.
PHÁP DẠY NGƯỜI CỦA LỤC TỒ ĐẠI SƯ
TT. Thích Đức Thắng
I. TỪ HOÀNG MAI
ĐẾN ĐÔNG SƠN
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến
ngày đắc Giới tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu
trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy
người của Lục tổ Đại sư , là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái
thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người, vào lúc đó Lục tổ
không thể chối từ được (vì trước đó Lục tổ đã được Ngũ tổ dặn dò trước khi
ra khỏi Hoàng mai, là không được vội vàng nói pháp cho bất cứ ai, vì sợ
rằng Phật pháp khó hưng thịnh sau này).
Bài pháp đầu tiên này nói ra để độ cho kẻ đang muốn đoạt y-bát và ngay cả
mạng sống của mình với bất cứ giá nào! Điều đó đã chứng tỏ được lòng vô úy
và từ bi của người như thế nào rồi. Qua đây Huệ Minh đã nhìn lại được Bản
lai diện mục của chính mình qua việc :" Không nghĩ thiện không nghĩ ác,
ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Huệ Minh thượng tọa?" (Pháp
Bảo Đàn).
Ngoài bài pháp đầu tiên dành cho Huệ Minh thượng tọa trên bước đường lẫn
tránh vào nam, và những bài pháp mà Lục tổ Đại sư đã phương tiện tùy nghi
nói cho bọn thợ săn trong vòng mười lăm năm không ghi chép lại, còn có hai
bài pháp nữa đó là bài " Tâm động" và " Pháp không hai". Đây là hai bài
pháp mở đầu cho sự xuất hiện sau này của Lục tổ Đại sư khi ra dạy người,
và cũng là hai bài pháp trực tiếp đưa đến việc đắc Giới tại Đông sơn của
người. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phần cuối của phẩm Hành Do viết:
"
Một hôm Lục Tổ suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh
mãi được, liền đi đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp lúc pháp sư Ấn
Tông đang giảng kinh Niết bàn.
Lúc bấy giờ, gió thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo rằng gió động,
một vị tăng khác bảo là phướn động, tranh luận nhau mãi. Huệ Năng bước đến
bảo rằng:
Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm hai nhân giả
động đó! Cả chúng đều giật mình.
Ấn
Tông mời lên chỗ cao ngồi và, gạn hỏi nghĩa lý sâu xa. Thấy lời đối đáp
của Huệ Năng đơn giản, nhưng nghĩa lý lại chính xác, mà không theo văn tự
cú pháp nào.
Tông nói:
-
Hành giả nhất định không phải là người thường. Từ lâu đã nghe Y-pháp của
Hoàng Mai truyền vào phương nam, chẳng phải là hành giả thì ai đây?
Huệ Năng nói:
-
Chẳng dám!
Tông liền làm lễ, và xin cho đại chúng được xem Y-bát truyền lại.
Tông hỏi:
-
Khi phó chúc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về "thấy tánh" chứ chẳng luận về
thiền định hay giải thoát gì cả.
Tông hỏi:
-
Tại sao không luận về thiền định hay giải thoát?
Huệ Năng bảo:
-
Vì hai pháp chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
-
Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
Huệ Năng nói:
-
Pháp sư giảng kinh Niết bàn đã làm rõ Phật tánh, thì đó chính là pháp
không hai của Phật pháp. Như Bồ tát Cao quí Đức vương bạch Phật :
-
Người phạm vào cấm giới thuộc Bốn tội nặng, tạo Năm tội nghịch cùng bọn
Nhất xiển đề thì Phật tánh thiện căn của họ có bị đoạn mất không?
Phật dạy:
-
Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường; còn Phật tánh thì chẳng
phải thường, chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn, đó gọi là không
hai. Một là thiện hai là bất thiện, còn Phật tánh chẳng phải thiện chẳng
phải bất thiện, đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người
trí liễu đạt tánh của chúng không hai, tánh không hai là Phật tánh.
Ấn
Tông nghe xong nói:
-
Tôi giảng kinh như gạch ngói, còn nhân giả luận nghĩa như vàng ròng.
Nhân đây xuống tóc cho Huệ Năng và nguyện thờ làm thầy. Huệ Năng liền mở
pháp môn Đông Sơn dưới cây Bồ đề".
Qua ba bài pháp này, ở đây thứ nhất Huệ Minh thượng tọa đã ngộ được cái
chi ngay lúc "không nghĩ thiện không nghĩ ác"? Đây phải chăng là bài
pháp báo hiệu mở đầu cho phương pháp dạy người sau này qua "Vô niệm" của
người để qua đó nhận ra ngay cái bản lai diê? mục của mỗi chúng ta trong
cuộc sống. Đây là cách thể hiện Tông chỉ của Bồ Đề Đạt ma qua "Trực chỉ
nhơn tâm kiến tánh thành Phật" theo thể điệu và phương pháp thực tiễn của
người Trung hoa đối với cuộc sống. Sự thể hiện này, được áp dụng ngay
trong bài pháp thứ hai khi Lục tổ ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu nhân gặp
hai vị Tăng đang tranh luận về "Gió động hay Phướn động". Một câu trả lời
mới nghe ra như là đơn giản, nhưng đã đánh động làm chao đảo tận nguồn gốc
tâm thức mọi người.
Ở
đây, gió động hay phướn động? Tất cả đều là cảnh ngoài, chúng không có bất
cứ giá trị thực hữu nào, vì chúng không can hệ gì đến chúng ta. Chúng chỉ
có giá trị được khi tâm chúng ta khởi lên tác ý và, chúng được vọng tâm
của chúng ta áp đặt lên chúng những gía trị mà chúng không bao giờ có. Do
đó, chúng trở nên là thật có đối với một tâm hồn mê mờ mà thôi, trên thực
tế chúng chỉ là những chiếc bóng không thật. Qua đây rõ ràng chúng ta đã
tự đánh mất bổn tâm, đã tự vong thân chấp vào những pháp giả huyễn không
thật có ở bên ngoài cho là thực hữu, và vì vậy cho nên có Gió động hay
Phướn động. Sự hiện hữu của Gió động hay Phướn động ở đây chỉ là cái bóng
của vọng tâm (hữu tâm) áp đặt lên chúng chứ cũng chưa phải là vọng tâm (
Cái tâm động (vọng tâm) này, thật ra ở đây chúng cũng chưa phải bộ mặt
thật của Bản lai diện mục của chúng ta, mà chúng mới chỉ được coi như là
phương pháp phương tiện dùng độc trị độc, chứ chưa phải là pháp Vô niệm
vượt thoát trong pháp môn dạy người của Lục tổ). Vậy ngay đến cái vọng tâm
chúng ta chưa nhận ra được chúng, huống chi là cái chân tâm của vọng (hữu
tâm) làm sao chúng ta nhận ra được? Đó là chúng ta chỉ mới đề cập đến vọng
và chân thuộc hữ-vô của hữu tâm mà thôi, chứ chưa nói đến cái Vô Tâm
vượt ra ngoài cái hữu-vô của ngôn ngữ biểu tượng, mà Lục Tổ đã đề cập
trong bài pháp thứ ba dạy người của Ngài qua pháp" Không hai" để nói lên
pháp " Vô niệm" hay" Vô tâm" sau này của ngài. Ở đây " tâm động" của hai
vị tăng chính là cái hữu tâm của vọng tâm, thuộc về "Hữu" đối lập với
"Vô" mà chính chúng ta không nhận ra, nên chúng đã bị bỏ qua và, bị quên
lãng để rồi chúng chạy theo cái bóng của chính nó ở bên ngoài qua các
duyên được biểu hiện tác dụng theo cái vị, và những tướng trạng sai biệt
được biểu hiện ra bên ngoài mà thôi, trong khi các pháp tự chúng bình đẳng
trong cái Tánh qua pháp không hai tức là Phật tánh.
Phật tánh này, chúng xa lià tất cả mọi quan niệm, mọi khái niệm, chúng
không lệ thuộc vào pháp nhị nguyên nhân quả. Vì pháp nhân quả nhị nguyên
chúng nói lên tánh cách lệ thuộc trói buộc vào nhau, theo đó quả luôn luôn
tùy thộc vào nhân mà hiện hữu. Sự hiện hữu này nói lên tánh cách mất tự
tại của các pháp đối với sự giải thoát mà chính đức đạo sư đã từng xiển
dương. Do đó, tánh không hai ở đây mang một ý nghĩa vượt thoát không còn
lệ thuộc vào các pháp mặc dù chúng đang thể hiện cái dụng với nhau. Sự
vượt thoát này chúng được sử dụng một cách tự tại vô ngại vào bất cứ lúc
nào, bất cứ nơi đâu. Tánh không hai này cũng gọi là Phật tánh. Phật tánh
này chúng ta cần phải thấy (kiến), như ngài đã dạy ở trên qua việc Hoàng
Mai truyền dạy như thế nào khi Ấn Tông hỏi. Ngài bảo: "Truyền dạy thì
không, nhưng chỉ luận về thấy tánh, chứ chẳng luận về thiền định hay giải
thóat" vì thiền định và giải thoát cũng chỉ là một mặt của pháp nhị nguyên
nhân hay quả mà thôi. Ở đây, bất cứ pháp nào còn bị lệ thuộc vào cái khác
đều không thể gọi là pháp không hai được, như thiện căn chẳng hạn, đức
Phật dạy: Một là thường còn, hai là vô thường; còn ngược lại Phật tánh
chẳng lệ thuộc vào thường hay vô thường. Cái nào còn lệ thuộc vào cái
khác, thì cái đó còn bị trói buộc dù là thường hằng hay đoạn diệt; ngược
lại cái nào không còn bị lệ thuộc vào cái khác thì cái đó được gọi là tự
tại giải thoát, là không hai, là Phật tánh.
Trên đây là ba bài pháp đầu tiên được ghi lại, sau khi Lục Tổ Đại sư đắc
pháp tại Hoàng Mai cho đến lúc ngài đắc giới (thọ giới Tỳ kheo) tại Đông
Sơn, ngoài ra còn những bài pháp tùy nghi khác, không được ghi lại trong
vòng mười lăm năm cùng ở với bọn thợ săn mà chúng ta không được biết. Qua
đây chúng báo hiệu cho chúng ta một phương pháp dạy người, nhằm vào cuộc
sống thực tiễn của môn nhân mà ngài khai triển. Pháp môn này, trước hết
ngài lập Vô-Niệm làm Tông, Vô-Tướng làm Thể, và Vô-Trụ làm Gốc như chín
phẩm cuối trong kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi. Đó chính là giai đoạn từ Đông
Sơn đến Tào Khê sau này đã được ngài thể hiện.
II. TỪ ĐÔNG SƠN
ĐẾN TÀO KHÊ
Sự
đắc giới của Lục tổ Đại sư tại Đông sơn, là một cái duyên trực tiếp, để
đưa đến việc truyền pháp Đốn giáo, mở đầu cho một khuynh hướng thực tiễn
mang đậm màu sắc Trung hoa sau này. Giờ đây, ngài đã trở thành vị tổ thứ
sáu, Thiền phái Đốn ngộ phương nam, của hai phái nam-bắc vào lúc bấy giờ,
và chúng đã trở thành một trở ngại cho những người đi sau, như chính trong
phẩm thứ tám Đốn-Tiê? của PHÁP BẢO ĐÀN đã đề cập:
"
Lúc bấy giờ, cả hai tông đều thạnh hành, nên phân ra hai phái ‘Đốn-Tiệm’
khiến người học Đạo không biết theo đâu."
Thật ra pháp chỉ có một chứ không hai, nhưng vì căn cơ chúng sanh có chậm
có nhanh, có sáng có tối, có thông minh có ngu si, nên pháp cũng rtùy
thuộc vào căn cơ đó mà có Đốn-Tiệm để phù hợp với kiến giải của mỗi người.
Sự kiện này được thể hiện qua hai phương pháp tu hành hòan tòan đối nghịch
nhau, qua cuộc tiếp xúc giữa Lục tổ và người đệ tử thông minh nhiều trí
của ngài Thần Tú là Chí Thành, là một đơn cử cụ thể cho hai pháp này:
"
Sư bảo:
Thầy nhà ngươi dạy chúng như thế nào?
Thưa:
Thầy thường dạy chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không nằm.
Sư
bảo:
Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chẳng phải Thiền. Ngồi mãi bó thân, đối với lý
chả có ích gì … Ta nghe nói thầy của nhà ngươi dạy Giới-Định-Tuệ cho mọi
người, nhưng ta chưa rõ hành tướng của Giới-Định-Tuệ như thế nào? Nói cho
ta nghe coi.
Thành thưa, Tú đại sư dạy rằng:
"Các điều ác không làm là Giới
Các điều lành vâng làm là Tuệ
Tự sạch tâm ý mình là Định."
Ngài dạy như vậy, không rõ Hòa thượng dùng pháp gì để dạy mọi người? …
Hãy nghe bài kệ của ta:
"Tâm địa không tà là Giới tự tánh
Tâm địa không mê là Tuệ tự tánh
Tâm địa không lọan là Định tự tánh
Không thêm không bớt là Kim cương
Thân đến hay đi là Tam muội."
Chỉ cần qua hai bài kệ này, chúng ta cũng có thể xác định được phương pháp
tu của hai vị Tổ sư này. Ở đây, một bên đứng trên mặt tướng mà lập cước,
và mặt kia lại đứng trên tự tánh mà thể hiện. Do đó, dù muốn dù không đi
nữa, chúng ta không thể phủ nhận sự sai biệt trên lập trường về
Giới-Định-Tuệ của hai ngài, mà qua đó chúng lệ thuộc vào căn cơ của người
được tiếp dộ. Chính Lục tổ dạy:
"
Giới-Định-Tuệ của thầy nhà ngươi dạy, chỉ để tiếp độ người Đại thừa, còn
Giới-Định-Tuệ của ta dạy, là để tiếp độ những bậ Tối thượng thừa. Sở dĩ
ngộ-giải không đồng, vì kiến giải có chậm có nhanh. Nhà ngươi thấy ta nói
có giống thầy nhà ngươi không? Ta nói pháp không lìa tự tánh. Nếu lìa bản
thể mà nói pháp, tức chỉ nói đến hiện tướng, còn tự tánh vẫn mê. Phải biết
muôn pháp, tất cả đều tự tự tánh mà khởi lên hiện tượng tác dụng, đó là
pháp Giới-Định-Tuệ chân thật."
Đây chính là tư tưởng chỉ đạo mấu chốt, để đưa đến pháp dạy người qua "Vô
niệm" của ngài. Tuy ngài đã từng bảo: " Nếu bảo rằng ta có pháp để trao
cho người, thì ra ta nói dối với ngươi. Nhưng ta tùy theo chỗ trói buộc mà
mở trói, tạm gọi là Tam muội." Tam muội ở đây, chính là pháp Vô niệm của
Lục tổ. Từ tự tánh khởi lên (Vô niệm) hiện tượng tác dụng để muôn pháp
hiện hữu trong cái Tam muội Vô niệm ấy. Đây chính là sự thể hiện của tự
tánh qua thật tướng của muôn pháp, mà Vô niệm chính là con đường Trung đạo
để hành giả thể hiện bước đi của mình. trong phẩm Định-Tuệ thứ tư, Lục tổ
đã thể hiện con đường này qua Định-Tuệ, Sư dạy chúng:
"
Thiện tri thức! Pháp môn này của ta lấy Định-Tuệ làm gốc. Đại chúng chớ
lầm bảo rằng Định-tuệ khác nhau. Định-tuệ cùng một thể chẳng phải hai.
Định tlà Thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định. Khi có tuệ thì định ở trong
tuệ, khi đã có định thì tuệ ở trong định. Nếu biết được nghĩa này thì
Định-Tuệ cùng học."
Con đường này vượt qua khỏi con đường nhân quả của Giới-Định-Tuệ. Ở đây,
không còn có việc ‘ nhân Giới sanh Định, nhân Định phát tuệ’ mà chúng được
thể hiện qua định thức Duyên khởi "cái này có thì cái kia có, cái này
không thì cái kia không, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì
cái kia diệt." Đây là con đường của hiện khởi tùy duyên. Nơi nào có Giới
thì nơi đó có Định-tuệ, nơi nào có Định thì nơi đó có Giới-tuệ, nơi nào có
Tuệ thì nơi đó có Giới-định. Sự hiện hữu của chúng cùng lúc bắt đầu và
chung cuộc. Sự hiện hữu của chúng luôn luôn tùy thuộc tất yếu vào nhau,
không có cái nào trước, cái nào sau cả.
Ở
đây, chúng ta nếu muốn tìm hiểu, phân tích chúng, thì sẽ không đạt được
những gì mà chúng ta muốn. Bỡi vì chúng luôn luôn sống động và biến dịch
theo duyên, do đó chúng ta bắt chúng dừng lại, rồi cắt xén chúng thành
những mảnh vụn manh mún, trong cái dòng biến dịch sống động này, để định
nghĩa tìm hiểu, thì những mảnh vụn bị chúng ta cắt ra đó, trươc hết chúng
là những sự kiện hiện thực chết, bất động, không hồn; sau nữa chúng không
mang bất cứ một ý nghĩa nào của dòng sống, vì chúng đang bị cô lập, đang
bị cắt xén, đang bị phân hủy. Chúng không còn là cái Đang-là của dòng biến
dịch luôn luôn mới toanh này. Cho dù chúng ta đứng trên một giả lập tương
đối, mang tính phổ quát đối với thời gian, mà tìm hiểu hay phân tích đi
chăng nữa, chúng đã được giả định tùy thuộc vào nhau trong một cái tòan
thể nhất định như vấn đề: " Định là thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định"
chẳng hạn, chứ không phải là cái riêng rẽ. Thật ra ở đây, vì đứng trên mặt
tương đối của ngôn ngữ nên có sự liên hệ Duyên khởi của Thể và Dụng vậy
thôi. Nhưng nếu đứng trên mặt tòan thể, thì chúng chỉ là một, không hai
không khác. đây chính là sự liên hệ mấu chốt, làm cơ bản nền tảng cho pháp
dạy người của Lục tổ Đại sư qua pháp môn "Vô niệm" của ngài.
"Thiện tri thức! Pháp môn này của ta từ trên xuống dưới, trước hết lập Vô
niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc."
Pháp môn này là con đường Trung đạo, theo đó Vô niệm được coi như là một
phương pháp vượt thóat giữa những đối cực của cuộc sống. Chúng vượt qua
khỏi mọi hệ thống tương đối có giá trị trên mặt nhân quả, để từ đó tạo cho
hành giả một bước đi mới qua tùy duyên, không can hệ lệ thuộc vào các đối
cực lưỡng biên tà kiến. Ở đây, chúng tôi hơi dài dòng một tí, là phải
trích dẫn những gì mà chính ngài đã dạy về con đường Vô niệm Trung đạo
này, mặc dù ngài có đề cập đến Vô tướng, Vô trụ. Nhưng điều này chúng chỉ
làm sáng tỏ thêm sự thể hiện Vô niệm ở trong chúng, để tùy thuộc vào
Thể-tướng-dụng mà qua đó chúng đã thể hiện theo duyên thôi.
"
Vô tướng là ở trong niệm mà không niệm. Vô trụ nghĩa là bản tánh của con
người đối với những việc thiện ác, tốt xấu cho đến kẻ oán người thân ở thê
gian; hoặc khi nói năng xúc phạm, khinh khi tranh chấp, đều coi như không,
chẳng nghĩ đến việc trả thù hại người. Từng niệ không nghĩ đến những cảnh
đã qua. Nếu niệm trước đến niệm này qua niệm sau, mà niệm nối tiếp nhau
không dứt, đó gọi là trói buộc. Đối với các pháp, niệm-niệm không trói
buộc, vì vậy nên lấy Vô trụ làm gốc là vậy.
"
Thiện tri thức! Bên ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng. Lìa khỏi tướng
thì Thể pháp thanh tịnh, vì thế nên lấy Vô tướng làm Thể.
"
Thiện tri thức! Đối với các cảnh, tâm không đắm nhiễm, thì gọi là Vô niệm
…
"
Thiện tri thức! Vì sao lập Vô niệm làm Tông? Vì người mê miệng chỉ biết
nói thấy tánh, nhưng đối với cảnh thì sanh vọng niệm. Từ vọng niệm khởi
lên tà kiến, rồi từ đó tất cả những trần lao vọng tưởng sinh ra. Tự tánh
vốn không có một pháp nào để được. Nếu có đạt được thì đó cũng chỉ là thứ
họa phước phịa nói mà thôi. Đó chính là trần lao tà kiến, cho nên pháp môn
này lập Vô niệm làm Tông."
Qua pháp môn lấy Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc, Lục
tổ nói lên được tác dụng của Thể-Dụng nhiệm mầu của các pháp, mà ở đó
chúng tùy theo duyên mà thể hiện. Từ đây mọi hiện tượng tác dụng đều khởi
lên từ tự tánh, do đó mọi hiện tượng đều mang vào chúng một toàn thể vô
phân biệt, vô chấp. Những tác dụng ở đây tự tại, thông suốt, không bị trói
buộc. Đây là hiệu quả tác dụng của con đường Trung đạo Vô niệm thể hiện.
Con đường này đã được Lục tổ diễn tả như sau:
"
Thiện tri thức! Vô là Vô cái gì? Niệm là niệm vật chi? Vô là không có hai
tướng, không có những tâm trần lao. Niệm là niệm bổn tánh chân như. Chân
như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như. Tự tánh chân như khởi
niệm, chứ không phải mắt, tai, mũi, lưỡi khởi niệm. Vì chân như có tánh
nên khởi niệm, nếu chân như không có tánh thì mắt, tai, màu sắc, âm thinh
sẽ bị hoại tức khắc.
"
Thiện tri thức! Khi tự tánh chân như khởi niệm, thì sáu căn có thấy, nghe,
hiểu biết, nhưng vẫn không nhiễm vào muôn cảnh. Vì tánh chân như luôpn
luôn tự tại, nên kinh dạy: Thường khéo phân biệt các pháp, nhưng đối với
Đệ nhất nghĩa vẫn bất động."
Hay trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ cũng đề cập đến vấn đề này. Để làm
sáng tỏ và dễ hiểu hơn Lục tổ tự đặt vấn đề đối với Vô niệm và tự trả
lời.
"
Sao gọi là Vô niệm? Là thấy tất cả mọi pháp mà tâm không đắm nhiễm, thì đó
gọi là Vô niệm. Nó diệu dụng khắp nơi, nhưng không dính mắc vào bất cứ chỗ
nào. Chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức khi tiếp xúc với sáu trần
qua sáu căn không bị tạp nhiễm, đến đi tự do, thể dụng không vướng mắc. Đó
là Bát nhã tam muội tự tại giải thoát, cũng gọi là hạnh Vô niệm. Nếu trăm
việc không nghĩ tới, thì sẽ khiến cho niệm mất. Như thế là pháp bị trói
buộc buộc, gọi là thấy một bên."
Qua cách đặt vấn đề này, Lục tổ cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Vô
niệm, mà ngài sợ rằng mọi người sẽ hiểu lầm về từ Vô niệm này. Vì đứng về
mặt tích cực tác động hiện tượng, hình như chúng không có bất cứ một giá
trị hết ngoài vấn đề phủ nhận. Nhưng đứng về mặt tiêu cực chúng đang hình
thành một tác động vượt thoát, mà ở đó chúng đang tác động tối đa cho bước
đi tự tại của mỗi chúng ta. Vô niệm ở đây hoàn toàn không có nghĩa là
không nghĩ gì hết, mà ngược lại ở đây cái nghĩ luôn luôn vẫn hiện hữu,
nhưng không chấp vào bất cứ đối tượng nào trong cũng như ngoài. Cái hiện
hữu ở đây tùy duyên, nhưng không trụ vào duyên, vì vậy mà chúng trở thành
tự tại trong dòng biến dịch của các pháp. Theo ngài nếu trăm việc không
nghĩ tới thì khiến cho niệm mất, như vậy thì chúng rơi vào pháp trói buộc
của đoạn diệt, cũng gọi là cái thấy một bên. Trong phẩm thứ hai Bát nhã,
Lục tổ viết:
"
Thiện tri thức! Nếu dùng trí tuệ quán chiếu thì sẽ thấu triệt rõ ràng
trong ngoài, và tự biết bổn tâm. Khi đã biết bổn tâ thì đó là nền tảng của
giải thoát. Nếu đã được giải thoát tức là đã đạt được Bát nhã tam muội, đó
là Vô niệm."
Ở
đây, theo Lục tổ thì Bát nhã tam muội chính là Vô niệm, là giải thoát, là
mở trói. Từ đó cho chúng ta một cái nhìn căn để hơn về một nền tảng giải
thoát, mà ở đó không có bất cứ một sai biệt nào giữa Giới-Định-Tuệ, khi
con đường Trung đạo Vô niệm được thể hiện. Vì Giới-Định-Tuệ có được chỉ
tùy thuộc vào giá trị nhân quả, trong khi Vô niệm không tùy thuộc vào bất
cứ giá trị nhân quả nào. Cho dù trên mặt tướng trạng tạm phân biệt để đánh
giá nó một cách tạ thời qua Thể-Tướng-Dụng đi nữa, thì sự đánh giá này vẫn
tùy thuộc vào các duyên. Khi các pháp còn lệ thuộc vào nhau để hiện hữu,
thì pháp này được giáng xuống hàng giá trị nhân quả trói buộc, chưa phải
là giải thoát.
Tóm lại con đường Vô niệm Trung đạo là con đường tóm thâu tất cả mọi con
đường trong PHÁP BẢO ĐÀN kinh, qua đó được phân chia thành mười chương.
Trong mười chương này Lục tổ có đề cập đến nhiều vấn đề để khế hợp với
từng căn cơ hành giả, nhưng trên thực tế chúng vẫn qui về một mối, đó là
con dường Trung đạo Vô niệm vượt thoát, được thể hiện trong từng bước đi
của mỗi môn nhơn đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
I. TỪ HOÀNG MAI
ĐẾN ĐÔNG SƠN.
Sau khi Lục tổ
Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng mai, cho đến ngày đắc Giới
tại Đông sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn.
Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại
sư , là bài pháp nảy sanh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng
trước lòng ngoa ngụy của con người, vào lúc đó Lục tổ không thể chối từ
được (vì trước đó Lục tổ đã được Ngũ tổ dặn dò trước khi ra khỏi Hoàng
mai, là không được vội vàng nói pháp cho bất cứ ai, vì sợ rằng Phật pháp
khó hưng thịnh sau này).
Bài pháp đầu tiên
này nói ra để độ cho kẻ đang muốn đoạt y-bát và ngay cả mạng sống của mình
với bất cứ giá nào! Điều đó đã chứng tỏ được lòng vô úy và từ bi của người
như thế nào rồi. Qua đây Huệ Minh đã nhìn lại được Bản lai diện mục của
chính mình qua việc :" Không nghĩ thiện không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì
là bản lai diện mục của Huệ Minh thượng tọa?" (Pháp Bảo Đàn).
Ngoài bài pháp
đầu tiên dành cho Huệ Minh thượng tọa trên bước đường lẫn tránh vào nam,
và những bài pháp mà Lục tổ Đại sư đã phương tiện tùy nghi nói cho bọn thợ
săn trong vòng mười lăm năm không ghi chép lại, còn có hai bài pháp nữa đó
là bài " Tâm động" và " Pháp không hai". Đây là hai bài pháp mở đầu cho sự
xuất hiện sau này của Lục tổ Đại sư khi ra dạy người, và cũng là hai bài
pháp trực tiếp đưa đến việc đắc Giới tại Đông sơn của người. Trong kinh
Pháp Bảo Đàn, phần cuối của phẩm Hành Do viết:
" Một hôm Lục Tổ
suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh mãi được, liền đi
đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng
kinh Niết bàn.
Lúc bấy giờ, gió
thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo rằng gió động, một vị tăng khác
bảo là phướn động, tranh luận nhau mãi. Huệ Năng bước đến bảo rằng:
Chẳng phải gió
động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm hai nhân giả động đó! Cả
chúng đều giật mình.
Ấn Tông mời lên
chỗ cao ngồi và, gạn hỏi nghĩa lý sâu xa. Thấy lời đối đáp của Huệ Năng
đơn giản, nhưng nghĩa lý lại chính xác, mà không theo văn tự cú pháp nào.
Tông nói:
- Hành giả nhất
định không phải là người thường. Từ lâu đã nghe Y-pháp của Hoàng Mai
truyền vào phương nam, chẳng phải là hành giả thì ai đây?
Huệ Năng nói:
- Chẳng dám!
Tông liền làm lễ,
và xin cho đại chúng được xem Y-bát truyền lại.
Tông hỏi:
- Khi phó chúc
Hoàng Mai truyền dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
Truyền dạy thì
không, nhưng chỉ luận về "thấy tánh" chứ chẳng luận về thiền định hay giải
thoát gì cả.
Tông hỏi:
- Tại sao không
luận về thiền định hay giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì hai pháp
chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
- Sao gọi pháp
không hai là Phật pháp?
Huệ Năng nói:
- Pháp sư giảng
kinh Niết bàn đã làm rõ Phật tánh, thì đó chính là pháp không hai của Phật
pháp. Như Bồ tát Cao quí Đức vương bạch Phật :
- Người phạm vào
cấm giới thuộc Bốn tội nặng, tạo Năm tội nghịch cùng bọn Nhất xiển đề thì
Phật tánh thiện căn của họ có bị đoạn mất không?
Phật dạy:
- Thiện căn có
hai: Một là thường, hai là vô thường; còn Phật tánh thì chẳng phải thường,
chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn, đó gọi là không hai. Một là
thiện hai là bất thiện, còn Phật tánh chẳng phải thiện chẳng phải bất
thiện, đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người trí liễu
đạt tánh của chúng không hai, tánh không hai là Phật tánh.
Ấn Tông nghe xong
nói:
- Tôi giảng kinh
như gạch ngói, còn nhân giả luận nghĩa như vàng ròng.
Nhân đây xuống
tóc cho Huệ Năng và nguyện thờ làm thầy. Huệ Năng liền mở pháp môn Đông
Sơn dưới cây Bồ đề".
Qua ba bài pháp
này, ở đây thứ nhất Huệ Minh thượng tọa đã ngộ được cái chi ngay lúc
"không nghĩ thiện không nghĩ ác"? Đây phải chăng là bài pháp báo hiệu
mở đầu cho phương pháp dạy người sau này qua "Vô niệm" của người để qua đó
nhận ra ngay cái bản lai diê? mục của mỗi chúng ta trong cuộc sống. Đây
là cách thể hiện Tông chỉ của Bồ Đề Đạt ma qua "Trực chỉ nhơn tâm kiến
tánh thành Phật" theo thể điệu và phương pháp thực tiễn của người Trung
hoa đối với cuộc sống. Sự thể hiện này, được áp dụng ngay trong bài pháp
thứ hai khi Lục tổ ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu nhân gặp hai vị Tăng
đang tranh luận về "Gió động hay Phướn động". Một câu trả lời mới nghe ra
như là đơn giản, nhưng đã đánh động làm chao đảo tận nguồn gốc tâm thức
mọi người.
Ở đây, gió động
hay phướn động? Tất cả đều là cảnh ngoài, chúng không có bất cứ giá trị
thực hữu nào, vì chúng không can hệ gì đến chúng ta. Chúng chỉ có giá trị
được khi tâm chúng ta khởi lên tác ý và, chúng được vọng tâm của chúng ta
áp đặt lên chúng những gía trị mà chúng không bao giờ có. Do đó, chúng trở
nên là thật có đối với một tâm hồn mê mờ mà thôi, trên thực tế chúng chỉ
là những chiếc bóng không thật. Qua đây rõ ràng chúng ta đã tự đánh mất
bổn tâm, đã tự vong thân chấp vào những pháp giả huyễn không thật có ở bên
ngoài cho là thực hữu, và vì vậy cho nên có Gió động hay Phướn động. Sự
hiện hữu của Gió động hay Phướn động ở đây chỉ là cái bóng của vọng tâm
(hữu tâm) áp đặt lên chúng chứ cũng chưa phải là vọng tâm ( Cái tâm động
(vọng tâm) này, thật ra ở đây chúng cũng chưa phải bộ mặt thật của Bản lai
diện mục của chúng ta, mà chúng mới chỉ được coi như là phương pháp phương
tiện dùng độc trị độc, chứ chưa phải là pháp Vô niệm vượt thoát trong pháp
môn dạy người của Lục tổ). Vậy ngay đến cái vọng tâm chúng ta chưa nhận ra
được chúng, huống chi là cái chân tâm của vọng (hữu tâm) làm sao chúng ta
nhận ra được? Đó là chúng ta chỉ mới đề cập đến vọng và chân thuộc hữ-vô
của hữu tâm mà thôi, chứ chưa nói đến cái Vô Tâm vượt ra ngoài cái hữu-vô
của ngôn ngữ biểu tượng, mà Lục Tổ đã đề cập trong bài pháp thứ ba dạy
người của Ngài qua pháp" Không hai" để nói lên pháp " Vô niệm" hay" Vô
tâm" sau này của ngài. Ở đây " tâm động" của hai vị tăng chính là cái hữu
tâm của vọng tâm, thuộc về "Hữu" đối lập với "Vô" mà chính chúng ta không
nhận ra, nên chúng đã bị bỏ qua và, bị quên lãng để rồi chúng chạy theo
cái bóng của chính nó ở bên ngoài qua các duyên được biểu hiện tác dụng
theo cái vị, và những tướng trạng sai biệt được biểu hiện ra bên ngoài mà
thôi, trong khi các pháp tự chúng bình đẳng trong cái Tánh qua pháp không
hai tức là Phật tánh.
Phật tánh này,
chúng xa lià tất cả mọi quan niệm, mọi khái niệm, chúng không lệ thuộc vào
pháp nhị nguyên nhân quả. Vì pháp nhân quả nhị nguyên chúng nói lên tánh
cách lệ thuộc trói buộc vào nhau, theo đó quả luôn luôn tùy thộc vào nhân
mà hiện hữu. Sự hiện hữu này nói lên tánh cách mất tự tại của các pháp đối
với sự giải thoát mà chính đức đạo sư đã từng xiển dương. Do đó, tánh
không hai ở đây mang một ý nghĩa vượt thoát không còn lệ thuộc vào các
pháp mặc dù chúng đang thể hiện cái dụng với nhau. Sự vượt thoát này chúng
được sử dụng một cách tự tại vô ngại vào bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.
Tánh không hai này cũng gọi là Phật tánh. Phật tánh này chúng ta cần phải
thấy (kiến), như ngài đã dạy ở trên qua việc Hoàng Mai truyền dạy như thế
nào khi Ấn Tông hỏi. Ngài bảo: "Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về
thấy tánh, chứ chẳng luận về thiền định hay giải thóat" vì thiền định và
giải thoát cũng chỉ là một mặt của pháp nhị nguyên nhân hay quả mà thôi. Ở
đây, bất cứ pháp nào còn bị lệ thuộc vào cái khác đều không thể gọi là
pháp không hai được, như thiện căn chẳng hạn, đức Phật dạy: Một là thường
còn, hai là vô thường; còn ngược lại Phật tánh chẳng lệ thuộc vào thường
hay vô thường. Cái nào còn lệ thuộc vào cái khác, thì cái đó còn bị trói
buộc dù là thường hằng hay đoạn diệt; ngược lại cái nào không còn bị lệ
thuộc vào cái khác thì cái đó được gọi là tự tại giải thoát, là không hai,
là Phật tánh.
Trên đây là ba
bài pháp đầu tiên được ghi lại, sau khi Lục Tổ Đại sư đắc pháp tại Hoàng
Mai cho đến lúc ngài đắc giới (thọ giới Tỳ kheo) tại Đông Sơn, ngoài ra
còn những bài pháp tùy nghi khác, không được ghi lại trong vòng mười lăm
năm cùng ở với bọn thợ săn mà chúng ta không được biết. Qua đây chúng báo
hiệu cho chúng ta một phương pháp dạy người, nhằm vào cuộc sống thực tiễn
của môn nhân mà ngài khai triển. Pháp môn này, trước hết ngài lập Vô-Niệm
làm Tông, Vô-Tướng làm Thể, và Vô-Trụ làm Gốc như chín phẩm cuối trong
kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi. Đó chính là giai đoạn từ Đông Sơn đến Tào Khê
sau này đã được ngài thể hiện.
II. TỪ ĐÔNG SƠN
ĐẾN TÀO KHÊ
Sự đắc giới của
Lục tổ Đại sư tại Đông sơn, là một cái duyên trực tiếp, để đưa đến việc
truyền pháp Đốn giáo, mở đầu cho một khuynh hướng thực tiễn mang đậm màu
sắc Trung hoa sau này. Giờ đây, ngài đã trở thành vị tổ thứ sáu, Thiền
phái Đốn ngộ phương nam, của hai phái nam-bắc vào lúc bấy giờ, và chúng đã
trở thành một trở ngại cho những người đi sau, như chính trong phẩm thứ
tám Đốn-Tiê? của PHÁP BẢO ĐÀN đã đề cập:
“ Lúc bấy giờ, cả
hai tông đều thạnh hành, nên phân ra hai phái ‘Đốn-Tiệm’ khiến người học
Đạo không biết theo đâu.”
Thật ra pháp chỉ
có một chứ không hai, nhưng vì căn cơ chúng sanh có chậm có nhanh, có sáng
có tối, có thông minh có ngu si, nên pháp cũng rtùy thuộc vào căn cơ đó mà
có Đốn-Tiệm để phù hợp với kiến giải của mỗi người. Sự kiện này được thể
hiện qua hai phương pháp tu hành hòan tòan đối nghịch nhau, qua cuộc tiếp
xúc giữa Lục tổ và người đệ tử thông minh nhiều trí của ngài Thần Tú là
Chí Thành, là một đơn cử cụ thể cho hai pháp này:
“ Sư bảo:
Thầy nhà ngươi
dạy chúng như thế nào?
Thưa:
Thầy thường dạy
chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không nằm.
Sư bảo:
Trụ tâm quán tĩnh
là bệnh chẳng phải Thiền. Ngồi mãi bó thân, đối với lý chả có ích gì … Ta
nghe nói thầy của nhà ngươi dạy Giới-Định-Tuệ cho mọi người, nhưng ta chưa
rõ hành tướng của Giới-Định-Tuệ như thế nào? Nói cho ta nghe coi.
Thành thưa, Tú
đại sư dạy rằng:
“Các điều ác không làm là Giới
Các điều lành vâng làm là Tuệ
Tự sạch tâm ý mình là Định.”
Ngài dạy như vậy,
không rõ Hòa thượng dùng pháp gì để dạy mọi người? …
Hãy nghe bài kệ
của ta:
“Tâm địa không tà là Giới tự tánh
Tâm địa không mê là Tuệ tự tánh
Tâm địa không lọan là Định tự tánh
Không thêm không bớt là Kim cương
Thân đến hay đi là Tam muội.”
Chỉ cần qua hai
bài kệ này, chúng ta cũng có thể xác định được phương pháp tu của hai vị
Tổ sư này. Ở đây, một bên đứng trên mặt tướng mà lập cước, và mặt kia lại
đứng trên tự tánh mà thể hiện. Do đó, dù muốn dù không đi nữa, chúng ta
không thể phủ nhận sự sai biệt trên lập trường về Giới-Định-Tuệ của hai
ngài, mà qua đó chúng lệ thuộc vào căn cơ của người được tiếp dộ. Chính
Lục tổ dạy:
“
Giới-Định-Tuệ
của thầy nhà ngươi dạy, chỉ để tiếp độ người Đại thừa, còn Giới-Định-Tuệ
của ta dạy, là để tiếp độ những bậ Tối thượng thừa. Sở dĩ ngộ-giải không
đồng, vì kiến giải có chậm có nhanh. Nhà ngươi thấy ta nói có giống thầy
nhà ngươi không? Ta nói pháp không lìa tự tánh. Nếu lìa bản thể mà nói
pháp, tức chỉ nói đến hiện tướng, còn tự tánh vẫn mê. Phải biết muôn pháp,
tất cả đều tự tự tánh mà khởi lên hiện tượng tác dụng, đó là pháp
Giới-Định-Tuệ chân thật.”
Đây chính là tư
tưởng chỉ đạo mấu chốt, để đưa đến pháp dạy người qua “Vô niệm” của ngài.
Tuy ngài đã từng bảo: “ Nếu bảo rằng ta có pháp để trao cho người, thì ra
ta nói dối với ngươi. Nhưng ta tùy theo chỗ trói buộc mà mở trói, tạm gọi
là Tam muội.” Tam muội ở đây, chính là pháp Vô niệm của Lục tổ. Từ tự tánh
khởi lên (Vô niệm) hiện tượng tác dụng để muôn pháp hiện hữu trong cái Tam
muội Vô niệm ấy. Đây chính là sự thể hiện của tự tánh qua thật tướng của
muôn pháp, mà Vô niệm chính là con đường Trung đạo để hành giả thể hiện
bước đi của mình. trong phẩm Định-Tuệ thứ tư, Lục tổ đã thể hiện con đường
này qua Định-Tuệ, Sư dạy chúng:
“ Thiện tri thức!
Pháp môn này của ta lấy Định-Tuệ làm gốc. Đại chúng chớ lầm bảo rằng
Định-tuệ khác nhau. Định-tuệ cùng một thể chẳng phải hai. Định tlà Thể của
Tuệ, Tuệ là Dụng của Định. Khi có tuệ thì định ở trong tuệ, khi đã có định
thì tuệ ở trong định. Nếu biết được nghĩa này thì Định-Tuệ cùng học.”
Con đường này
vượt qua khỏi con đường nhân quả của Giới-Định-Tuệ. Ở đây, không còn có
việc ‘ nhân Giới sanh Định, nhân Định phát tuệ’ mà chúng được thể hiện qua
định thức Duyên khởi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia
không, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt.” Đây
là con đường của hiện khởi tùy duyên. Nơi nào có Giới thì nơi đó có
Định-tuệ, nơi nào có Định thì nơi đó có Giới-tuệ, nơi nào có Tuệ thì nơi
đó có Giới-định. Sự hiện hữu của chúng cùng lúc bắt đầu và chung cuộc. Sự
hiện hữu của chúng luôn luôn tùy thuộc tất yếu vào nhau, không có cái nào
trước, cái nào sau cả.
Ở đây, chúng ta
nếu muốn tìm hiểu, phân tích chúng, thì sẽ không đạt được những gì mà
chúng ta muốn. Bỡi vì chúng luôn luôn sống động và biến dịch theo duyên,
do đó chúng ta bắt chúng dừng lại, rồi cắt xén chúng thành những mảnh vụn
manh mún, trong cái dòng biến dịch sống động này, để định nghĩa tìm hiểu,
thì những mảnh vụn bị chúng ta cắt ra đó, trươc hết chúng là những sự kiện
hiện thực chết, bất động, không hồn; sau nữa chúng không mang bất cứ một ý
nghĩa nào của dòng sống, vì chúng đang bị cô lập, đang bị cắt xén, đang bị
phân hủy. Chúng không còn là cái Đang-là của dòng biến dịch luôn luôn mới
toanh này. Cho dù chúng ta đứng trên một giả lập tương đối, mang tính phổ
quát đối với thời gian, mà tìm hiểu hay phân tích đi chăng nữa, chúng đã
được giả định tùy thuộc vào nhau trong một cái tòan thể nhất định như vấn
đề: “ Định là thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định” chẳng hạn, chứ không phải
là cái riêng rẽ. Thật ra ở đây, vì đứng trên mặt tương đối của ngôn ngữ
nên có sự liên hệ Duyên khởi của Thể và Dụng vậy thôi. Nhưng nếu đứng trên
mặt tòan thể, thì chúng chỉ là một, không hai không khác. đây chính là sự
liên hệ mấu chốt, làm cơ bản nền tảng cho pháp dạy người của Lục tổ Đại sư
qua pháp môn “Vô niệm” của ngài.
“Thiện
tri thức! Pháp môn này của ta từ trên xuống dưới, trước hết lập Vô niệm
làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc.”
Pháp môn này là
con đường Trung đạo, theo đó Vô niệm được coi như là một phương pháp vượt
thóat giữa những đối cực của cuộc sống. Chúng vượt qua khỏi mọi hệ thống
tương đối có giá trị trên mặt nhân quả, để từ đó tạo cho hành giả một bước
đi mới qua tùy duyên, không can hệ lệ thuộc vào các đối cực lưỡng biên tà
kiến. Ở đây, chúng tôi hơi dài dòng một tí, là phải trích dẫn những gì mà
chính ngài đã dạy về con đường Vô niệm Trung đạo này, mặc dù ngài có đề
cập đến Vô tướng, Vô trụ. Nhưng điều này chúng chỉ làm sáng tỏ thêm sự thể
hiện Vô niệm ở trong chúng, để tùy thuộc vào Thể-tướng-dụng mà qua đó
chúng đã thể hiện theo duyên thôi.
“ Vô tướng là ở
trong niệm mà không niệm. Vô trụ nghĩa là bản tánh của con người đối với
những việc thiện ác, tốt xấu cho đến kẻ oán người thân ở thê gian; hoặc
khi nói năng xúc phạm, khinh khi tranh chấp, đều coi như không, chẳng nghĩ
đến việc trả thù hại người. Từng niệ không nghĩ đến những cảnh đã qua. Nếu
niệm trước đến niệm này qua niệm sau, mà niệm nối tiếp nhau không dứt, đó
gọi là trói buộc. Đối với các pháp, niệm-niệm không trói buộc, vì vậy nên
lấy Vô trụ làm gốc là vậy.
“ Thiện tri thức!
Bên ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng. Lìa khỏi tướng thì Thể pháp
thanh tịnh, vì thế nên lấy Vô tướng làm Thể.
“ Thiện tri thức!
Đối với các cảnh, tâm không đắm nhiễm, thì gọi là Vô niệm …
“ Thiện tri thức!
Vì sao lập Vô niệm làm Tông? Vì người mê miệng chỉ biết nói thấy tánh,
nhưng đối với cảnh thì sanh vọng niệm. Từ vọng niệm khởi lên tà kiến, rồi
từ đó tất cả những trần lao vọng tưởng sinh ra. Tự tánh vốn không có một
pháp nào để được. Nếu có đạt được thì đó cũng chỉ là thứ họa phước phịa
nói mà thôi. Đó chính là trần lao tà kiến, cho nên pháp môn này lập Vô
niệm làm Tông.”
Qua pháp môn lấy
Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc, Lục tổ nói lên được
tác dụng của Thể-Dụng nhiệm mầu của các pháp, mà ở đó chúng tùy theo duyên
mà thể hiện. Từ đây mọi hiện tượng tác dụng đều khởi lên từ tự tánh, do đó
mọi hiện tượng đều mang vào chúng một toàn thể vô phân biệt, vô chấp.
Những tác dụng ở đây tự tại, thông suốt, không bị trói buộc. Đây là hiệu
quả tác dụng của con đường Trung đạo Vô niệm thể hiện. Con đường này đã
được Lục tổ diễn tả như sau:
“ Thiện tri thức!
Vô là Vô cái gì? Niệm là niệm vật chi? Vô là không có hai tướng, không có
những tâm trần lao. Niệm là niệm bổn tánh chân như. Chân như là thể của
niệm, niệm là dụng của chân như. Tự tánh chân như khởi niệm, chứ không
phải mắt, tai, mũi, lưỡi khởi niệm. Vì chân như có tánh nên khởi niệm, nếu
chân như không có tánh thì mắt, tai, màu sắc, âm thinh sẽ bị hoại tức
khắc.
“ Thiện tri thức!
Khi tự tánh chân như khởi niệm, thì sáu căn có thấy, nghe, hiểu biết,
nhưng vẫn không nhiễm vào muôn cảnh. Vì tánh chân như luôpn luôn tự tại,
nên kinh dạy: Thường khéo phân biệt các pháp, nhưng đối với Đệ nhất nghĩa
vẫn bất động.”
Hay trong phẩm
thứ hai Bát nhã, Lục tổ cũng đề cập đến vấn đề này. Để làm sáng tỏ và dễ
hiểu hơn Lục tổ tự đặt vấn đề đối với Vô niệm và tự trả lời.
“ Sao gọi là Vô
niệm? Là thấy tất cả mọi pháp mà tâm không đắm nhiễm, thì đó gọi là Vô
niệm. Nó diệu dụng khắp nơi, nhưng không dính mắc vào bất cứ chỗ nào. Chỉ
cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức khi tiếp xúc với sáu trần qua sáu
căn không bị tạp nhiễm, đến đi tự do, thể dụng không vướng mắc. Đó là Bát
nhã tam muội tự tại giải thoát, cũng gọi là hạnh Vô niệm. Nếu trăm việc
không nghĩ tới, thì sẽ khiến cho niệm mất. Như thế là pháp bị trói buộc
buộc, gọi là thấy một bên.”
Qua cách đặt vấn
đề này, Lục tổ cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Vô niệm, mà ngài sợ
rằng mọi người sẽ hiểu lầm về từ Vô niệm này. Vì đứng về mặt tích cực tác
động hiện tượng, hình như chúng không có bất cứ một giá trị hết ngoài vấn
đề phủ nhận. Nhưng đứng về mặt tiêu cực chúng đang hình thành một tác động
vượt thoát, mà ở đó chúng đang tác động tối đa cho bước đi tự tại của mỗi
chúng ta. Vô niệm ở đây hoàn toàn không có nghĩa là không nghĩ gì hết, mà
ngược lại ở đây cái nghĩ luôn luôn vẫn hiện hữu, nhưng không chấp vào bất
cứ đối tượng nào trong cũng như ngoài. Cái hiện hữu ở đây tùy duyên, nhưng
không trụ vào duyên, vì vậy mà chúng trở thành tự tại trong dòng biến dịch
của các pháp. Theo ngài nếu trăm việc không nghĩ tới thì khiến cho niệm
mất, như vậy thì chúng rơi vào pháp trói buộc của đoạn diệt, cũng gọi là
cái thấy một bên. Trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ viết:
“
Thiện tri thức!
Nếu dùng trí tuệ quán chiếu thì sẽ thấu triệt rõ ràng trong ngoài, và tự
biết bổn tâm. Khi đã biết bổn tâ thì đó là nền tảng của giải thoát. Nếu đã
được giải thoát tức là đã đạt được Bát nhã tam muội, đó là Vô niệm.”
Ở đây, theo Lục
tổ thì Bát nhã tam muội chính là Vô niệm, là giải thoát, là mở trói. Từ đó
cho chúng ta một cái nhìn căn để hơn về một nền tảng giải thoát, mà ở đó
không có bất cứ một sai biệt nào giữa Giới-Định-Tuệ, khi con đường Trung
đạo Vô niệm được thể hiện. Vì Giới-Định-Tuệ có được chỉ tùy thuộc vào giá
trị nhân quả, trong khi Vô niệm không tùy thuộc vào bất cứ giá trị nhân
quả nào. Cho dù trên mặt tướng trạng tạm phân biệt để đánh giá nó một cách
tạ thời qua Thể-Tướng-Dụng đi nữa, thì sự đánh giá này vẫn tùy thuộc vào
các duyên. Khi các pháp còn lệ thuộc vào nhau để hiện hữu, thì pháp này
được giáng xuống hàng giá trị nhân quả trói buộc, chưa phải là giải
thoát.
Tóm lại con đường
Vô niệm Trung đạo là con đường tóm thâu tất cả mọi con đường trong PHÁP
BẢO ĐÀN kinh, qua đó được phân chia thành mười chương. Trong mười chương
này Lục tổ có đề cập đến nhiều vấn đề để khế hợp với từng căn cơ hành giả,
nhưng trên thực tế chúng vẫn qui về một mối, đó là con dường Trung đạo Vô
niệm vượt thoát, được thể hiện trong từng bước đi của mỗi môn nhơn đệ tử
xuất gia cũng như tại gia.
Sài gòn,
Việt Nam
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục