.
HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT
Thiền Sư Thích Thanh Từ
--- o0o
---
II
CHỮ TỨC
TRONG PHẬT GIÁO ÐẠI THỪA
Người đời và
những người mới học đạo đều nhìn sự vật với tánh cách cố định. Nói ác hẳn
ác, nói thiện hẳn là thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳn là
có, không hẳn là không... họ không hiểu nổi lối nói “Cái này tức là cái
kia” trong kinh điển đại thừa, họ cho lối nói này là ởm ờ mờ ám không chấp
nhận được. Song với tinh thần Ðại Thừa Phật Giáo, nhìn sự vật thấy rõ
không có bản chất cố định, không ngoài nhau, vì thế trong kinh nói “Sắc
tức là không, không tức là sắc” hay “Phiền não tức Bồ Ðề”, hoặc “Sanh tử
tức Niết Bàn” chỉ một chữ “Tức” làm sáng tỏ nghĩa không cố định, không
ngoài nhau của các Pháp”
SẮC TỨC LÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC
Câu này xuất phát từ kinh Bát Nhã. Chữ sắc ở
đây chỉ cho Sắc Uẩn. Dưới con mắt Ðức Phật, thân này do năm uẩn kết hợp
thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là
phần tinh thần. Chẳng riêng sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành,
thức cũng như thế. Bởi vì bản chất của mọi uẩn không tự có, do duyên hòa
hợp thành. Ðã do nhân duyên hòa hợp thì làm sao cố định. Trước khi nhân
duyên hòa hợp nó không có, sau khi nhân duyên ly tán nó cũng không. Chính
khi nhân duyên hòa hợp phân tích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như
nắm tay, trước khi co ngón lại, không có nắm tay. Ðang khi co năm ngón lại
nếu không phân tích từng ngón cũng không có nắm tay. Thế thì cái nắm tay
chỉ là cái tên tạm gọi khi co năm ngón tay lại, chứ không có thực thể cố
định của nắm tay, sắc uẩn không cố định nên nói “Sắc tức là không” không
khi đủ duyên hợp thành sắc nên nói “Không tức là sắc” sắc chẳng có tính
chất, không cố định. Không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói “Sắc tức là
không, không tức là sắc”. Thấu hiểu triết lý các pháp tùy duyên biến
chuyển, không đứng yên không tự thành là thông suốt câu “Sắc tức là không,
không tức là sắc”.
PHIỀN NÃO TỨC BỒ ÐỀ
Câu này bàng bạc trong cách kinh Ðại Thừa.
Phiền não là si mê bực bội đau khổ; Bồ Ðề là giác ngộ yên vui. Hai thứ bản
chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái nầy tức là cái kia? Bởi phiền
não bản chất không cố định, khi biết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ Ðề.
Cái động không ngoài cái tịnh, cái sáng không ngoài cái tối, hết tối tức
sáng, chúng ta cứ quen chạy tìm cái giác ở ngoài cái mê, tìm an vui ngoài
cái đau khổ. Sự thực không phải thế, hết mê tức là giác dứt khổ tức là
vui. Thiền Sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuất gia làm nghề hàng
thịt, một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thức tỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi
xuất gia, ông làm bài kệ: “Hôm qua tâm dạ xoa, ngày nay mặt Bồ Tát; Bồ Tát
cùng dạ xoa không cách một sợi chỉ”.
Biết dừng phiền não tức Bồ Ðề, không phải
nhọc nhằn tìm kiếm đâu xa. Bồ Ðề đã sẵn có nơi mình, do phiền não dấy khởi
phủ che nên Bồ Ðề bị ẩn khuất. Một khi phiền não lắng xuống thì Bồ Ðề hiện
tiền. Chúng ta ôm đầy một bụng phiền não chạy tìm Bồ Ðề. Chỉ khéo ngồi yên
lại cho phiền não lắng xuống thì Bồ Ðề hiện tiền.
Như trời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa
xuống là trong sạch, song rơi xuống mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùn đất chảy
xuống ao hồ. Thấy toàn nước đục, có người cần nước trong xài, ra ao hồ
nhìn thấy toàn nước đục không biết làm sao. Gặp người thông minh bảo: Nước
đục tức là nước trong. Anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: anh cứ
gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều vòng cho nước cuộn lộn lên, rồi
để yên vài tiếng đồng hồ, cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia
làm đúng như người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.
Bởi vì nước mưa nguyên là trong, do bụi đất
cuốn theo và hòa tan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đục
khác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nước đục mà có, nên
khi cần nước trong thấy nước đục là thất vọng, không biết phải tìm nước
trong ở đâu. Người trí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất hòa tan nên
đục, chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. Vì thế, khi thấy nước đục,
họ vẫn qủa quyết nói “nước đục tức là nước trong” chữ tức ở đây để chỉ
nước trong không cố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục không cố
định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục không ngoài nước trong mà
có; nước trong không thể bỏ nước đục mà tìm. Bồ đề và phiền não cũng thế,
phiền não không cố định phiền não, do duyên hợp thành phiền não, Bồ Ðề
không cố định Bồ Ðề, do duyên lóng sạch thành Bồ Ðề. Bồ Ðề mà sanh. Bỏ
phiền não chạy tìm Bồ Ðề như người lưới cá trên không, bẫy chim đáy biển,
rốt cuộc chỉ phí công vô ích.
Nước đục lóng thành nước trong, trẻ con thấy,
mới “được” nước trong, người lớn biết nước trước nguyên trong nay lóng trở
lại trạng thái cũ, có gì là “được”. Mà trước nước vốn đục, nay lóng mấy
cũng không trở thành trong. Cũng vậy, nếu tất cả chúng sanh không có sẵn
tánh giác dù tu hành đến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật Bồ Tát
trước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đã giác ngộ được, tất cả chúng
sanh nếu biết tu hành chắc sẽ giác ngộ như các Ngài. Vì thế, chư Phật thấy
rõ tất cả chúng sanh đều có tánh giác, vì vô minh phiền não che đậy trở
thành mê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền não liền trở lại giác.
Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được, nên thấy có chứng có đắc.
Chư Phật biết rõ chỉ trở lại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô
chứng vô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không có mê, hằng sống lại
tánh giác của mình. Cái đã sẵn có, trở lại với nó có gì thêm bớt mà nói
chứng đắc. Tuy không chứng đắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không
ngơ được?
Biết trong nước đục vốn là nước trong, nước
đục khéo lóng sẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh.
Ðức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh giác, dù
đang mê tánh giác cũng không mất, nói “Ta thấy tất cả chúng sanh đã thành
Phật”. Lại có khi Ngài nói “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ
thành”. Bởi chúng ta đã sẳn tính giác, một khi thức tỉnh huân tu tánh giác
sẽ hiển hiện, việc này không có gì là lạ. Câu Phật nói trước có vẻ không
hiểu, đã thành Phật tại sao chúng sanh vẫn còn mê muội loạn cuồng. Bởi vì
Phật cũng là một chúng sanh như chúng ta. Ngài khéo lóng vô minh phiền não
chiêm lặng trở thành giác ngộ. Nếu không tính giác sẵn, dù Ngài tu đến
muôn A tăng kỳ cũng không ngộ, nói gì ba A tăng kỳ. Thấy chúng sanh sẵn có
tành giác, nói “đã thành Phật” thì có gì lỗi gì? Có sẵn tánh giác mà cứ
quên mãi tạo nghiệp đi trong sanh từ luân hồi, càng luân hồi càng tạo
nghiệp, nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Một phen thức
tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại, mới tin “Ta là Phật sẽ
thành”.
SANH TỬ TỨC NIẾT BÀN
Chúng sanh mãi trồi lăn lăn hụp trong biển
luân hồi sanh tử, dừng sanh tử được an lành là Niết bàn. Sanh tử là khổ
đau, Niết bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường như hai mà không thể hai.
Như người đi trên vai gánh một gánh nặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô
kể, để gánh nặng xuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bỏng yên vui. Cái nhọc nhằn
an vui người nầy cảm giác được dường như hai mà không phải hai. Chẳng qua,
khi gánh nặng còn đè trĩu trên vai là đau khổ, để gánh nặng xuống thì an
vui. Do hết khổ gọi là vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết bàn
và sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết bàn, không có Niết bàn
ngoài sanh tử.
Chúng sanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn
chúng sanh, loanh quanh lẩn quẩn, không có ngày dẫn chúng ta qua lại trong
tam giới, lên xuống trong sáu đường không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo
tu dừng nghiệp thì bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theo nghiệp trôi
lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết bàn. Vì thế cần được Niết
bàn, chúng ta phải dừng nghiệp. Có nhiều người tưởng Niết bàn là cảnh giới
xa xôi đẹp đẽ như cảnh Cực Lạc. Họ cố cầu xin Phật, Bồ Tát cho họ được
Niết bàn, hoặc tìm minh sư đạt đạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho học
được Niết bàn. Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết bàn. Nghiệp lại do
mình tạo, chỉ cần tìm ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp, bắt nó dừng lại thì
Niết bàn hiện tiền. Tâm thức lăng xăng của chúng ta là chủ động tạo
nghiệp, khéo tu dừng lặng nó thì Niết bàn xuất hiện. Dừng ngắn thì được
Niết bàn ngắn, dừng lâu thì được Niết bàn lâu, dừng hẳn thì được Niết bàn
bẳn.
Sở dĩ có Niết bàn là do đối với sinh tử mà
lập, một khi sanh tử dứt sạch thì Niết bàn không còn chỗ đứng. Kinh có câu
“Niết bàn sanh tử như hoa đốm trong không”, đã là hai danh từ đỗi đãi mà
lập thì đều không thật. Không có Niết bàn thì nói gì sanh tử. Như không có
khổ thì không có vui, không có vui thì làm sao biết khổ. Niết bàn và sanh
tử không riêng lập và không ngoài nhau, nên nói “Sanh tử tức là Niết bàn”.
Sẽ có người bảo sanh tử là do nghiệp dẫn là
pháp sanh diệt, hư dối là phải, Niết bàn là dứt sạch nghiệp là chơn thật,
tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết bàn không hư dối. Thực tế Niết bàn
không có hình dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói, nó vượt ngoài
pháp đối đãi thế gian. ngôn ngữ chúng ta để dùng để diễn đạt tâm tư đều
nằm trong đối đãi không thật. Dù là ngôn ngữ Niết bàn, cũng chỉ là lớp mây
phủ núi chớ không phải là núi, đứng về núi mà nhìn nó thì nó là hư dối bên
ngoài không đáng kể. Thế nên nói “Như hoa đốm trong hư không” mà thực thể
chẳng phải không.
THIỆN TỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN: PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI
Ta có thể nói rộng ra “Thiện tức ác, ác tức
thiện” hay “Phải tức quấy, quấy tức phải”... chẳng hạn. Bởi vì dù là việc
thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví như người theo tôn giáo A
tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyên bà con thân quyến cùng theo với
mình. Nếu những người thân không bằng lòng theo, tức thì sanh tâm giận
ghét. Thế không phải là thiện thành ác là gì? Tuy là việc ác, chúng ta ý
thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghe theo bạn bè làm việc
trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhở giải thích cho A biết làm việc ấy là xấu
xa, tội lỗi. A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liền trở thành
thiện.
Phải quấy cũng không có tiêu chuẩn cố định,
nếu ta chấp vào cái phải của mình liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc cãi
vả chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải mà ra. Có người nào sau
khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhận là tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy
mình phải nên có ấu đả. Ngược lại, người ý thức việc làm của mình là quấy
tự bỏ, liền trở thành phải. Nhưng người lầm đường lạc lối, khi họ thực
tình xoay trở lại đường lành liền trở thành phải. Nhưng người lầm đường
lạc lối, khi họ thực tình xoay trở lại đường lành liền trở thành người
tốt. Mọi sự việc trong đối đãi đều như thế cả, không có một sự việc gì cố
định. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cái phải của nhóm C
không phải là cái phải của D. Cái phải của xứ nầy không phải là cái phải
của xứ khác. Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải của thời
gian sau. Thế thì, lấy đâu là tiêu chuẩn mà chấp phải quấy! Chấp chặt phải
quấy là ngu xuẩn là khổ đau. Biết buông xả linh động tùy thời là người
khôn ngoan an ổn.
CHỮ TỨC ÐỐI TRONG VẠN VẬT
Ta đi xa hơn ra ngoài giới, với mọi sự vật
dùng chữ tức có lẽ thực, như nói “Thể lỏng tức là thể hơi” hoặc nói “thể
hơi tức là thể lỏng”. Nước là thể lỏng đun nóng bốc lên thành hơi, hơi
nước lên cao gặp khí lạnh đông lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có
thể nói thể lỏng tức là thể cứng; thể cứng tức là thể lỏng. Nước là thể
lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọng thành nước đá thể cứng; nước đá đem để ra
ngoài nắng tan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại chì, đồng,
sắt... từ thể cứng để vào lò nấu sức nóng lên đến 1.0000 C trở
lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏng đó đem ra để nguội trở thành thể
cứng... vì thế, thấu hiểu chữ tức là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột
cùng lý tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiện tại chứng
minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thể độc lập, không giữ nguyên
một vị trí. Một vật thể này bị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể
khác. Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoa học đã tìm
được biết chế thành những sản phẩm hữu ích cung ứng cho nhân loại cần
dùng. Mọi vật thể kết hợp không phải đơn thuần, mà sự cấu tạo điều kiện
biến nó thành những vật theo nhu cầu của mình. Sự biến hóa đổi thay trong
mọi vật thể đã là bằng chứng hùng hồn về lý không cố định của sự vật. Thấy
được lý không cố định là thấy tột bản tánh cả sự vật. Những nguyên tố hợp
thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm, do sự kết hợp tăng giảm biến thành
muôn vàn sự vật có đủ thiên hình vạn trạng trên thế gian này. Quả là trong
vật này có những nguyên tố của vật khác. Trong vật khác có những nguyên tố
của vật này. thế nên nó “A tức B, B tức A” là đúng lẽ thực đâu có sai
ngoa.
HIỆU DỤNG CHỮ TỨC TRONG SỰ TU HÀNH
Hiễu rõ chữ tức có công hiệu rất lớn trong
việc tu hành. A tức là B, thì A không thực A, B tức là A thì B không thực
B. Muôn vật tùy duyên thành hình đổi dạng, có cái gì cố định mà chấp. Bệnh
lớn của con người cố chấp, chấp càng nặng thì khổ càng nhiều. Mọi người
chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng
của mình hoặc của nhóm người thân mình, nếu người khác thấy đồng cái thấy
của mình, nhóm mình thì thân; thấy khác thấy cái chấp của mình thì thù.
Ðây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một dòng biến
thiên mà mình nhìn theo cái chấp cố định thì làm sao thấy được lẽ thực.
Làm sao đem lại sự an bình. Con người khủng khiếp hãi hùng khi nghe tin
mình sắp chết. Sợ chết vì chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp
tan hoại nên hoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra
tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp... khiến phải tan hoại, người ta sẽ
đau khổ vô hạn. Tình cảm bạn bè, thân hữu, chấp mãi không đổi; một khi gặp
cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.
Người nắm vững nguyên tắc “các pháp không cố
định”, mọi cố chấp trên từ từ tan rã, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hãi
hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn
bè chia lìa... cũng là lẽ đương nhiên trong dòng biến thiên của vạn vật.
Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nhìn chúng
trôi qua với tâm niệm an bình. Bởi người tu hành là huân tập phát minh
những lẽ thực ấy. Sở dĩ hiện nay có lắm người tu khi gặp hoàn cảnh tang
thương biến cố liền hoảng sợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thực
ấy. Họ nghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậu là đầy đủ
công phu tu hành. tu bằng cách nhắm ra ngoài, chạy theo hình thức làm sao
đạt được lẽ thật, mà là suy giãm khổ đau. Họ càng tu thì chấp càng nặng,
chấp càng nặng thì đau khổ càng nhiều, thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ không
hết khổ.
A
tức là B, thì A không thực là A, B tức là A,
thì B không thực là B. hai bên đều không cố định, đã không
cố định thì làm sao mà bảo là thật. Hai bên đều không thật thì không thể
thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào “Pháp môn bất nhị”.
Thấy vạn vật đối đãi không thật, còn gì để lý giải luận bàn, vừa phát ra
ngôn ngữ là nằm trong đối đãi. Ðối đãi thuộc hai bên, muốn chỉ chỗ cứu
cánh của “pháp môn bất nhị”, Ngài Duy Ma Cật chỉ còn cách lên tòa ngồi
lặng thinh, chính vì thế mà Bồ Tát Văn Thù tán thán không tiếc lời.
--- o0o
---
Mục Lục
|
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
|
VI
|
VII
--- o0o
---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật ngày: 5 - 2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục