Với
chương
này,
chúng
ta
bắt
đầu
xét
hai
quan
niệm
phổ
biến
và
có
liên
hệ
với
nhau
trong
Phật
giáo:
nghiệp
đạo
(con
đường
của
nghiệp,
dẫn
từ
nghiệp
nhơn-hay
nghiệp
duyên-đến
nghiệp
quả)
và
tái
sanh.
Hai
quan
niệm
này
liên
quan
khá
mật
thiết
nhau,
nhưng
vì
đề
tài
quá
rộng
nên
tôi
xin
dành
hai
chương. Chúng
ta
đã
biết
rằng
những
yếu
tố
giữ
chúng
ta
làm
tù
nhân
trong
luân
hồi
là
những
phiền
não:
vô
minh
(si),
(tham)
vướng
và
(sân)
giận.
Chúng
ta
đã
thảo
luận
việc
này
khi
bàn
đến
‘Tập
đế’
tức
sự
thật
huân
tập
của
nguyên
nhân
đau
khổ
(xem
các
Chương
4
và
7).
Những
phiền
não
đó
gây
ra
cho
mỗi
sinh
vật
trong
thế
giới
này,
dù
là
con
người,
thú
vật
hay
một
thực
thể
sống
trong
các
cõi
khác
mà
ta
không
thể
nhận
ra
một
cách
bình
thường. Trang
75.
Tuy
rằng
giữa
chúng
ta
với
nhau
có
ít
nhiều
khác
biệt
nhưng
tất
cả
đều
giống
nhau
ở
chỗ
là
phải
chịu
đựng
các
phiền
não,.
Chẳng
hạn,
có
người
trong
chúng
ta
giàu
có
trong
khi
kẻ
khác
thì
nghèo
khổ,
người
thì
mạnh
và
khỏe
trong
khi
kẻ
khác
yếu
và
bệnh,
v.v...Có
nhiều
sự
khác
biệt
giữa
chúng
ta
với
nhau,
giữa
người
với
thú.
Những
sự
khác
nhau
này
là
kết
quả
của
nghiệp
đạo.
Si,
tham
và
sân
là
phổ
biến
cho
tất
cả
các
sinh
vật,
nhưng
hoàn
cảnh
riêng
biệt
của
mỗi
sinh
vật
là
kết
quả
của
nghiệp
đạo
riêng
biệt.
Việc
này
tác
động
vào
hoàn
cảnh
riêng
biệt
của
người
đó. Nghiệp
đạo
cắt
nghĩa
tại
sao
có
sinh
vật
lại
may
mắn
trong
khi
kẻ
khác
ít
may
mắn
và
tại
sao
người
vui
kẻ
buồn.
Ðức
Phật
đã
nói
rõ
ràng
rằng
nghiệp
đạo
giải
thích
nguyên
nhân
cho
các
sự
khác
nhau
đó.
Chúng
ta
cũng
nhớ
lại
một
phần
của
kinh
nghiệm
của
đức
Phật
vào
đêm
giác
ngộ:
ngài
đạt
được
sự
hiểu
biết
là
nghiệp
đạo
đã
quyết
định
như
thế
nào
về
sự
tái
sinh
của
các
sinh
vật
và
các
sinh
vật
đã
chuyển
biến
như
thế
nào
từ
điều
kiện
hạnh
phúc
qua
không
hạnh
phúc
và
ngược
lại.
Ðó
là
hậu
quả
của
nghiệp
báo
riêng
của
họ.
Chính
nghiệp
quả
đã
giải
nghĩa
cho
các
hoàn
cảnh
khác
nhau
của
từng
sinh
vật
một. Trang
76.
Sau
khi
nói
nhiều
về
sự
vận
hành
của
nghiệp
đạo,
ta
hãy
tìm
xem
ý
nghĩa
thực
sự
của
nó
bằng
lối
định
nghĩa.
Ta
bắt
đầu
bằng
cách
định
nghĩa
ngược
lại:
cái
gì
không
phải
là
nghiệp
đạo?.
Thông
thường,
ta
hay
hiểu
lầm
ý
nghĩa
của
nghiệp
đạo,
đặc
biệt
là
trong
việc
dùng
nó
hằng
ngày.
Bạn
thường
thấy
người
ta
hay
nói
tự
an
ủi
hay
chịu
nhẫn
nhục
về
một
sự
kiện
khác
thường.
Họ
tự
cho
là
nghiệp
quả
để
tự
an
ủi
cho
một
tình
trạng.
Khi
người
ta
nghĩ
đến
nghiệp
quả
theo
lối
này,
nó
trở
thành
một
dụng
cụ
để
trốn
thoát
và
giả
định
cho
hầu
hết
các
lòng
tin
vào
thiên
định
(predestination)
hoặc
số
mệnh
(fate).
Chắc
chắn
việc
làm
này
không
phải
là
cái
nghĩa
đúng
đắn
của
nghiệp
đạo.
Có
lẽ
việc
hiểu
lầm
này
là
kết
quả
của
một
ý
tưởng
định
mệnh
khá
thông
thường
trong
nhiều
văn
hóa.
Có
lẽ
chính
vì
lòng
tin
phổ
quát
về
thiên
định
hay
số
mệnh
này
mà
ý
niệm
nghiệp
quả
thường
bị
lẫn
lộn
và
không
hiểu
rõ.
Nghiệp
quả,
đúng
hơn
và
khách
quan
hơn
là
nghiệp
đạo,
chắc
chắn
không
phải
là
số
mệnh
hay
thiên
định. Nếu
nghiệp
quả
không
phải
là
số
mệnh
cũng
không
phải
là
thiên
định
vậy
thì
nó
là
cái
gì?
Chúng
ta
hãy
xét
cái
nghĩa
nơi
chính
chữ
đó.
Nghiệp
có
nghĩa
là
hành
động
tức
là
hành
vi
làm
ra
việc
này
hay
việc
kia.
Ngay
tức
khắc,
chúng
ta
có
một
định
nghĩa
rõ
ràng
rằng
cái
ý
nghĩa
thực
sự
của
nghiệp
quả
không
phải
là
số
mạng
mà
là
hành
động,
tức
là
nó
động.
Nhưng
nghiệp
quả
không
phải
chỉ
là
hành
động,
một
hành
động
máy
móc,
cũng
không
phải
là
vô
ý
thức
hay
vô
tình.
Trái
lại,
hành
động
nghiệp
quả
này
là
có
chủ
tâm,
có
ý
thức
và
cố
ý,
được
tác
động
bởi
sự
tự
ý
mình
hoặc
do
ý
chí. Trang
77.
Tại
sao
hành
động
có
chủ
tâm
này
lại
giúp
ta
tốt
đẹp
hơn
hoặc
gây
cho
ta
tệ
hại
hơn?
Rất
có
thể
chứ.
Mỗi
hành
động
đều
có
một
phản
ứng
hay
kết
quả
của
nó.
Sự
thật
này
đã
nói
lên
một
cách
rõ
ràng
về
vũ
trụ
vật
lý
học
do
vật
lý
gia
cổ
điển
Newton
đưa
ra.
Thuyết
của
ông
cho
rằng
mỗi
hành
động
đều
có
một
phản
ứng
ngược
lại
và
bằng
nhau.
Trong
luật
về
hành
động
và
trách
nhiệm,
có
một
kết
quả
tương
ứng
về
hành
động
và
phản
ứng.
Chúng
điều
hành
các
biến
cố
trong
vũ
trụ
vật
chất.
Ðó
là
luật
mà
mỗi
hành
động
có
chủ
ý
phải
có
kết
quả
của
nó.
Vì
lý
do
này,
Phật
tử
thường
nói
đến
hành
động
có
chủ
ý
với
các
hậu
quả
chín
mùi
hoặc
hành
động
có
chủ
ý
với
kết
quả
một
phần
của
nó.
Vì
vậy,
khi
muốn
nói
về
hành
động
có
chủ
ý
cùng
với
những
hậu
quả
chín
mùi,
chúng
ta
dùng
câu
‘‘luật
nghiệp
quả’’. Ở
vào
trình
độ
cơ
bản
nhất,
luật
nghiệp
quả
dạy
rằng
các
loại
hành
động
đặc
biệt
hiển
nhiên
dẫn
đến
những
kết
quả
thích
đáng
hay
tương
tự.
Chúng
ta
hãy
lấy
một
thí
dụ
tương
tự
để
chứng
minh
điểm
này.
Nếu
chúng
ta
ươn
trồng
một
hạt
xoài,
khi
cây
lớn
lên,
kết
quả
sẽ
là
một
cây
xoài,
và
sau
đó
sẽ
ra
xoài
trái.
Cũng
như
vậy,
nếu
chúng
ta
trồng
một
hạt
lựu,
kết
quả
là
chúng
ta
sẽ
có
cây
lựu,
và
trái
sẽ
là
trái
lựu.
‘‘Gieo
thế
nào,
bạn
sẽ
gặt
thế
ấy’’:
tùy
loại
hành
động
mà
ta
sẽ
được
quả
tương
tự. Trang
77.
Cũng
như
vậy,
theo
luật
nghiệp
quả,
nếu
ta
hành
động
lành
mạnh,
sớm
muộn
gì
cũng
sẽ
được
một
kết
quả
lành
mạnh.
Nếu
ta
hành
động
không
lành
mạnh,
hiển
nhiên
sẽ
có
kết
quả
không
lành
mạnh.
Ðây
là
những
gì
chúng
ta
muốn
nói
trong
Phật
giáo,
đó
là
những
nguyên
nhân
đặc
biệt
đem
lại
những
hậu
quả
đặc
biệt
tương
tự.
Ðiều
này
trở
thành
rất
rõ
ràng
khi
chúng
ta
xét
đến
những
ví
dụ
đặc
biệt
của
các
hành
động
lành
mạnh
hay
không
lành
mạnh
và
những
hậu
quả
tương
tự
với
chúng. Từ
định
nghĩa
tổng
quát
và
ngắn
gọn
này,
ta
có
thể
hiểu
nghiệp
quả
gồm
2
loại:
nghiệp
quả
tốt
đẹp
hay
lành
mạnh
và
nghiệp
quả
xấu
xa
hay
không
lành
mạnh.
Ðể
tránh
sự
hiểu
lầm
từ
ngữ
này,
ta
thử
xem
chữ
gốc
của
chúng:
kushala
và
akushala.
Kushala
có
nghĩa
là
‘thông
minh’
hay
‘có
kỷ
năng’,
và
akushala
là
‘không
thông
minh’
hoặc
‘không
có
kỷ
năng’.
Biết
được
như
vậy,
chúng
ta
thấy
rằng
những
từ
này
được
dùng
trong
Phật
giáo
không
có
nghĩa
tốt
và
xấu,
mà
có
nghĩa
là
thông
minh
và
không
thông
minh,
giỏi
và
dở,
lành
mạnh
và
không
lành
mạnh. Trang
78.
Hành
động
thế
nào
là
lành
mạnh
và
thế
nào
là
không
lành
mạnh?
Hành
động
lành
mạnh
là
hành
động
có
lợi
cho
mình
và
cho
người,
được
khởi
động
không
phải
bởi
si,
tham,
sân
mà
bởi
trí,
dũng,
bi. Làm
sao
biết
được
hành
động
lành
mạnh
sẽ
cho
hạnh
phúc
và
một
hành
động
không
lành
mạnh
sẽ
gây
ra
không
hạnh
phúc?
Câu
trả
lời
ngắn
gọn
là
‘thời
gian
sẽ
trả
lời’.
Chính
Phật
đã
cắt
nghĩa
rằng,
chỉ
có
người
ngu
khờ
mới
tưởng
rằng
một
hành
động
không
lành
mạnh
tuy
ban
đầu
không
gây
ra
đau
khổ,
nhưng
phải
chờ
một
thời
gian
sau
với
sự
khổ
đau
xãy
ra,
anh
ta
mới
nhận
ra
rằng
hành
động
đó
là
không
lành
mạnh.
Tương
tự
như
vậy,
chỉ
có
người
không
kiên
nhẫn
mới
tưởng
rằng
một
hành
động
lành
mạnh
tuy
ban
đầu
không
cho
hạnh
phúc,
nhưng
phải
chờ
một
thời
gian
sau
với
niềm
hạnh
phúc
đem
đến,
anh
ta
mới
nhận
ra
rằng
hành
động
đó
là
lành
mạnh. Trang
78.
Vì
thế
chúng
ta
cần
phán
xét
các
hành
động
lành
mạnh
và
không
lành
mạnh
theo
kết
quả
dài
hạn
của
chúng.
Một
cách
rất
giản
dị
là
không
sớm
thì
muộn
những
hành
động
lành
mạnh
gây
kết
quả
lợi
lạc
cho
mình
và
cho
người
và
những
hành
động
không
lành
mạnh
gây
đau
khổ
cho
mình
và
cho
người. Ðặc
biệt
những
hành
động
không
lành
mạnh
phải
được
tránh,
có
liên
hệ
đến
thân,
khẩu,
ý.
Có
tất
cả
3
hành
động
không
lành
mạnh
của
thân,
4
của
miệng
và
3
của
ý.
Ba
hành
động
không
lành
mạnh
của
thân
là
(1)
giết,
(2)
trộm
cắp,
và
(3)
tà
dâm;
bốn
hành
động
không
lành
mạnh
của
khẩu
là
(4)
nói
dối,
(5)
nói
nặng,
(6)
nói
xấu
và
(7)
nói
ác
ý;
và
ba
loại
không
lành
mạnh
của
ý
là
(8)
tham
lam,
(9)
sân
giận
và
(10)
mê
si.
Bằng
cách
tránh
mười
hành
động
không
lành
mạnh
này,
chúng
ta
có
thể
thoát
khỏi
các
hậu
quả
của
nó. Trang
79.
Kết
quả
chung
cho
các
hành
động
không
lành
mạnh
là
đau
khổ.
Chúng
có
nhiều
hình
thức
khác
nhau.
Hậu
quả
chung
cuộc
của
các
hành
động
không
lành
mạnh
là
sự
tái
sinh
trong
các
cảnh
giới
thấp
hơn,
bất
hạnh
hơn:
địa
ngục,
ngạ
quỷ,
súc
sinh.
Nhẹ
hơn,
các
hành
động
không
lành
mạnh
không
đủ
để
gây
ra
sự
tái
sinh
trong
những
cỏi
thấp
hơn
thì
nó
gây
ra
đau
khổ
dù
vẫn
được
sanh
ra
làm
người. Tới
đây
chúng
ta
có
thể
thấy
hiệu
quả
của
cái
nguyên
tắc
đã
nói
ở
trên:
cái
nhân
gây
ra
quả
tương
ứng.
Chẳng
hạn,
nếu
chúng
ta
thường
quen
hành
động
vì
lòng
ác
cảm
và
ghét
bỏ,
như
hại
mạng
của
người
khác,
điều
này
sẽ
gây
tái
sinh
trong
địa
ngục,
nơi
chúng
ta
sẽ
bị
tra
tấn
hoặc
bị
giết.
Nếu
hành
động
giết
chóc
các
sinh
vật
khác
không
phải
là
thói
quen
và
được
lặp
đi
lặp
lại,
như
thế
sẽ
có
kết
quả
không
được
sống
thọ
dù
rằng
được
sanh
làm
người.
Hoặc
là
các
hành
động
của
loại
này
có
thể
gây
ra
là
sống
xa
cách
với
người
thân,
sợ
hãi,
hay
tính
đa
nghi.
Trong
trường
hợp
này,
chúng
ta
cũng
có
thể
thấy
rõ
cái
quả
tương
đương
với
đặc
tính
của
cái
nhân
như
thế
nào.
Giết
người
tức
là
làm
cho
cuộc
đời
người
đó
bị
giảm
đi,
tước
mất
đi
người
thân
của
họ,
vì
thế
nếu
chúng
ta
tự
cho
phép
mình
trong
việc
giết
người
chúng
ta
sẽ
phải
chịu
những
hậu
quả
tương
tự. Giống
như
vậy,
việc
trộm
cắp
do
lòng
tham
hay
dính
mắc
có
thể
dẫn
đến
việc
tái
sinh
làm
ngạ
quỷ.
Chúng
ta
sẽ
bị
hoàn
toàn
tước
mất
những
gì
mình
muốn
và
bị
từ
khước
các
thứ
như
đồ
ăn
và
chổ
ở.
Và
dù
rằng
trộm
cắp
không
tái
sinh
thành
ma
đói,
nó
sẽ
gây
ra
nghèo
khổ,
tùy
thuộc
vào
những
người
khác
về
phương
diện
mưu
sinh
v.v....
Tà
dâm
sẽ
có
vấn
đề
về
mặt
hôn
nhân. Trang
80.
Nói
tóm
lại,
hành
động
không
lành
mạnh
cho
kết
quả
không
lành
mạnh
dưới
các
hình
thức
đau
khổ
khác
nhau,
và
hành
động
lành
mạnh
có
kết
quả,
hạnh
phúc
lành
mạnh.
Chúng
ta
có
thể
giải
thích
những
hành
động
lành
mạnh
bằng
hai
cách,
tiêu
cực
và
tích
cực.
Hoặc
có
thể
đánh
giá
một
hành
động
là
lành
mạnh
khi
ta
tránh
làm
những
hành
động
không
lành
mạnh
như
giết
người,
trộm
cắp,
tà
dâm,
hoặc
chúng
ta
có
thể
nghĩ
đến
những
hành
động
lành
mạnh
như
lòng
rộng
lượng,
tự
chế,
thiền
định,
tôn
kính,
độ
người,
hồi
hướng
công
đức,
vui
mừng
với
công
đức
của
người
khác,
nghe
Pháp,
dạy
Pháp
và
sự
tu
sửa
các
quan
điểm
sai
sót
của
mình. Một
lần
nữa
ta
thấy
kết
quả
của
hành
động
tương
ứng
với
nguyên
nhân
của
nó.
Chẳng
hạn,
lòng
quảng
đại
làm
ta
giàu
có,
nghe
Pháp
cho
kết
quả
trí
tuệ,
v.v...So
với
tính
chất
tương
tự
với
nguyên
nhân
thì
hành
động
lành
mạnh
cho
kết
quả
lành
mạnh
hay
lợi
lạc,
còn
hành
động
không
lành
mạnh
có
những
kết
quả
không
lành
mạnh. Trang
80.
Nghiệp
quả
hay
nghiệp
đạo,
dù
lành
mạnh
hay
không,
đều
được
chuyển
biến
bởi
các
điều
kiện
(duyên)
theo
sau.
Nói
một
cách
khác,
một
hành
động
lành
mạnh
hay
không
lành
mạnh
có
thể
ít
nhiều,
nặng
nhẹ
hơn
tùy
các
điều
kiện
hành
động
theo
sau.
Các
điều
kiện
quyết
định
sức
nặng
hay
sức
mạnh
của
nghiệp
quả
có
thể
qui
về
người
hay
vật
chủ
động
và
người
hay
vật
bị
động,
hay
mục
tiêu
mà
hành
động
hướng
tới.
Vì
thế
các
điều
kiện
ảnh
hưởng
đến
nghiệp
quả
đều
áp
dụng
cho
cả
hành
động
chủ
thể
cũng
như
cho
đối
tượng. Lấy
thí
dụ
về
sát
sanh
thì
năm
điều
kiện
sau
đây
phải
tuyệt
đối
hội
đủ:
(1)
có
một
sinh
vật
để
sát
sanh,
(2)
có
ý
thức
về
sự
hiện
hữu
của
sinh
vật
ấy,
(3)
có
ý
muốn
giết
sinh
vật
ấy,
(4)
có
hành
động
giết
sinh
vật
ấy,
và
(5)
có
cái
chết
của
sinh
vật
ấy.
Ở
đây
chúng
ta
có
thể
thấy
những
điều
kiện
áp
dụng
cho
chủ
thể
cũng
như
cho
đối
tượng
hành
động
giết
người:
Những
điều
kiện
chủ
quan
là
ý
thức
có
sự
hiện
hữu
của
một
sinh
vật,
ý
muốn
giết
và
hành
động
giết.
Những
điều
kiện
khách
quan
là
sự
hiện
hữu
của
một
sinh
vật
và
cái
chết
tiếp
theo
đó
của
sinh
vật
ấy. Trang
81.
Tương
tự
như
vậy,
có
5
điều
kiện
(duyên)
khác
nhau
có
thể
chuyển
biến
được
ảnh
hưởng
đến
nghiệp
quả:
1.
lặp
đi
lặp
lại,
2.
chủ
tâm,
3.
không
hối
tiếc,
4.
phẩm
chất
và
5.
biết
ơn
(biết
cái
giá
trị
của
duyên
đưa
tới).
Một
lần
nữa,
năm
điều
này
được
phân
loại
thành
chủ
quan
và
khách
quan.
Các
điều
kiện
chủ
quan
là
1.
hành
động
được
lặp
đi
lặp
lại,
2.
làm
với
chủ
ý
và
quyết
tâm
và
3.
hành
động
làm
mà
không
tiếc
nuối
hoặc
hoài
nghi.
Nếu
bạn
lặp
đi
lặp
lại
hành
động
không
lành
mạnh
với
sự
chủ
ý
và
không
hối
tiếc,
cái
sức
mạnh
của
hành
động
đó
sẽ
tăng
lên. Trang
81.
Các
điều
kiện
khách
quan:
phẩm
chất
(hành
động
hướng
tới
sinh
vật
đó)
và
biết
ơn
tức
biết
giá
trị
của
điều
kiện
đưa
tới
(sự
liên
hệ
tồn
tại
giữa
khách
thể
và
đối
tượng
của
hành
động).
Nói
một
cách
khác,
nếu
chúng
ta
làm
một
hành
động
(lành
mạnh
hay
không
lành
mạnh)
đối
với
một
sinh
vật
với
sức
mạnh
đặc
biệt,
như
một
A
la
hán
hay
một
vị
Phật,
hành
động
đó
sẽ
có
kết
quả
lớn
hơn.
Cuối
cùng,
cái
lực
của
các
hành
động
đó
sẽ
mạnh
hơn
khi
chúng
được
làm
đối
với
những
người
mà
ta
thân
thiết,
có
liên
hệ
trong
quá
khứ
như
cha
mẹ,
thầy
cô
và
bạn
bè. Các
điều
kiện
chủ
thể
và
đối
tượng,
gộp
chung
lại,
quyết
định
nghiệp
đạo
hay
nghiệp
lực.
Ðấy
là
điều
quan
trọng,
bởi
vì
điều
này
sẽ
giúp
chúng
ta
nhớ
rằng
nghiệp
quả
không
chỉ
là
một
vấn
đề
của
đen
và
trắng
hoặc
tốt
hay
xấu.
Nghiệp
một
mặt
là
hành
động
chủ
ý
và
trách
nhiệm
đạo
đức,
nhưng
mặt
khác
nó
còn
có
ý
nghĩa
là
sự
vận
hành
nghiệp
lực
được
cân
bằng
rất
chuẩn
mực
để
sao
cho
nghiệp
quả
hợp
với
nghiệp
nhơn.
Nó
tính
chung
tất
cả
các
điều
kiện
chủ
quan
và
khách
quan
ảnh
hưởng
đến
đặc
tính
của
một
hành
động
một
cách
chính
xác.
Ðiều
này
làm
cho
các
kết
quả
của
một
hành
động
tương
tự
và
ngang
bằng
với
các
nguyên
nhơn. Trang
82.
Các
quả
của
nghiệp
lực
trở
nên
hiển
lộ
hoặc
dài
hạn
hay
ngắn
hạn.
Thông
thường
nghiệp
quả
được
chia
thành
3
loại,
được
quyết
định
bởi
số
thì
giờ
bỏ
ra
trong
cuộc
đời
này,
trong
cuộc
đời
sắp
tới
hay
chỉ
sau
nhiều
cuộc
đời. Khi
các
kết
quả
của
nghiệp
đạo
hiện
tiền
trong
cuộc
đời
này,
đây
là
điều
có
thể
thấy
chúng
trong
vòng
một
khoảng
thời
gian
tương
đối
ngắn.
các
quả
của
loại
nghiệp
này
có
thể
được
thấy
dễ
dàng
và
trực
tiếp
bởi
chính
mắt
chúng
ta.
Chẳng
hạn,
khi
một
người
từ
chối
học
hành,
dễ
duôi
trong
việc
lạm
dụng
rượu
chè
hay
thuốc
phiện,
hoặc
bắt
đầu
trộm
cắp
để
thoả
mãn
các
thói
quen
có
hại,
các
quả
sẽ
rõ
ràng
trong
vòng
một
khoảng
thời
gian
ngắn.
Chúng
có
quả
báo
hiện
tiền
như
việc
mất
bạn,
sống
khổ
và
bệnh
tật
v.v.... Trang
82.
Mặc
dầu
chính
chúng
ta
không
thể
thấy
các
quả
trung
hạn
và
dài
hạn
của
nghiệp
quả,
Phật
và
các
vị
đệ
tử
của
ông,
những
người
đã
phát
triển
tâm
thức
thiền
định
đều
có
thể
nhận
biết.
Mục
kiền
Liên
bị
cướp
tấn
công
đầy
máu
me,
có
đến
gặp
Phật
và
ngài
thấy
rõ
rằng
các
biến
cố
đó
là
do
cái
nhân
mà
Mục
Liên
đã
làm
trong
cuộc
đời
trước
đây:
tiền
kiếp
của
Mục
Liên
đã
đem
cha
mẹ
vào
rừng
và
sau
khi
đánh
họ
chết,
báo
rằng
họ
đã
bị
cướp
giết.
Cái
quả
của
hành
động
không
lành
mạnh
này,
được
làm
trong
nhiều
đời
trước,
nay
hiện
tiền
trong
cuộc
đời
của
Ngài
Mục
kiền
Liên. Khi
chết
chúng
ta
phải
để
lại
tài
sản,
mọi
thứ
và
ngay
cả
những
người
thân
của
chúng
ta:
tuy
vậy
nghiệp
quả
của
chúng
ta
sẽ
theo
sau
giống
như
bóng
(theo
hình).
Phật
đã
nói
rằng
không
có
chỗ
nào
trên
trái
đất
hay
trên
thiên
đàng
mà
ta
có
thể
thoát
khỏi
nghiệp
báo.
Khi
có
điều
kiện
(duyên),
tùy
theo
tâm
và
thân,
các
quả
của
nó
sẽ
hiện
tiền
tùy
vào
những
điều
kiện
thích
đáng,
như
một
trái
xoài
sẽ
hiện
ra
trên
cây
xoài.
Chúng
ta
có
thể
thấy
rằng,
ngay
cả
trong
thế
giới
tự
nhiên,
một
số
kết
quả
xuất
hiện
lâu
hơn
những
cái
khác.
Nếu
chúng
ta
trồng
hạt
dưa
hấu,
chúng
ta
sẽ
được
trái
trong
một
thời
gian
ngắn
hơn
so
với
việc
trồng
các
hạt
của
cây
hạnh
nhân.
Cũng
vậy,
các
quả
của
nghiệp
báo
hiện
tiền
trong
ngắn
hạn,
trung
hạn
hay
dài
hạn
tùy
thuộc
vào
tính
chất
của
hành
động. Trang
83.
Ngoài
2
loại
chính
lành
mạnh
và
không
lành
mạnh
của
nghiệp
quả,,
chúng
ta
nên
lưu
ý
nghiệp
quả
trung
tính.
Nó
là
hành
động
không
có
hậu
quả
đạo
đức,
hoặc
vì
chính
đặc
tính
của
nó
không
có
giá
trị
đạo
đức,
hoặc
vì
cái
hành
động
đó
được
làm
không
có
chủ
ý.
Những
thí
dụ
của
loại
nghiệp
này
gồm
đi,
ăn,
ngủ,
thở,
làm
chuyện
nhỏ
v.v...Cũng
giống
như
vậy,
những
hành
động
làm
một
cách
không
cố
ý
tạo
thành
nghiệp
quả
trung
tính,
bởi
vì
cái
yếu
tố
hành
trì
hết
sức
quan
trọng
không
xãy
ra.
Chẳng
hạn,
nếu
bạn
đạp
nhằm
chết
một
côn
trùng
thì
hành
động
như
vậy
được
xem
là
nghiệp
quả
trung
tính. Sự
lợi
ích
của
việc
hiểu
biết
luật
nghiệp
quả
rất
hiển
nhiên.
Trước
hết,
hiểu
biết
được
như
vậy
khiến
ta
không
hành
ác
nhờ
vậy
không
gây
ra
đau
khổ.
Một
khi
hiểu
rằng,
trong
suốt
cuộc
đời
của
chúng
ta,
mỗi
mỗi
hành
động
cố
ý
sẽ
cho
ra
một
phản
ứng
giống
nhau
và
tương
đương
với
nó.
Một
khi
hiểu
rằng,
sớm
muộn
chúng
ta
sẽ
phải
nhận
lãnh
các
quả
của
các
hành
động
của
mình,
chúng
ta
sẽ
tự
chế
những
hành
vi
không
lành
mạnh
bởi
vì
chúng
ta
sẽ
không
muốn
chuốc
lấy
những
kết
quả
đau
khổ
của
các
hành
động
như
thế.
Cũng
giống
như
vậy,
biết
rằng
những
hành
động
lành
mạnh
sẽ
có
kết
quả
là
hạnh
phúc,
chúng
ta
sẽ
làm
hết
sức
để
vun
trồng
các
hành
động
lành
mạnh. Trang
84.
Suy
ngẫm
về
‘luật
nghiệp
quả’,
về
hành
động
và
phản
ứng
trong
các
hoạt
động
có
ý
thức,
điều
đó
khuyến
khích
ta
từ
bỏ
các
hành
động
không
lành
mạnh
và
thực
hành
các
hành
động
lành
mạnh.
Trong
chương
tới,
ta
sẽ
xét
kỹ
những
quả
báo
đặc
biệt
của
nghiệp
đạo
trong
các
cuộc
đời
kế
tiếp,
đồng
thời
xét
một
cách
chính
xác
xem
nó
tạo
điều
kiện
(duyên)
và
quyết
định
như
thế
nào
về
vấn
đề
tái
sinh
của
con
người. Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002