Phật dạy nguyên
nhân và sự chấm dứt khổ đau, mà Ngài còn dạy con đường
để chấm dứt khổ đau. Trong bất cứ tôn giáo nào, thử
hỏi có một đạo sư nào ca tụng cuộc đời trần tục và
khuyên ta bám níu vào nó không?
Nếu Đức Phật, người
khai sáng ra tôn giáo này là một người bi quan thì ắt hẳn
họ muốn cá tính này phải được vẽ đậm nét hơn là trong
chân dung đã có của Ngài. Hình ảnh của Đức Phật là
hiện thân của Hòa Bình, Tịch Tịnh, Hy Vọng và Thiện Chí.
Nụ cười rạng rỡ và lôi cuốn của Đức Phật mà có người
cho là bí hiểm và khó hiểu, chính là cái toát yếu của giáo
lý của Ngài. Với những ai lo lắng và thất vọng, nụ cười
giác ngộ và hy vọng của Ngài là liều thuốc bổ hiệu
nghiệm và là niềm an ủi vô song.
Tình thương, lòng từ
bi của Ngài tỏa khắp bốn phương. Một con người như vậy
khó có thể là một kẻ bi quan. Khi các vua và hoàng tử
chiến thắng bằng gươm đao, tưởng mình là hạnh phúc, được
nghe lời giảng của Ngài, đã thức tỉnh và nhận thức được
người chiến thắng thực sự chính là kẻ tự thắng lấy mình
và con đường đắc nhân tâm là làm sao dạy cho người dân
biết quý Phật Pháp - Chân Lý.
Đức Phật vận dụng
tinh thần hài hước cao độ khiến những người chống đối
gay gắt Ngài cũng phải bó giáo một cách hết sức là thoải
mái. Đôi khi họ không nhịn được cười chính họ. Đức
Phật có một loại thuốc bổ tuyệt diệu: Ngài tẩy sạch
hệ thống độc tố nguy hiểm của họ và họ trở nên vui
vẻ, hứng thú theo gót chân Ngài. Trong những thời giảng Pháp,
đối thoại hay bàn luận, Ngài luôn luôn giữ được tư thế
đĩnh đạc và uy nghi khiến mọi người đều kính trọng và
cảm mến Ngài. Làm sao một người như vậy là một kẻ bi
quan được?
Đức Phật chẳng bao
giờ muốn các đệ tử của Ngài phải băn khoăn lo lắng về
cái đau khổ của cuộc đời và sống cuộc đời nghèo khổ
bất hạnh. Ngài dạy sự thật của khổ đau và chỉ cách
thức thoát khỏi khổ đau để tiến tới hạnh phúc. Muốn
trở thành người giác ngộ, ta phải hoan hỷ, một trong
những yếu tố cần thiết mà Đức Phật khuyên nhủ phải
trau dồi. Hoan hỷ thì khó mà bi quan.
Có hai cuốn Kinh Phật
Giáo, Theragatha và Therigatha (Trưởng lão tăng kệ và
Trưởng lão ni kệ), chứa đầy những lời thật hoan hỷ
của đệ tử Phật, phía nam cũng như phía nữ, tìm thấy an
lạc và hạnh phúc trong cuộc sống nhờ giáo lý của Ngài.
Vua Kosola có lần thưa với Đức Phật: "Không giống như
tín đồ của các hệ thống tôn giáo khác, trông họ hốc hác,
thô lỗ, xanh xao, èo uột không gây thiện cảm, đệ tử của
Đức Phật vui vẻ, phấn chấn, hớn hở, cởi mở, vui sống
cuộc đời đạo lý, thanh thoát, an lạc, tâm trí linh hoạt,
thư thái. Vị Vua này còn thêm là ông tin rằng tính tình lành
mạnh đó là do sự kiện "các vị tăng khả kính này
chắc chắn đã chứng nghiệm được ý nghĩa cao cả và trọn
vẹn Giáo Pháp của Đấng Thiên Thệ (Majjhima Nikaya - Trung Bộ
Kinh).
Khi đưọc hỏi tại
sao những môn đồ của Ngài sống một đời đạm bạc và
trầm lặng, ngày chỉ ăn một bữa, mà sắc diện lại tươi
sáng như thế. Đức Phật trả lời:
"Họ không nuối
tiếc dĩ vãng, và cũng không lo lắng cho tương lai. Họ sống
trong hiện tại. Vì thế họ rạng rỡ sáng tươi. Băn khoăn
về tương lai, tiếc nuối quá khứ, kẻ thiểu trí sẽ khô héo
như đám lau xanh bị phát ngang dưới ánh nắng mặt
trời". (Samyutta Nikaya - Tương Ưng Bộ Kinh)
Là một tôn giáo, Đạo
Phật dạy bản chất về bất-toại-nguyện của mọi sự
vật trên thế giới. Tuy vậy chúng ta không thể đơn giản
xếp loại Đạo Phật là một tôn giáo bi quan, vì Đạo Phật
cũng dạy ta làm sao loại bỏ được bất hạnh này. Theo Đức
Phật, ngay đến kẻ tội lỗi nhất, sau khi đền tội đã làm
cũng có thể đạt giải thoát. Đạo Phật hiến cho mọi người
niềm hy vọng đạt được giải thoát một ngày nào đó. Tuy
nhiên các tôn giáo khác cho rằng đương nhiên những người
xấu thì sẽ xấu mãi mãi và địa ngục vô gián đang chờ đợi
họ. Về mặt này, những tôn giáo như vậy mới thật là bi
quan. Người Phật Tử không chấp nhận cách tin tưởng như
vậy.
Đạo Phật không lạc
quan mà cũng chẳng bi quan. Đạo Phật không khuyến khích con
người nhìn đời qua cảm nghĩ luôn thay đổi lạc quan rồi
bi quan của họ. Đúng hơn Đạo Phật khuyến khích chúng ta
phải thực tế: Chúng ta phải tập nhìn sự vật đúng chúng
là như vậy.
ĐẠO
PHẬT CÓ VÔ THẦN KHÔNG?
Vô thần thường được
liên hệ với duy vật chủ nghĩa, cho rằng không có cái gì
cao hơn thế giới này.
Đức Phật lên án
chủ trương vô thần mà theo Ngài có nghĩa là sự phủ nhận
lễ bái, xuất gia tu hành, phủ nhận bổn phận về luân lý và
xã hội, và phủ nhận cuộc đời đạo hạnh. Ngài xác nhận
dứt khoát sự hiện hữu của những giá trị luân lý và tinh
thần. Ngài ca ngợi sự siêu việt của định luật luân lý.
Chỉ có một điều có thể gán tên cho Đạo Phật là vô
thần, là Đạo Phật không công nhận sự hiện hữu một Thượng
Đế Tối Thượng bất diệt hay một Thượng Đế-Chủ Tể,
đấng sáng tạo và chỉ huy thế giới. Tuy nhiên chữ "vô
thần" thường chứa đựng giọng điệu hay ngụ ý chê
bai bóng gió không thể áp dụng cho Giáo Lý của Đức Phật.
Những kẻ dùng chữ "vô thần", thường liên hệ nó
với duy vật chủ nghĩa, thường không hiểu gì cao hơn cái
thế giới của giác quan và hạnh phúc mong manh mà nó có thể
tặng cho đời. Đạo Phật không chủ trương như vậy.
Không có một sự
giải thích nào để có thể gán cho Phật Tử là kẻ vô
thần, hư vô, tà giáo, ngoại đạo, hay cộng sản chỉ vì người
Phật Tử không tin vào một Thượng Đế Sáng Tạo. Quan niệm
về Thượng Đế của người Phật Tử khác hẳn các tôn giáo
khác. Những sự khác biệt trong đức tin không biện minh cho tên-gọi
và những lời phỉ báng.
Đạo Phật đồng ý
với các tôn giáo khác rằng chân hạnh phúc trường cửu không
thể tìm thấy trên thế giới vật chất này. Đức Phật còn
thêm là chân hạnh phúc trường cửu không thể tìm thấy
trong cuộc sống ở các cảnh giới cao hơn hay siêu phàm, gọi
là thiên đường hay thế giới siêu trần. Trong khi những giá
trị tinh thần mà Đạo Phật chủ trương hướng về một
trạng thái vượt khỏi trần thế để đạt Niết Bàn.
Những giá trị này không ngăn chia "cái bên kia" và
(thế giới) "tại đây và bây giờ". Những giá trị
tinh thần này có những rễ sâu trong thế gian, hướng vào
sự chứng nghiệm cao nhất trong kiếp sống hiện tại này.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|