Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Con Đường Hoằng Pháp
"Như
Lai đã thoát khỏi mọi trói buộc,
dầu ở cảnh Trời hay cảnh người.
Các con cũng vậy, hỡi các Tỳ Khưu,
Đã vượt qua khỏi mọi thằng thúc".
-- Mahavagga
---o0o---
Con
đường Hoằng Pháp vừa lợi ích vừa thành công của Đức
Phật kéo dài bốn mươi lăm năm. Từ lúc Thành Đạo, năm
ấy ba mươi lăm tuổi, chí đến khi Đại Niết Bàn, tám mươi
tuổi, Đức Phật không ngừng phục vụ nhân loại bằng cả
hai lối - gương lành và lời dạy. Suốt cả năm trường, đôi
khi một mình, lắm lúc cùng với môn đệ, Ngài đi từ nơi này
đến nơi khác để truyền bá Giáo Pháp trong dân gian và dẫn
dắt nhiều người ra khỏi vòng cương tỏa của luân hồi.
Theo khí hậu ở Ấn Độ, trong mùa
Vassàna, trời mưa tầm tã nên Đức Phật ở lại một nơi.
Đó cũng là phong tục của các nhà tu sĩ Ấn Độ thời bấy
giờ.
Thuở xưa, cũng như hiện nay, ở Ấn
Độ có ba mùa rõ rệt là Vassàna (mùa mưa), Hemanta (mùa đông)
và Gimhana (mùa nóng). Vassàna, hay mùa mưa bắt đầu từ tháng
Asalha và kéo dài đến tháng Assayuga nghĩa là từ khoảng
giữa tháng Bảy đến tháng Mười Một, Dương Lịch.
Trong mùa Vassàna (Hạ), vì mưa dầm
tầm tã nên mực nước sông rạch thường dâng lên cao, đường
sá ngập lụt, giao thông gián đoạn, và dân chúng phải sống
quanh quẩn trong nhà hay trong làng với chút ít vật thực gì
đã để dành được từ các mùa trước. Trong thời gian ấy,
các vị đạo sĩ khó lòng đi được đó đây để giảng đạo,
khó lòng di chuyển mà không xúc phạm đến sanh mạng của bao
nhiêu loài động vật, tìm sống ở một nơi ít còn khô ráo,
hay tổn hại đến cây cỏ mùa màng. Do đó, các tu sĩ, kể
cả các đệ tử của Đức Phật, thường tạm ngưng mọi
họat động phải di chuyển để rút về những nơi vắng vẻ.
Theo thường, Đức Phật và các đệ
tử Ngài được cung thỉnh về an cư kiết hạ ở các tu
viện hay những khu vườn ẩn dật. Đôi khi các Ngài cũng rút
vào rừng sâu. Vào những lúc ấy, Đức Phật ở đâu thì dân
chúng trong vùng kéo đến nghe Pháp và cố tận dụng thời
gian ấy để tạo phước.
Hai
Mươi Hạ Đầu Tiên.
Hạ Đầu Tiên - tại Benares (Ba
La Nại).
Sau khi Vận Chuyển Pháp Luân cho năm
vị đệ tử trong ngày trăng tròn tháng Asalha, Đức Phật
nhập Hạ đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, Isipatana, gần
Benares (Ba La Nại). Lúc ấy ở đây chưa có nhà cửa hay tu
viện. Trong Hạ này, Ngài cảm hóa Yasa.
Hạ Thứ Nhì, Thứ Ba Và Thứ Tư
- tại Rajagaha.
Rajagaha (Vương Xá Thành) là kinh đô
của Vương Quốc Magadha (Ma Kiệt Đà), dưới triều Vua
Bimbisara (Bình Sa Vương). Do lời thỉnh cầu của vua trước ngày
Bồ Tát Thành Đạo, Đức Phật trở lại viếng thành Rajagaha,
và trong dịp này Vua Bimbisara dâng lên Đức Phật và chư đệ
tử Ngài khu Rừng Tre, Veluvana (Trúc Lâm). Nơi đây vắng vẻ,
thật là chỗ trú ngụ lý tưởng của hàng tu sĩ vì không quá
xa cũng không quá gần đô thị. Đức Phật nhập Hạ ba năm
liên tiếp tại nơi này.
Hạ Thứ Năm - tại Vesali.
Mùa Hạ này Đức Phật ngự trong
một tịnh thất tại Mahavana (Đại Lâm) gần thành Vesali (Vệ
Xá). Ở đây, được tin Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) lâm
bệnh trầm trọng, Ngài đi lần về đến tận phòng, thuyết
Pháp cho cha nghe. Đức vua tức khắc đắc Quả A La Hán, nhập
Diệt Thọ Tưởng Định (đại định) trong bảy ngày và viên
tịch luôn.
Cũng trong Hạ này Đức Phật cho phép
sáng lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni, theo lời thỉnh nguyện của Bà
Maha Pajapati Gotami.
Sau khi cử hành lễ hỏa táng đức
vua xong, Bà Maha Pajapati Gotami đến hầu Phật, lúc ấy đang
tạm ngự tại Nigrodharama, và xin phép cho hàng phụ nữ được
gia nhập vào Giáo Hội. Nhưng Đức Phật từ chối và trở
về tịnh thất tại thành Vesali. Bà Pajapati Gotami muốn xuất
gia đến đỗi, cùng với các mệnh phụ phu nhân dòng Sakya (Thích
Ca) và dòng Koliya, đi bộ từ Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) đến
Vesali, và nhờ sự hỗ trợ của Đức Ananda, được phép
xuất gia và thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.
Hạ Thứ Sáu - tại đồi Mankula,
trong Kosambi, gần Allahabad.
Cũng như trước kia Ngài dùng "Đôi
Phép Lạ" - Yamaka Patihariya [1] (làm cho lửa và nước từ
lỗ chân lông phun ra) để chế ngự tính ngã mạn của thân
bằng quyến thuộc tại quê nhà, nơi đây Ngài dùng lại phép
ấy lần thứ nhì để thâu phục những người khác đạo.
Hạ Thứ Bảy - tại cung Trời
Tavatimsa (Đạo Lợi).
Vài ngày sau khi hạ sanh Thái Tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thì Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da) thăng hà
và tái sanh vào cung Trời Tusita (Đấu Xuất Đà). Trong Hạ
thứ bảy Đức Phật thuyết Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) cho chư
Thiên ở cung Trời Đạo Lợi, và vị Trời trước kia là Hoàng
Hậu Ma Da, từ Đấu Xuất Đà đến Đạo Lợi nghe Pháp.
Mỗi ngày Đức Phật trở về quả
địa cầu, tóm tắt bài Pháp để cho Đức Sariputta (Xá Lợi
Phất) giảng rộng giáo lý ấy cho hàng đệ tử. Tạng Vi
Diệu Pháp còn lưu truyền đến nay là bài Pháp đầy đủ chi
tiết do Đại Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) truyền dạy. Kinh
sách ghi rằng sau khi nghe xong những thời Pháp này, vị Trời
trước kia là mẹ của Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) đắc
Quả Tu Đà Hườn.
Hạ Thứ Tám - tại rừng
Bhesakala, gần tảng đá Sumsumara, trong quận Bhagga.
Hạ Thứ Chín - tại Kosambi.
Trong Hạ này có bà Magandiya tự tạo cho mình một mối hận
thù sâu sắc đối với Đức Phật và tìm mọi cơ hội để
bêu xấu thanh danh của Ngài. Magandiya là một thiếu nữ xinh
đẹp sanh trưởng trong một gia đình thuộc giai cấp Bà la môn.
Cha mẹ nàng kén rể, muốn chỉ gả nàng cho người thật
xứng đáng.
Ngày kia, lúc quan sát thế gian, Đức
Phật nhận thấy hai ông bà đã hội đủ duyên lành, tinh
thần phát triển đầy đủ. Vì lòng từ bi muốn tế độ hai
ông bà nên Đức Phật ngự đến nơi, lúc ông đang cúng tế
Thần Lửa. Vị Bà la môn lấy làm say mê trước hình dáng
tốt đẹp của Đức Phật và nghĩ thầm rằng đây quả
thật xứng đáng là rể đông sàng mà ông hết lòng mong mỏi
từ lâu. Ông liền thỉnh Đức Phật ở nán lại chờ ông đi
một chút sẽ trở lại và vội vã chạy kêu con gái. Lúc ấy
Đức Phật cố ý giậm dấu chân trên mặt đất rồi đi sang
một chỗ khác gần đó. Khi người bà la môn dẫn vợ và cô
con gái ăn mặc đẹp đẽ đến nơi thì chỉ nhìn thấy dấu
chân. Bà vợ giỏi về khoa tướng số, biết rằng dấu chân
này không phải của người tầm thường mà phải là của người
rất trong sạch, đã tận diệt mọi dục vọng. Ông Bà la môn
chế nhạo vợ và nhìn thấy Đức Phật cách đó không xa, ông
dẫn con đến, đề nghị gả cho Ngài. Đức Phật mô tả cách
Ngài chế ngự dục vọng như sau:
"Đã nhận thấy
Ái Dục, Bất Mãn và Tham Vọng [2]
Ta không thích thú trong dục lạc của ái tình.
Cơ thể đầy ô trược này là gì?
Ta không bao giờ muốn sờ chạm đến nó,
Dầu chỉ đụng bằng chân." [3]
Nghe đến đây, hai ông bà Bà la môn
chứng ngộ Đạo Quả A Na Hàm, tầng thánh thứ ba. Nhưng cô
Magandhiya không hiểu, ngỡ rằng như thế là chửi mắng, làm
nhục cô, nên lấy làm tức giận. Bị chạm tự ái, cô nghĩ:
"Nếu người này không cần đến ta thì cứ nói thật, và
như vậy là hoàn toàn thích đáng. Tại sao ông ta lại tuyên
bố rằng cơ thể này đầy ô trược? Hay lắm! Ông ta sẽ
thấy, do sự sanh trưởng trong giai cấp Bà la môn, do gia tộc,
do địa vị xã hội, tài sản và duyên dáng trẻ son của ta,
ta sẽ có một người chồng xứng đáng và chừng đó ta sẽ
biết làm những gì phải làm đối với Sa Môn Gotama (Cồ Đàm)."
Về sau bà trở nên thứ hậu của
Vua Udena. Dựa trên quyền thế lúc bấy giờ, bà đút lót và
xúi giục người mắng chửi và xua đuổi Đức Phật ra khỏi
thành phố. Khi Đức Phật vào thành, những người ấy hô to
ngay đến Ngài:
"Ông là tên trộm, là tên khờ
dại, là người điên cuồng, là con lạc đà, là bò, là lừa,
là chúng sanh ở địa ngục, là thú vật. Ông không mong gì
được lên nhàn cảnh. Hình phạt và khổ cảnh là tất cả
những gì ông có thể mong đợi."
Đại Đức Ananda không thể chịu đựng
những lời nguyền rủa tục tằn như vậy, đến hầu Phật và
bạch:
"Bạch Đức Thế Tôn, người ta
đang chửi rủa và nhục mạ chúng ta thậm tệ. Xin Ngài cho
dời đi nơi khác."
- Này Ananda, bây giờ ta nên đi đâu?
- Bạch Đức Thế Tôn, đến một
thị trấn khác.
- Nếu ở nơi ấy người ta cũng
chửi rủa và nhục mạ ta như vậy rồi ta sẽ đi đâu?
- Bạch Đức Thế Tôn, lại đi đến
một nơi khác nữa.
- Này Ananda, không nên nói vậy. Nơi
nào gặp chuyện khó khăn, chính nơi ấy ta phải giàn xếp
ổn thỏa. Và chỉ khi giàn xếp xong ta mới có quyền đi nơi
khác. Nhưng này Ananda, ai chửi rủa nhục mạ ta?
- Bạch Đức Thế Tôn, ai cũng chửi
rủa ta. Những người cùng đinh nô lệ và tất cả mọi người.
Đức Phật nhân cơ hội dạy Đại
Đức Ananda hành pháp nhẫn nhục như sau:
"1. Như voi chiến ở trận địa,
hứng lãnh làn tên mũi đạn từ bốn phía dồn dập bắn
tới, dường thế ấy, ta phải chịu đựng những lời
nguyền rủa chửi mắng từ mọi nơi. Đúng thật vậy, phần
đông sống không giới đức.
2. Nhiều voi ngựa được dẫn đến
chỗ vua quan tụ tập. Giữa đám đông voi ngựa ấy, vua chọn
con nào thuần thục nhất để cưỡi. Giữa đám đông con người,
cao thượng nhất là người có giới đức thuần thục, chịu
đựng những lời nguyền rủa.
3. Quý báu thay! Những con lừa thuần
thục, những con ngựa rặc giống của xứ Sindh và những
thớt tượng sang trọng có ngà. Những con người thuần thục,
giới đức trang nghiêm là hơn tất cả." [4]
Và Đức Phật dạy thêm Đức Ananda:
"Không nên lo ngại, những người
này chỉ chửi mắng trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám họ
sẽ lặng yên. Một chuyện khó khăn xảy đến Đức Phật không
thể kéo dài quá bảy ngày." [5]
Hạ Thứ Mười - tại rừng
Parileyyaka.
Trong lúc Đức Phật ngự tại Kosambi,
một vụ tranh luận xảy ra giữa hai nhóm tỳ khưu - một nhóm
giỏi về Kinh và một nhóm giỏi về Luật - vì có một vị
phạm nhằm một giới nhỏ có liên quan đến cách thức sử
dụng phòng vệ sinh. Những người ủng hộ cũng chia làm hai
phe. Đức Phật bổn thân đứng ra giàn xếp cũng không xong.
Hai bên đều tỏ ra có tánh gây gỗ, và niềm bất hòa ngấm
ngầm tiếp diễn. Đức Phật suy nghĩ:
"Trong tình trạng hiện tại, đám
đông người này cố tâm muốn lấn áp nhau, khiến cho những
ngày an cư kiết hạ của ta trở nên bất ổn. Hơn nữa chúng
Tăng ở đây không để ý đến lời dạy của ta. Hay là ta
rời khỏi đám đông để ẩn dật trong rừng sâu".
Liền đó, không cho chư Tăng biết,
Ngài một mình ra đi, đến khu rừng Parileyyaka, và nhập Hạ dưới
gốc một cây sala (long thọ) tươi đẹp.
Theo tích chuyện được kể lại,
trong thời gian này có một con voi và một con khỉ theo hầu
cận và lo lắng mọi nhu cầu cho Đức Phật. [6]
Hạ Thứ Mười Một - tại
Ekanala, một làng theo đạo Bà La Môn.
Bài kinh Kasibharadvaja Sutta [7] thuật
lại như sau:
Một thời kia Đức Phật ngự tại
Ekanala trong Dakkhinagiri, một làng theo Bà La Môn Giáo của xứ
Magadha. Lúc ấy lối năm trăm tay cày làm việc cho ông Bà la môn
Kasibharadvaja sắp sửa ra đồng. Đức Phật đắp y mang bát đến
nơi người ta đang phân phối vật thực và đứng sang một bên.
Vị Bà la môn Kasibharadvaja thấy vậy nói: "Này Tôn Giả,
tôi cày và gieo. Sau khi cày và gieo, tôi ăn. Ông cũng vậy, này
Tôn giả, ông cũng phải cày và gieo, sau khi đã cày và gieo,
ông sẽ ăn."
- Này Ông Bà La Môn, Như Lai cũng cày
và gieo vậy. Đã cày và gieo xong, Như Lai ăn.
- Nhưng nào tôi có thấy đâu cái cày,
cái ách hay cái lưỡi cày, cũng không thấy bò hay cây roi bò
của Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm), mặc dầu Tôn Giả nói: "Như
Lai cũng cày và gieo. Đã cày và gieo xong, Như Lai ăn".
Tôn Giả tự xưng là nông dân, nhưng
chúng tôi có thấy đâu lằn cày của Tôn Giả. Vậy xin Tôn
Giả cho chúng tôi biết ông cày ở đâu?
Đức Phật trả lời:
"Đức tin (saddha) là hột giống,
giới luật (tapo) là mưa, trí tuệ (panna) là ách cày và cây cày,
hạnh khiêm tốn (hiri) là cán cày, tâm (mano) là dây cương, và
niệm (sati) là lưỡi cày và roi bò.
"Như Lai sống với lục căn thu
thúc, nói năng và ẩm thực tiết độ. Như Lai đã dùng hạnh
chân thật để cắt đứt những cọng cỏ dại. Thành đạt
Đạo Quả Tối Thượng (A La Hán) là mở dây thả bò.
"Tinh tấn (viriya) là loài thú
chở nặng đã đưa Như Lai đến trạng thái không bị trói
buộc (Niết Bàn).
"Trực chỉ thẳng tiến, bất
thối chuyển và đã đi, không còn sầu muộn.
"Đó, lằn cày của Như Lai được
thực hiện như thế đó. Hậu quả của nó là trạng thái
Bất Tử.
"Đã kéo xong lằn cày thì không
còn phiền muộn âu sầu nữa."
Nghe xong, vị Bà La Môn Kasibharadvaja
bới đầy một chén cơm trộn sữa, dâng đến Đức Phật và
nói: "Vậy xin Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm) độ chén cơm
trộn sữa này! Tôn Giả quả thật là một nông dân vì Ngài
đã trồng một loại cây trổ trái 'Bất Tử'."
Tuy nhiên, Đức Phật từ chối không
nhận chén cơm. Ngài dạy:
"Vật thực nhận lãnh do sự
thuyết giảng giáo lý là không thích nghi để Như Lai dùng. Này
Ông Bà La Môn, đó là thông lệ của Bậc Đại Giác. Đấng
Chánh Biến Tri không thể dùng vật thực ấy. Khi nào truyền
thống này còn được giữ gìn thì đó là chánh mạng.
"Chỉ dùng những vật thực và
ẩm thực hoàn toàn trong sạch bởi vì bậc thánh nhân tĩnh
lặng là thửa ruộng phì nhiêu để cho những ai muốn, có
thể gieo trồng hột giống tốt."
Hạ Thứ Mười Hai - tại Veranja.
Một vị Bà la môn ở Veranja nghe Đức
Phật ngụ tại quê mình cùng với đông đảo chúng Tăng,
gần cây Nimba của Naleru nên đến hầu Ngài và nêu lên
nhiều câu hỏi có liên quan đến phẩm hạnh của Đức Phật.
Sau khi được nghe lời giải đáp, vị Bà la môn lấy làm hoan
hỷ, xin quy y Tam Bảo và cung thỉnh Đức Phật và chư Tăng
ở lại nhập Hạ tại Veranja. Đức Thế Tôn nhận lời bằng
cách giữ im lặng.
Bất hạnh thay, ngay lúc ấy tại
Veranja có nạn đói. Do đó Đức Phật và chư Tăng phải dùng
thức ăn của ngựa. Một người lái ngựa có lòng tốt dâng
thức ăn của ngựa còn lại và Đức Phật chia sớt phần
vật thực ấy một cách hoàn toàn bình thản.
Trong khoảng thời gian ấy, Ngài Xá
Lợi Phất, một hôm, sau khi xuất thiền, đến hầu Phật và
cung kính bạch: "Bạch hóa Đức Thế Tôn, Giáo Pháp của
vị Phật nào tồn tại lâu dài và Giáo Pháp nào không tồn
tại?" Đức Phật trả lời rằng Giáo Pháp của chư
Phật Vipassi, Sikhi và Vessabhu không tồn tại lâu dài còn Giáo
Pháp của chư Phật Kakusandha, Konagamana và Kassapa tồn tại lâu
dài. [8]
Đức Phật dạy rằng sự kiện này
do một vài vị Phật không giảng dạy cặn kẽ giáo lý và không
ban hành giới luật để giữ hàng môn đệ trong nếp sống
kỷ cương và có những vị Phật đã làm đầy đủ các điều
ấy.
Nhân đó Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất)
cung kính xin Đức Phật ban hành những giới căn bản (Patimokkha,
giới bổn) để trong tương lai có thể giữ chư Tăng trong
nếp sống kỷ cương, và đời sống Thiêng Liêng Phạm Hạnh
được tồn tại lâu dài.
- Hãy nhẫn nại, Sariputta(Xá Lợi
Phất), hãy nhẫn nại.
Và Đức Phật dạy thêm:
"Chỉ có Như Lai biết chừng nào
là đúng lúc. Cho đến khi có một vài trường hợp hoen ố phát
sanh trong hàng Tăng chúng Như Lai không ban hành những "Phương
Tiện Kỷ Luật" và đặt ra "Giới Luật Căn bản"
(Patimokkha) cho hàng môn đệ. Chừng nào có trường hợp hoen
ố xảy diễn trong hàng Tăng chúng, chỉ đến chừng ấy Như
Lai mới ban hành những "Phương Tiện Kỷ Luật" và đặt
ra "Giới luật Căn Bản" để tận diệt các ô nhiễm
ấy.
"Này Sariputta (Xá Lợi Phất),
chừng nào chúng Tăng đạt đến mức cao thượng lâu dài (rattannu-mahattam),
phát triển đầy đủ (vepulla-mahattam), tăng trưởng lợi ích
(labhagga-mahattam), và pháp học uyên bác (bahussuta-mahattam) thì
trường hợp hoen ố sẽ phát sinh trong Tăng chúng. Đến
chừng ấy Như Lai sẽ ban hành những Phương Tiện Kỷ Luật và
Giới Luật Căn Bản để ngăn ngừa những điều ô nhiễm
ấy.
"Này Sariputta (Xá Lợi Phất),
hiện nay Giáo Hội các đệ tử không có điều gì bất ổn,
không có những khuynh hướng xấu xa, không ô nhiễm, trong
sạch và giới hạnh trang nghiêm. Người cuối cùng trong năm
trăm đệ tử cũng đã Nhập Lưu, không còn phải bị rơi
lại nữa, đã vững chắc và đang tiến đến giác ngộ."
[9]
(Mùa nhập Hạ tại Veranja là đầu
đề cho "Lời Giới Thiệu" quyển Parajika trong tạng
Luật).
Khi ra Hạ này Đức Phật tiếp tục
du phương hoằng đạo đến Soreyya, Samkassa, Kannakujja, Payaga, và
qua sông, ghé lại ít lâu tại Bénares và từ đó trở về
Vesali ngự tại đồi Tháp trong Mahavana (Đại Lâm).
Hạ Thứ Mười Ba - tại tảng
đá Caliya.
Hạ Thứ Mười Bốn - tại
Jetavana, kỳ Viên, Savatthi.
Đại Đức Rahula (La Hầu La) thọ
Cụ Túc Giới năm này khi Ngài đúng hai mươi tuổi.
Hạ Thứ Mười Lăm - tại
Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ).
Cái chết thê thảm của Vua
Suppabuddha (Thiện Giác) xảy ra trong Hạ này. Vua oán giận Đức
Phật vì Ngài ra đi, bỏ con gái vua là Công Chúa Yasodhara (Da
Du Đà La).
Cũng nên ghi nhận rằng Đức Phật
chỉ nhập Hạ một năm nơi chôn nhau cắt rún của Ngài.
Hạ Thứ Mười
Sáu - tại thành Avali.
Trong Hạ này Đức Phật thâu phục
quỷ Alavaka (Dạ Xoa), có tiếng là thường ăn thịt người.
Alavaka là một con quỷ hung tợn,
lấy làm tức giận khi thấy Đức Phật ở trong nhà của nó.
Quỷ Alavaka liền đến trước mặt Đức Phật và bảo Ngài
ra đi. Đức Phật nói: "Được, tốt lắm", và đi ra.
Alavaka lại biểu đi vào. Đức Phật trở vô. Lần thứ nhì,
rồi lần thứ ba, nó lại biểu như vậy. Đức Phật tuân
lời. Nhưng đến lần thứ tư, Ngài từ chối và bảo Alavaka
muốn làm gì thì cứ làm.
-- Được, này ông Sa Môn, tôi hỏi
ông một câu, nếu ông không giải đáp được, tôi sẽ phân
tán tâm ông, hoặc cắt xẻ tim ông, hoặc nắm chân ông quăng
tuốt qua phía bên kia sông Hằng.
- Không thể được, trên thế gian này
Như Lai không thấy ai, dầu là chư Thiên, sa môn, bà la môn hay
trong đám đông Trời và người, không ai có thể phân tán tâm
Như Lai, hoặc cắt xẻ tim Như Lai, hoặc nắm chân Như Lai cố
quăng qua phía bên kia sông Hằng. Tuy nhiên, Đạo Hữu muốn
hỏi việc gì cứ hỏi.
Alavaka liền nêu lên câu hỏi sau đây:
"Vật sở hữu quý nhất của con
người là gì?
Điều gì, nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh phúc?
Hương vị nào ngọt ngào hơn tất cả?
Sống thế nào gọi là cao thượng nhất?"
Đức Phật trả lời:
"Đức tin là vật sở hữu quý
nhất của con người.
Giáo Pháp, nếu thực hành đúng, sẽ đem lại hạnh phúc.
Đức hạnh chân thật quả là hương vị ngọt ngào nhất.
Sống với trí tuệ được xem là cao thượng nhất."
Alavaka lại hỏi tiếp:
"Làm cách nào vượt qua trận
thủy tai?
Làm sao vượt trùng dương?
Làm cách nào chế ngự sầu muộn?
Tự thanh lọc bằng cách nào?"
Đức Thế Tôn trả lời:
"Vượt qua trận thủy tai nhờ
niềm tin.
Nhờ đức kiên trì, vượt trùng dương.
Chế ngự sầu muộn bằng tinh tấn.
Tự thanh lọc bằng trí tuệ."
Alavaka lại hỏi thêm:
"Thành đạt trí tuệ bằng cách nào?
Làm sao mưu tìm sự nghiệp?
Thành đạt danh vọng bằng cách nào?
Cái gì làm cho tình bằng hữu trở nên khắng khít?
Từ thế gian này sang cõi khác,
Làm thế nào tránh khỏi sầu muộn? [10]
Đức Phật đáp:
"Người kiên trì, sáng suốt có
niềm tin, thành đạt trí tuệ bằng cách lắng nghe Giáo Pháp
của bậc Đại Giác, có khả năng dẫn đến Niết Bàn.
Người làm công việc thích nghi một
cách kiên trì, cần mẫn, sẽ tìm được sự nghiệp.
Nhờ hạnh chân thật, thành đạt
danh vọng.
Đức quảng đại khoan dung làm cho tình
bằng hữu trở nên khắng khít.
Người cư sĩ thành thật, có được
bốn phẩm hạnh: chân thật, giới đức, can đảm và rộng rãi
bố thí, sẽ không buồn phiền sầu muộn sau khi qua đời.
Được rồi, Đạo Hữu hãy đi hỏi
các vị sa môn và bà la môn khác xem họ có gì quý báu, cao thượng
hơn chân thật, tự kiểm soát, quảng đại và nhẫn nại không?"
Alavaka đã am hiểu những lời Phật
dạy nên bạch:
"Đã thấu hiểu bí quyết để mưu
cầu an lạc trong tương lai, vậy tôi còn phải đi hỏi các
vị sa môn và bà la môn khác làm gì? Đức Thế Tôn hôm nay
quang lâm đến Alavi chính vì sự an lành của tôi. Tôi đã
thấu hiểu rằng của bố thí sẽ đem lại quả lành phong phú.
Từ làng này sang làng khác, từ đô thị này đến thị trấn
kia, tôi sẽ thênh thang đó đây để tán dương công đức
của bậc Chánh Biến Tri và tánh cách toàn thiện của Giáo Pháp
Cao Thượng."
Hạ Thứ Mười Bảy - tại
Rajagaha.
Hạ Thứ Mười Tám - tại tảng
đá Caliya.
Hạ Thứ Mười Chín Và Hai Mươi
- tại Rajagaha.
---o0o---
Đức
Phật và Angulimala [11]
Đức Phật thâu phục tên sát nhân
hung tợn Angulimala trong hạ thứ hai mươi. Lúc nhỏ ông này tên
Ahimsaka (người vô tội). Cha ông là quốc sư của vua xứ
Kosala. Ông ăn học ở Taxila, một trung tâm giáo dục trứ danh
thời xưa, và trở thành vị đệ tử lỗi lạc và thân tín
nhất của một ông thầy rất danh tiếng. Bất hạnh thay, vì
thế mà bạn bè ông nảy sanh lòng ganh tị, bày điều gièm
xiểm và thành công đầu độc tư tưởng của thầy. Ông này
tin lời, lấy làm tức giận, và không kịp nghĩ suy hay dò xét,
mưu hại Ahimsaka bằng cách truyền lệnh cho ông này phải đem
đến một ngàn ngón tay người, ngón út ở bàn tay mặt, dâng
lên ông để làm lễ thọ giáo. Mặc dầu không vui, Ahimsaka gượng
gạo vâng lời thầy, đi vào rừng Jalini, tại Kosala, và bắt
đầu chuỗi dài những cuộc sát nhân ghê tởm, để chặt
lấy ngón tay. Ban đầu ông xỏ xâu các ngón tay lại, treo lên
cành cây. Nhưng vì kên kên và quạ đến ăn nên ông đeo trên
cổ như một tràng hoa làm bằng ngón tay người, giữ cho
khỏi bị mất và để dành cho đủ số cần thiết. Do đó có
tên "Angulimala", có nghĩa là "tràng hoa kết bằng
ngón tay".
Kinh sách [12] ghi rằng khi ông để dành
được chín trăm chín mươi chín ngón thì Đức Phật xuất
hiện. Nhìn thấy Đức Phật, Angulimala mừng lắm, nghĩ rằng
đây là cơ hội để ông hoàn tất sứ mạng.
Ông liền rảo bước thẳng tới Đức
Phật, tay rút gươm ra khỏi vỏ.
Đức Phật dùng thần thông tạo
những trở ngại làm cho Angulimala chạy theo không kịp, dầu
cố hết sức rượt bắt. Mệt mỏi hết sức, mồ hôi nhễ
nhại, ông dừng chân lại và cất tiếng gọi: "Hãy dừng
lại, ông sa môn".
Đức Thế Tôn từ tốn đáp:
"Mặc dầu Như Lai đi, Như Lai đã
dừng bước. Còn con, Angulimala, hãy dừng bước."
Tên sát nhân suy nghĩ: "Các vị
sa môn này luôn luôn nói thật. Vị này nói rằng ông ta đã
dừng bước, còn ta thì không dừng. Thế là nghĩa làm sao?"
Angulimala liền hỏi thêm: "Này Ông
Sa Môn. Ông còn đi, chính tôi đã dừng. Ông lại nói rằng tôi
không dừng còn ông thì đã dừng. Xin hỏi, này Ông Sa Môn,
lời nói của ông có ý nghĩa gì?"
Đức Phật dịu dàng đáp: "Đúng
vậy, Angulimala, Như Lai đã dừng bước, dừng luôn, mãi mãi.
Như Lai đã từ khước, dứt bỏ, không còn hành hung hay gây
tổn thương cho một sanh vật nào. Còn chính con không giữ
lại bàn tay đẫm máu, vẫn sát hại đồng loại. Vậy, Như
Lai đã dừng, còn con thì vẫn tiếp tục."
Đến đây nghiệp tốt của Angulimala
mau chóng trồi lên mặt. Ông nghĩ rằng vị sa môn này chắc
không phải ai khác hơn là Đức Phật Gotama (Cồ Đàm), quang lâm
đến đây vì lòng bi mẫn, muốn tế độ mình. Nghĩ vậy, ông
liền vứt đi tất cả võ khí, rồi đến gần Đức Phật, đảnh
lễ Ngài và xin quy y. Về sau Đức Phật chấp nhận ông vào
Giáo Hội Tăng Già Cao Thượng bằng cách thốt ra lời: "Ehi
Bhikkhu!" "Hãy đến đây Tỳ Khưu!"
Tin Angulimala xuất gia tỳ khưu với
Đức Phật được truyền rộng ra khắp xứ. Riêng Vua Kosala
cảm thấy nhẹ nhàng như thoát khỏi nạn, vì Angulimala quả
thật là một đại họa cho dân chúng trong xứ.
Nhưng tâm của Tỳ khưu Angulimala
vẫn không an tĩnh bởi vì luôn luôn Ngài tưởng nhớ đến dĩ
vãng tội lỗi của mình và những tiếng kêu la than khóc của
các nạn nhân. Chí đến những lúc một mình hành thiền ở nơi
vắng vẻ cũng không quên được. Ngày kia, khi đi trì bình ngoài
đường, ngài bị người ta dùng gậy gộc đánh đập và
chọi đá vào mình, phải đi về chùa với đầu cổ đầy thương
tích, máu chảy dầm dề, mình mẩy chỗ bị bầm dập, nơi
bị cắt đứt, một cơ hội để Đức Phật nhắc lại rằng
đó là hậu quả bất thiện của những hành vi hung bạo của
ngài trong quá khứ.
Ngày nọ, lúc đi bát, Tỳ Khưu
Angulimala thấy một người phụ nữ sắp lâm bồn đang gặp
khó khăn, rên xiết bên đường. Động lòng bi mẫn, Ngài đem
câu chuyện đau thương ấy bạch lại với Đức Phật. Đức
Phật khuyên Ngài hãy quày trở lại, đọc những lời xác
nhận sau đây - những câu này vẫn còn được lưu truyền đến
nay dưới tựa đề Angulimala Paritta:
"Này Đạo Hữu, từ ngày được
sanh vào Thánh tộc (nghĩa là từ ngày tôi xuất gia), tôi chưa
hề cố ý tiêu diệt đời sống của một sinh vật nào. Do
lời chân thật này, ước mong cô được vuông tròn và con
của cô bình an vô sự."
Ngài Angulimala học thuộc lòng bài
kinh, rồi đi đến nơi, ngồi cách người phụ nữ một bức
màn, đọc lại. Người mẹ đau khổ liền sanh được dễ dàng.
Đến nay bài kinh Paritta [13] này vẫn còn công hiệu.
Về sau, vào đúng thời kỳ, Đại Đức
Angulimala đắc Quả A La Hán. Khi nhắc đến đường lối Đức
Phật cảm hóa Ngài, Đại Đức Angulimala nói:
"Có những sanh vật
bị khắc phục bằng võ lực,
Bằng cù móc hay roi vọt.
Nhưng ta đây, được thuần hóa do một nhân vật
Không cần đến gậy gộc, cũng không dùng gươm đao [14]
---o0o---
Trong hai mươi lăm năm còn lại, Đức
Phật sống phần lớn ở Savatthi, tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh
Xá) do trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) kiến tạo và
phần khác tại Pubbarama do bà Visakha dâng.
Chú thích:
[1] Xem Chương 8.
[2] Tanha (Ái Dục), Arati (Bất Mãn) và
Raga (Tham Vọng) là ba người con gái của Ma Vương.
[3] Buddhist Legends, phần i, trang 274.
[4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 320,
321, 322.
[5] Xem Buddhist Legends, tập i, tr. 176.
[6] Dhammapadatthakatha, bản Chú giải
Kinh Pháp Cú, Kosambaka Vatthu.
[7] Sutta Nipata, trang 12.
[8] Vinaya Pitaka, Tạng Luật, bài kinh
Suttavibhanga (Parajika) tr. 1-11, Miss I. B. Horner, Book of The
Discipline, phần 1, trang 1-23.
[9] Đức Phật muốn ám chỉ Đại Đức
Ananda.
[10] Xem Kindred Sayings, phần I, trang
276-277.
[11] Psalms of the Brethren, trang 318-325.
Xem Angulimala Sutta, Majjhima Nikaya, kinh 86, tập 2, trang 97.
[12] Psalms of the Brethren, trang 320-321.
[13] Kinh Bảo vệ.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com