NXB Tổng Hợp TP HCM
TL. 2005 - PL. 2549
-01-
Tỳ-khưu Dhammika
Bình Anson lược dịch
---*---
Lược dịch từ bài "Basic Buddhism: A Five-Minute Introduction" (C
*
Hỏi: Phật Giáo là gì?
Đáp: Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín
Hỏi: Có phải Phật Giáo chỉ thuần là một tôn giáo?
Đáp:
(1) sống có
(2) nhận thức rõ ràng về mọi ý nghĩ và hành
(3) phát triển sự hiểu biết và trí tuệ.
Hỏi: Phật Giáo giúp tôi bằng cách nào?
Đáp: Phật Giáo giải thích mục
Hỏi: Tại sao Phật Giáo trở nên phổ biến?
Đáp: Phật Giáo ngày càng phổ biến ở các nước Tây phương vì
nhiều lý do. Thứ nhất là vì Phật Giáo có những giải
Hỏi:
Đáp: Ngài Siddhattha Gotama sinh ra vào n
Hỏi: Có phải
Đáp: Không, Ngài không là Thượng
Hỏi: Phật tử có tôn thờ các thần tượng không?
Đáp: Những người Phật tử tỏ lòng tôn kính các hình ảnh của
Hỏi: Tại sao nhiều quốc gia Phật Giáo lại nghèo như vậy?
Đáp: Không hẳn
Hỏi: Có phải có nhiều tông phái Phật Giáo không?
Đáp: Có nhiều tông phái trong Phật Giáo là vì có những khác
biệt về v
Hỏi: Có phải các tôn giáo khác
Đáp: Phật Giáo là một hệ thống tín ngưỡng có tính bao dung
Hỏi: Phật Giáo có tính khoa học không?
Đáp: Khoa học là tri thức
Hỏi:
Đáp:
Hỏi: Diệu
Đáp: Khổ
Hỏi: Diệu
Đáp: Tập
Hỏi: Diệu
Đáp: Diệt
Hỏi: Diệu
Đáp:
Hỏi: Bát Chánh
Đáp:
Hỏi: Ngũ giới là gì?
Đáp:
Hỏi: Nghiệp là gì?
Đáp: Nghiệp hay "nghiệp-quả" là một
Hỏi: Trí tuệ là gì?
Đáp: Trong Phật Giáo, Trí tuệ phải
Hỏi: Từ bi là gì?
Đáp: Từ bi bao gồm các phẩm hạnh của lòng san sẻ, sẵn sàng
an ủi người khác, thiện cảm, ch
Hỏi: Tôi phải làm thế nào
Đáp: Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và thực nghiệm các lời
dạy của
Perth, Tây Úc, tháng 8-2004
-02-
Bình Anson
---*---
Bài nầy viết dựa theo tập sách "The Eight Worldly Conditions", do Hòa
thượng Nàrada viết n
*
Tiếng Pali của "tám pháp thế gian" là "atthalokadhamma".
"Attha" là tám, "loka" là thế gian, và "dhamma" là
pháp. Atthalokadhamma còn
Trong kinh "Tùy Chuyển Thế Giới", T
Này các Tỳ-khưu, có tám pháp thế gian làm tùy chuyển thế giới. Thế nào
là tám?
Sau
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và
Những pháp này vô thường
Không thường hằng, biến diệt
Biết chúng, giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn.
Sau khi biết con
Không trần cấu, không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Ði
Ngài giảng rằng khi chúng ta gặp phải một trong tám sự kiện ấy (lợi
dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích,
an lạc,
*
1. Ðược và Mất (Làbha và Alàbha)
Trên
Mất một vật gì, tất nhiên ta cảm thấy buồn. Nhưng chính cái buồn ấy
không giúp ta tìm lại
Ta phải dũng cảm chịu
*
2. Danh Thơm và Tiếng Xấu (Yasa và Ayasa)
Danh thơm và tiếng xấu là cặp th
Danh thơm, chúng ta hoan hỷ
Thật ra, chúng ta không cần chạy theo danh thơm, tiếng tốt. Nếu ta xứng
Còn tiếng xấu thì sao? Chúng ta không thích nghe, hay nghĩ
Nhưng cũng nên nhớ rằng cho dù ta có thể sống
Ta không nên phung phí thì giờ
Giáo Pháp có dạy:
"Hãy như sư tử, không run sợ trước tiếng
Hãy như luồng gió, không dính mắc trong màn lưới.
Hãy như hoa sen, từ bùn nhơ nước
Nhưng không bị nước
Hãy vững bước,
Là chúa sơn lâm, sư tử không sợ hãi. Bẩm chất thiên nhiên của sư tử là
không run rẩy giựt mình khi nghe tiếng gầm thét của các loài thú khác.
Trên thế gian nầy, chúng ta thường nghe thuật lại những câu chuyện trái
tai, bất lợi, những lời buộc tội giả mạo, những tiếng vu oan phỉ báng
Chúng ta
Mặc dầu là
*
3. Ca Tụng và Khiển Trách (Pasamsà và Nindà)
Ðược ca tụng và bị khiển trách là hai hoàn cảnh th
Người thực hành Giáo Pháp thì không tin vào những lời nịnh bợ, cũng
không muốn
Còn khiển trách thì sao? Ðức Phật dạy: "Người nói nhiều bị khiển trách. Người nói ít bị khiển trách. Người lặng thinh cũng bị khiển trách."
Ðức Phật cũng nói: "Người thế gian phần
Kẻ si mê lầm lạc chỉ tìm cái xấu, cái hư của người khác mà không nhìn
cái tốt cái
*
4. Hạnh Phúc và Ðau Khổ (Sukha và Dukkha)
Hạnh phúc và
Ðiều gì làm
Chúng ta vui vẻ
Lắm khi chúng ta phải xa lìa thân bằng, quyến thuộc. Cảnh biệt ly vô
cùng
Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi, chết là mối ưu phiền trọng
*
Ðức Phật dạy rằng:
"Cũng như trên
Trước những th
Perth, Tây Úc, tháng 8-2004.
-03-
Bình Anson
---*---
Bố Thí là một
Có lẽ
Trong kinh
Ở
*
"Bố Thí" là chữ Hán Việt, gồm chữ "Bố" và chữ "Thí".
"Bố" là bày ra, ban rộng ra, trải
"Bố thí" có nghĩa là làm cho rộng ra, trải rộng ra, phân chia cùng
khắp. Từ
"Dàna" thường
Trong kinh sách,
"
*
Trong Trường Bộ, kinh 33; trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Chương Ba
Pháp; và trong T
Bố thí là một trong 3 hạnh kiểm
Bố thí cũng là một trong bốn pháp
- Này các Tỳ-khưu, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và
Hỡi các vị Tỳ-khưu,
Ðây là bốn nhiếp pháp.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và
Ðối với những pháp này,
Ở
Chỗ này và chỗ kia,
Như vậy thật tương xứng.
Và bốn nhiếp pháp này,
Như
Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không
Tôn trọng và cung kính..
Do vậy bậc Hiền trí,
Ðồng
Nhờ vậy họ
Sự cao lớn, tán thán.
Trong truyền thống Nam tông, một trong những bài kinh mà chúng ta
thường
"Do ba sự kiện, này các Tỳ-khưu, một người
Một người bố thí trong sạch như thế, theo lời
Này các Tỳ-khưu, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài,
tàm tài, quý tài, v
Bố Thí cũng
-"Bạch Thế Tôn, loại cây hương gì có mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngược gió, có mùi hương bay thuận gió lẫn ngược gió?
Đức Phật trả lời:
-"Ở
*
Tuy nhiên, hạnh Bố Thí không phải là một
Trước hết,
"Này các Tỳ-khưu, có tám sự bố thí của bậc chân nhân. Thế nào là tám?
Cho vật trong sạch; cho vật thù diệu; cho
Như thế, khi bố thí, vật cho phải là vật trong sạch, vật thù diệu, vật
thích ứng; cách cho phải là cho
Trong T
Về bố thí cho
- Bố thí cho người mới
- Bố thí cho người sắp ra đi, rời khỏi trú xứ của chúng ta.
- Bố thí cho người đau bệnh.
- Bố thí trong thời đói.
- Phàm những hoa quả gì mới gặt hái
Nếu
Trong các
"Này các Tỳ-khưu, có n
-
- Được bậc thiện nhân, chân nhân thân cận;
- Tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi,
- Không có sai lệch khi thuyết pháp;
- Khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cỏi lành thiên giới."
Về lợi ích của bố thí thực phẩm: "Người bố thí bữa
Thêm vào
1. Thành tựu ruộng phước (khettasampatti), tức là nói
2. Thành tựu vật thí (deyyadhammasampatti), tức là có vật thí
3. Thành tựu tâm ý (cittasampatti), tức là tác ý bố thí có
*
Có 2 loại bố thí: bố thí tài vật (tiền bạc, thức
Trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy (kinh số 98),
Trong T
Trong Tương Ưng Bộ, Tập I, Chương I, có ghi lại câu chuyện trong một
Cho gì là cho lực?
Cho gì là cho sắc?
Cho gì là cho lạc?
Cho gì là cho mắt?
Cho gì cho tất cả?
Xin
Đức Thế Tôn trả lời:
Cho
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả.
Ai giảng dạy Chánh Pháp,
Vị ấy cho bất tử.
Cũng cần ghi nhận ở
"Có tám nguồn nước công
- Quy y Phật, Pháp, T
- 5 nguồn nước kế là giữ tròn 5 giới c
Cũng xin ghi nhận thêm là trong vài tài liệu kinh sách phát triển về
sau nầy, ngoài Bố thí Tài và Bố thí Pháp, còn có
*
Nếu chỉ thực hành hạnh Bố Thí không thôi thì cũng chưa tròn
Do
"Thế nào là sáu pháp cần phải tu tập?
Và
"Này Mahànàma, Ông hãy niệm Thí như sau: "Thật là
Này Mahànàma, trong khi vị Thánh
Trong T
"Có một pháp, này các Tỳ-khưu,
Xin giải thích tóm tắt:
1. Niệm Phật (buddhànussati) là niệm tưởng mười ân
2. Niệm Pháp (dhammànussati) là niệm tưởng sáu ân
3. Niệm T
4. Niệm Giới (sìlànussati) là niệm tưởng giới thanh
tịnh của mình.
5. Niệm Thí (càgànussati) là niệm tưởng hạnh bố thí xả tài
của mình.
6. Niệm Thiên (devatànussati) là niệm tưởng các công hạnh
tác thành chư thiên và xét lại công hạnh mình có.
7. Niệm Chết (maranàsati) là suy niệm sự chết
8. Niệm Thân hành (kàyagatàsati) là suy niệm thân này cho
thấy rằng bất tịnh, uế trược, ổ bệnh tật, khả ố, thực tính thân này là
như vậy, v.v.
9. Niệm Hơi thở (ànàpànàsati) là niệm về hơi thở
vô, hơi thở ra,
10. Niệm Tịch tịnh (upasamànussati) là suy niệm
trạng thái Niết-bàn, nơi không còn phiền não và
Để tu tập về pháp quán niệm lòng Bố Thí, có thể xem thêm các
hướng dẫn chi tiết của ngài Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) trong bộ luận
Thanh Tịnh
*
Tóm lại, Bố Thí là một
Perth, tháng 7-2004
-04-
Bình Anson
---*---
Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện bằng
lời nói, mà trái lại, dùng lời nói
Trong T
-- "Có bốn pháp tịnh hạnh về lời nói:
1) Ở
2) Người ấy
3) Người ấy
4) Người ấy
Đó cũng là 4 thiện nghiệp về Khẩu trong 10 thiện nghiệp (thập
thiện nghiệp) mà
*
Cũng có trường hợp, khi ta nói chân thật và lễ
-- "Này Vương tử Vô Úy, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không
như chân, không tương ứng với mục
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục
Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương
ứng với mục
Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục
Như thế, chúng ta thấy rằng
*
Trong kinh Lời Nói (T
--"Thành tựu n
1) Nói
2) Nói
3) Nói lời nhu hoà: lời nói cần phải dịu dàng, lễ phép, tạo không khí hòa hợp.
4) Nói lời
5) Nói lời với từ tâm: lời nói phải phát xuất từ tấm lòng thương yêu, cẩn trọng.
Ngoài ra, trong bài kinh Khéo Thuyết, Kinh Tập 78,
-- "Thành tựu bốn chi phần, này các Tỳ-khưu, lời nói
*
Trong T
-- "Có mười
Ngài thiền sư Buddhadasa (Phật Lệ), Thái Lan, giải thích thêm:
1) Giảm dục (Appiccha-gatha):
2) Biết
3) Viễn ly hay Ðộc cư (Paviveka-gatha):
4) Không tụ hội hay Giảm Tiếp (Asamsagga-gatha):
5) Tinh tấn (Viriyarambha-gatha):
6) Giới
7) Thiền
8) Trí tuệ (Panna-gatha):
9) Giải thoát (Vimutti-gatha):
10) Tri kiến Giải thoát (Vimutti-nanadassana-gatha):
*
Ðức Phật rất chê trách những cuộc nói chuyện huyên thuyên, phí thời
gian vô ích. Những lời gièm pha và
"Dầu nói ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa,
Nghe xong,
"Không phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ.
Thật
"Không phải vì nói nhiều,
Là thọ trì chánh pháp.
Người nghe ít diệu pháp,
Nhưng trực nhận viên dung,
Chánh pháp không buông lung,
Là thọ trì chánh pháp." (PC 259)
Trong ngôn ngữ Pàli, danh từ "Mâu-ni" (Muni) trong tên "Thích-ca
Mâu-ni" (Sakya Muni) có nghĩa là người luôn giữ sự yên lặng (bậc
Tịch tịnh), thường
*
Tóm lại, lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng, không
những tác
Perth, Tây Úc, tháng 9-2004
-05-
Bình Anson
---*---
Có ba dịp lễ lớn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy.
"Magha Puja" là ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày
Ngoài ra, truyền thống Nam tông còn có các ngày lễ khác như ngày Tự Tứ
(rằm tháng Chín) -- kết thúc mùa An cư Kiết hạ, và mùa lễ Dâng Y Kathina
trong một tháng, từ ngày 16 tháng Chín
*
1. Chuyển Pháp Luân
Ngài Bồ tát Sĩ-
Từ Bồ
"Này chư vị,
Lời tuyên bố
"Có hai cực
Này chư vị, Như Lai
Ngài giảng tiếp:
"
Đây là Chân lý về Nguồn gốc của Khổ: Ðó chính là khát ái
Đây là Chân lý về Khổ Diệt:
Đây là Chân lý về Con Ðường Diệt Khổ: Ðó là Thánh Ðạo Tám Ngành,
tức là: Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng,
Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, và Chánh Ðịnh." -- (
N
Chẳng bao lâu, lời dạy của
Vài ngày sau,
*
2. An cư Kiết hạ
Một ngày sau lễ Rằm tháng Sáu, chư T
Trong Chương "Vào Mùa Mưa",
Đức Thế Tôn ngự tại thành Vương Xá, Trúc Lâm. Lúc bấy giờ, việc
an cư mùa mưa chưa
-"Vì sao các sa-môn Thích Tử lại
Các Tỳ-khưu nghe
-"Này các Tỳ-khưu, ta cho phép an cư trong mùa mưa.
Tính theo âm lịch của Việt Nam nếu không có tháng nhuần thì thời
-"Này các Tỳ-khưu, trong mùa an cư ba tháng thì không nên ra
Tuy nhiên, nếu có chuyện cần kíp và
-"Này các Tỳ-khưu, ta cho phép
Suốt thời kỳ gió mùa ở miền bắc Ấn
Mùa an cư bắt
Tập tục an cư mùa mưa không chỉ có lý do cổ truyền, mà còn có lý do
thực tiễn nữa. Khi trời
Tục lệ an cư mùa mưa còn có lợi cho T
"Quả thật tất cả
Có lần
Việc an cư mùa mưa cũng quan trọng trong việc học tập của chư T
Perth, tháng 7-2004
-06-
Bình Anson
---*---
Trong T
"Ở
Do cái này có, cái kia có.
Do cái này sinh, cái kia sinh.
Do cái này không có, cái kia không có.
Do cái này diệt, cái kia diệt."
Đó là tóm lược lý Duyên khởi. Rồi Ngài giảng rộng ra:
"Tức là do duyên vô minh, có các hành.
Do duyên các hành, có thức.
Do duyên thức, có danh sắc.
Do duyên danh sắc, có sáu nhập.
Do duyên sáu nhập, có xúc.
Do duyên xúc, có thọ.
Do duyên thọ, có ái.
Do duyên ái, có thủ.
Do duyên thủ, có hữu.
Do duyên hữu, có sinh.
Do duyên sinh, có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này."
Tiếp theo,
"Do vô minh diệt, không có dư tàn, nên các hành diệt.
Do các hành diệt, nên thức diệt.
Do thức diệt, nên danh sắc diệt.
Do danh sắc diệt, nên sáu nhập diệt.
Do sáu nhập diệt, nên xúc diệt.
Do xúc diệt, nên thọ diệt.
Do thọ diệt, nên ái diệt.
Do ái diệt, nên thủ diệt.
Do thủ diệt, nên hữu diệt.
Do hữu diệt, nên sinh diệt.
Do sinh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt. Ðây là Thánh lý
Như thế, khi thuyết giảng lý Duyên khởi,
*
Ở
"Vô minh duyên hành": Do vô minh (avijjà), các hành
(sankhara) có
Do vô minh,
Hai chi phần này, Vô Minh và Hành, thuộc thời quá khứ, và
"Hành duyên thức": Tùy thuộc nơi hành nghiệp, thiện và bất
thiện, chi phần thứ ba khởi sinh,
"Thức duyên danh sắc": Tâm không thể làm việc một mình, nó có một
số tâm sở (cetasika) phối hợp làm việc chung với nó, và vì là tâm
nên nó không thể tồn tại
"Danh sắc duyên lục nhập": Do có thân và tâm, hay danh và sắc, ta
có 6 C
"Lục nhập duyên xúc": Tùy thuộc vào 6 c
"Xúc duyên thọ": Vì có xúc nên ta có cảm giác, như vậy, Thọ
(vedanà) phát sinh. Khi có sự tiếp chạm với một
"Thọ duyên ái": Vì có thọ mà Ái (tanhà) khởi sinh, không có
thọ thì tham ái không sinh khởi. Khi có cảm thọ dễ chịu - qua thấy, nghe,
ngữi, nếm, v.v., tham ái, thích thú sinh khởi. Còn
"Ái duyên thủ": Một khi ái
"Thủ duyên hữu": Vì có chấp thủ, nên tạo duyên
"Hữu duyên sinh": Do bởi những hành
"Sinh duyên già chết": Do tái sinh trong thế gian nên ắt sẽ
*
Chúng ta thấy ở
Trong quyển sách "Cây Giác Ngộ" (The Tree of Enlightenment), Giáo sư
Peter Santina phân chia 12 chi phần thành 3 nhóm: 1) nhóm tai ách (ô
trược): vô minh, ái và thủ; 2) nhóm hành
Trong nhóm thứ nhất, vô minh là c
Nhóm thứ hai là nghiệp (hành
Khi hiểu
*
- "Nầy Anandà, giáo pháp Duyên Khởi rất thâm sâu, thật sự thâm sâu.
Chính vì không thông hiểu giáo pháp này mà thế gian giống như một cuộn chỉ
rối ren, một tổ chim, một bụi rậm lau lách, và không thể thoát khỏi các
Trong một
- "Ai hiểu
Cho nên, giáo lý Duyên khởi là một giáo lý tinh yếu, thâm sâu, quan
trọng, không phải dễ dàng thực chứng và thông hiểu. Là một phàm nhân cư sĩ
còn
Perth, Tây Úc, tháng 8-2004
-07-
Bình Anson
---*---
Ngoài việc thọ trì, tuân giữ 5
1) Không sát sanh.
2) Không trộm cắp.
3) Không hành dâm.
4) Không nói dối.
5) Không uống rượu và dùng các chất say.
6) Không
7) Không tham gia múa hát, thổi kèn,
8) Không nằm ngồi nơi quá cao và nơi xinh
Ngày trai giới còn có tên gọi là ngày Bố-tát, phiên âm từ chữ
"Uposatha". "Uposatha" có nghĩa là
Đó là bốn ngày trai giới c
*
Các bài giảng của
--"Thánh
1) "Cho
2) "Cho
3) "Cho
4)"Cho
5) "Cho
6) "Cho
7) "Cho
8) "Cho
"Như vậy, này Visàkhà, là Thánh trai giới, thực hành Thánh trai giới, này Visàkhà, có quả lớn, có lợi ích lớn, có chói sáng lớn, có ánh sáng lớn".
Trong T
--"Ở
Này các Thích tử,
*
Theo truyền thống, trong ngày trai giới, người cư sĩ Phật tử thức dậy
sớm, sửa soạn thức
Tùy theo nếp sinh hoạt của mỗi chùa, chương trình có thể thay
Có những chùa tổ chức
*
Nếu có chư T
Tương tự trong tinh thần
Điều quan trọng là làm sao giữ tâm thanh tịnh, nhu hòa, không bận rộn, không lo âu tính toán, và lúc nào cũng cố gắng tỉnh giác, chánh niệm, nhất tâm hướng về Phật Pháp trong suốt thời gian thọ trì bát quan trai giới.
Tháng 9-2004
-08-
Bình Anson
---*---
Hằng ngày, vào buổi sáng sớm và buổi tối, các Phật tử trong
truyền thống Nam tông thường tụng các bài kinh v
*
Bắt
Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa
Trong
Namo tassa: Xin cung kính
bhagavato:
arahato: bậc A-la-hán, Ứng Cúng.
sammà sambuddhassa:
Nghĩa toàn câu: "Cung kính
*
Tiếp theo, là các câu tụng về ân
1) Ân
Itipi so Bhagavà Araham Sammàsambuddho Vijjàcaranasampanno Sugato Lokavidù Anuttaro Purisadammasàrathi Satthà devamanussànam Buddho Bhagavàti
Itipi so: Thật vậy, vị ấy là ...
Bhagavà:
Araham: người không còn ô nhiễm, bậc A-la-hán, bậc Ứng Cúng.
Sammàsambuddho:
Vijjàcaranasampanno: Minh Hạnh Túc, người có trí tuệ và
Sugato: bậc Thiện Thệ, vị
Lokavidù: người hiểu biết rõ ràng về thế gian, Thế Gian Giải.
Anuttaro: không gì hơn
Purisadammasàrathi: người có khả n
Satthà devamanussànam: vị thầy của chư thiên và loài người, Thiên
Nhân Sư.
Buddho: bậc
Bhagavà:
Nghĩa toàn câu: "Thật vậy, bậc
Đây là
Ngoài ra, trong nhiều kinh sách Bắc tông, có thấy thêm vào danh hiệu
Như Lai, tạo ra 11 danh hiệu.
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:
Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Ðức ân Thiện Thệ cao dày,
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân,
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu,
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự
Thiên Nhân Sư
Phật Ðà toàn giác, Thế Tôn trong
*
2) Ân
Svàkkhàto bhagavato dhammo sanditthiko akàliko ehipassiko opanayiko paccattam veditabbo vinnùhìti
Svàkkhàto:
bhagavato: của
dhammo: giáo pháp.
Svàkkhàto bhagavato dhammo: Pháp của
sanditthiko: hoàn toàn hiển nhiên,
akàliko: không
ehipassiko: hãy
opanayiko: có khả n
paccattam: tự cá nhân, riêng rẽ.
veditabbo: nên
vinnùhì: bởi các bậc trí tuệ.
Nghĩa toàn câu: "Pháp của
Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu dịch là "Ðây là Pháp
do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời,
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:
Pháp vi diệu, cha lành khéo dạy,
Lìa danh ngôn, giác ngộ hiện tiền,
Vượt thời gian, chứng vô biên,
Sát na
Ðạo vô thượng,
Hướng thượng tâm, thoát ngõ vọng trần,
Trí nhân tự ngộ giả chân,
Diệu thường tịnh lạc, Pháp ân nhiệm mầu.
*
3) Ân
Supatipanno bhagavato sàvakasangho
ujupatipanno bhagavato sàvakasangho
nàyapatipanno bhagavato sàvakasangho
sàmìcipatipanno bhagavato sàvakasangho
yadidam cattàri purisayugàni atthapurisapuggalà
esa bhagavato sàvakasangho
àhuneyyo pàhuneyyo dakkhineyyo anjalikaranìyo
anuttaram punnakkhettam lokassàti
Supatipanno:
bhagavato: của
sàvakasangho: T
bhagavato sàvakasangho: T
ujupatipanno:
nàyapatipanno:
sàmìcipatipanno:
yadidam:
cattàri: bốn (số
purisayugàni: (bốn) cặp /
atthapurisapuggalà: tám hạng người, nếu tính
esa: nhóm người ấy, nhóm người
bhagavato: của
sàvakasangho: T
àhuneyyo:
pàhuneyyo:
dakkhineyyo:
anjalikaranìyo:
anuttaram: không gì hơn
punnakkhettam: nơi
lokassà: của thế gian.
Nghĩa toàn câu: Trong các bộ kinh Nikàya, Hòa thượng Minh Châu
dịch là "Chúng T
Trong quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Pháp Luân, Texas, Hoa Kỳ, có dịch là:
Bậc diệu hạnh, thinh v
Bậc trực hạnh, pháp lữ thiền gia,
Bậc như lý hạnh, T
Bậc chân chánh hạnh, dưới toà Thế Tôn,
Thành
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm,
Cung nghinh kính lễ một niềm,
Thánh chúng vô thượng, phước
*
Trì tụng, ghi nhớ và thông hiểu rõ ràng 3 câu tụng trên là một pháp
hành c
Trong Tương Ưng Bộ 11.3, kinh
"Này các vị Tỳ-khưu,
Trong rừng hay gốc cây,
Hay tại c
Hãy niệm bậc Chánh Giác.
Các Ông có sợ hãi,
Sợ hãi sẽ tiêu diệt.
Nếu không tư niệm Phật,
Tối thượng chủ ở
Và cũng là Ngưu vương,
Trong thế giới loài Người,
Vậy hãy tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.
Nếu không tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,
Vậy hãy tư niệm T
Là phước
Vậy này các Tỳ-khưu,
Như vậy tư niệm Phật,
Tư niệm Pháp và T
Sợ hãi hay hoảng hốt,
Không bao giờ khởi lên".
Đức Phật cũng khuyên hàng
--"Này Mahànàma, trong khi vị Thánh
Trong bộ luận Thanh Tịnh
-- "Khi vị hành giả chú tâm
*
Đa số Phật tử Việt Nam chúng ta, thường không quen thuộc với các
bài kinh tụng trong truyền thống Phật giáo Nam tông, có lẽ sẽ cảm thấy bỡ
ngỡ, khó kh
Qua kinh nghiệm bản thân cũng như qua các trao
Tháng 9-2004
-09-
Bình Anson
---*---
Trước hết, chúng ta hãy thử tự trả lời câu hỏi: Thiền là gì? Một
câu hỏi tuy
Theo ngữ nguyên, Thiền là cách nói tắt của chữ "thiền-na", là
lối phiên âm Hán Việt của chữ Phạn Jhana, hay Dhyana trong
Sanskrit. Thiền-na, trong kinh
Thiền còn
Ngay trong ngôn ngữ Thái Lan, họ cũng không có một từ chuyên môn
Theo thiển ý, có thể dịch chữ "bhàvana" là: tu thiền, tu tâm,
luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Còn chữ "samadhi" thì tùy theo
ngữ cảnh. Nếu
Theo Tiến sĩ Muller, một học giả Bắc tông, tác giả quyển Tự
Cư sĩ
Theo Tự
*
Vì Thiền có liên quan
Tương Ưng Bộ, Tập 5, có ghi như sau:
"Này các vị Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến?
Thế nào là chánh tư duy?
Thế nào là chánh ngữ?
Thế nào chánh nghiệp?
Thế nào là chánh mạng?
Thế nào là chánh tinh tấn?
Thế nào là chánh niệm?
Thế nào là chánh
Qua
1) Chánh
2) Nếu xem
*
Tu thiền, hành thiền,
Ngoài ra, theo Hòa thượng Thích Minh Châu, trong quyển "Hành Thiền", có
bốn lợi ích hay bốn công n
1) Thiền có khả n
2) Thiền có khả n
3) Thiền
4) Thiền
Trong Kinh Pháp Cú, kệ 282,
Tu thiền, trí tuệ sanh,
Bỏ thiền, trí tuệ diệt.
Trong kệ 372, Ngài khuyên:
Không trí tuệ, không thiền,
Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền, có tuệ,
Nhất
Trong Tương Ưng Bộ, Tập 5, Ngài dạy rằng Bát Chánh
- Này Ànanda, cần phải hiểu như thế này: "Cỗ xe thù thắng, cỗ xe pháp
vô thượng - pháp thừa - là sự chinh phục trong chiến trận chống tham, sân,
si. Cỗ xe pháp nầy chính là Con
Rồi
*
Trong Trung bộ 24, Kinh "Trạm Xe", ngài Xá-lợi-phất giảng về 7 trạm xe,
ám chỉ 7 giai
1) "Giới thanh tịnh" là tuân giữ nghiêm túc các học giới
2) "Tâm thanh tịnh" là nhiếp phục n
3) "Kiến thanh tịnh" là phân biệt Danh-Sắc, sự thấy
4) "
5) "
6) "
7) "Tri kiến thanh tịnh" là tâm hoàn toàn thanh tịnh do thấy và
biểt. Trong giai
Bảy giai
*
Trong bài kinh số 107, thuộc Trung Bộ,
- giữ gìn giới hạnh,
- hộ trì các c
- tiết
- chú tâm cảnh giác,
- thành tựu chánh niệm tỉnh giác,
- tìm nơi thanh vắng
- loại trừ 5 triền cái,
- an trú vào 4 tầng thiền-na.
Và các bước tu tập này áp dụng cho bậc hữu học - tức là các vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai - lẫn các bậc vô học, tức là các vị thánh A-la-hán giải thoát.
Thêm vào
Sau khi an trú trong Tứ Thiền, với tâm
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục
lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân
Cũng xin ghi nhận ở
Người trú giới có trí
Tu tập tâm và tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ-khưu ấy thoát triền.
Ngài Phật Âm giải thích: "người trú giới có trí" là người có giới thanh
tịnh, có hiểu biết rõ ràng dựa trên vô tham, vô sân, vô si. "Tu tập tâm" ở
*
Đôi khi, trong kinh tạng,
Trong T
Có hai pháp này, này các Tỳ-khưu, thuộc thành phần minh. Thế nào là
hai? Chỉ và Quán. Chỉ
Trong kinh Kimsuka, Tương Ưng Bộ, Thiên Sáu Xứ, Ngài có ví dụ pháp tu
Chỉ-Quán như là hai vị thiên sứ cùng
*
Tóm lại, Thiền
Perth, Tây Úc, tháng 7-2004
-10-
Tỳ-khưu Dhammika
Bình Anson lược dịch
---*---
VẤN: Thiền là gì?
ĐÁP:
VẤN: Thiền có quan trọng không?
ĐÁP:
VẤN: Tôi nghe nói rằng hành thiền có thể rất nguy hiểm. Ðiều nầy có
ĐÁP:
Nhưng có lẽ phần lớn những vấn
Dù sao, nếu bạn không có vấn
VẤN: Có mấy pháp hành thiền?
ĐÁP:
VẤN: Làm thế nào
ĐÁP:
Bước tiếp theo là phần thực hành. Trong lúc ngồi yên tịnh với mắt nhắm
lại, bạn tập trung vào sự chuyển
VẤN: Tôi nên hành thiền bao lâu?
ĐÁP:
VẤN: Còn quán Từ bi là sao? Phương cách thực hành như thế nào?
ĐÁP:
VẤN: Pháp hành thiền quán từ bi này có lợi ích gì?
ĐÁP:
VẤN: Ðiều ấy có thể xảy ra như thế nào?
ĐÁP:
VẤN: Tôi có cần một vị thầy hướng dẫn hành thiền không?
ĐÁP:
VẤN: Tôi nghe nói rằng thiền
ĐÁP:
Perth, Tây Úc, tháng 9-2004
(Trích từ tập sách "Good Question, Good Answer",
Bhikkhu Dhammika, ấn bản Internet)
Nguồn: www.quangduc.com