Nguyên
tác: "Essential Themes of Buddhist Lectures",
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila--- o0o
---
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
ÐẠO PHẬT
-ooOoo-
Bài 1:
ÐỨC PHẬT
Ðức Phật là ai?
Phật là người đã đạt đến giác ngộ.
Giác ngộ ở đây muốn nói đến trạng thái lý tưởng của sự hoàn thiện cả về
tri thức lẫn đạo đức, trạng thái nầy có thể được đạt đến bởi con người và
bằng những phương tiện hoàn toàn nhân bản. Ðể làm sáng tỏ sự kiện Ðức Phật
đã đạt đến giác ngộ như thế nào, chúng ta hãy quay trở lại cuộc đời của
Ngài.
Khoảng 623 năm trước công nguyên, tại vườn
Lâm Tỳ Ni (Lumbìnì) gần kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapila-vatthu),
nơi mà ngày nay được mọi người biết đến như Padaria, một huyện lỵ thuộc
Nepal, một vị Hoàng tử dòng Thích Ca (Sakya) Ấn Ðộ, tên là Sĩ Ðạt
Ða Cồ Ðàm (Siddhattha Gotama) đã ra đời, để đánh dấu địa điểm này
như là nơi khai sinh của bậc đại đạo sư nhân loại, Hoàng đế A-Dục
(Akosa) năm 239 trước công nguyên đã cho dựng một thạch trụ khắc dòng
chữ, "Nơi đây bậc giác ngộ đã đản
sanh". Phụ thân của Ngài là
Suddhodana (Tịnh Phạn), vua xứ Ca Tỳ La Vệ, thủ phủ chính của dòng
tộc Thích Ca; và mẫu hậu, người đã chết sau khi sanh Ngài được 7 ngày, là
Mada hoàng hậu, bà cũng thuộc dòng Thích Ca. Dưới sự chăm nom săn sóc và
bảo dưỡng của di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Ðềø (Pajàpatì Gotamì), thái tử
Sĩ Ðạt Ða đã trải qua thời kỳ thơ ấu trong an lạc, xa hoa và được giáo dục
kỹ lưỡng. Năm mười sáu, Ngài kết hôn với người bà con của mình là công
chúa Da Du Ðà La (Yasodhara) con gái của vua Thiện Giác
(Suppabuddha) vua xứ Devadaha, họ có một hoàng nam tên là Rahula
(La Hầu La).
Trong gần 13 năm, thái tử Sĩ Ðạt Ða đã thụ
hưởng cuộc sống vương giả của một ông hoàng Ấn Ðộ, chỉ thấy quanh mình
những cái đẹp và khả ái. Tuy nhiên, năm 29 tuổi, sự thật đã dần dần hé mở
trước mắt, Ngài nhận chân ra rằng tất cả mọi người không ngoại lệ ai đều
phải chịu sanh, lão, bệnh, tử, và rằng mọi lạc thú của thế gian chỉ là đầu
mối dẫn đến khổ đau. Thấu rõ được nỗi khổ đau chung của nhân loại như vậy,
Ngài khởi lên một khát khao muốn tìm cho ra nguồn gốc của nó, cũng như một
phương thuốc thần diệu chữa trị cho căn bệnh chung nầy. Thế là Ngài từ bỏ
đời sống trần tục để khoác vào mình chiếc y vàng giản dị của một du sĩ khổ
hạnh.
Lang thang làm kẻ đi tìm an lạc cho đời,
Ngài đã tự hạ mình chịu sự hướng dẫn tâm linh của hai vị thầy Bà la môn
tiếng tăm thuở đó là A la lam (Àlàra) và Uất Ðầu Lam Phất
(Uddaka). Àlàra đạo sĩ là người lãnh đạo của một số lớn tìn đồ tại
Vesàli (Tỳ Xá Ly), ông là người trung thành với Kapilà, người sáng
lập lừng danh thời đó về hệ thống triết lý chủ trương thường hằng
(Sassata: thường hằng luận), Kapilà nhấn mạnh đến niềm tin vào bản ngã
hay linh hồn. Ông ta coi việc bất tín đối với sự tồn tại của một linh hồn
như là không có khuynh hướng hướng đến tôn giáo. Theo ông, nếu không có
niềm tin vào một linh hồn vĩnh cửu và bất tử, người ta sẽ không thể tìm ra
phương pháp cứu độ nào cả, tựa như con chim rừng hoang dã khi thoát khỏi
cái bẫy lâu nay giam giữ nó, linh hồn con người một khi đã thoát khỏi
những giới hạn vật chất của nó chắc chắn sẽ tự tại hoàn toàn, khi cái linh
hồn này nhận rõ được bản chất vô hình của mình sẽ vươn đến sự giải thoát
chân thực. Ðối với Bồ Tát thì những lời như vậy không làm cho Ngài cảm
thấy thoả mãn, thế là Ngài từ giã Àlàra để đến học đạo với Uddhaka (Uất
Ðầu Lam Phất).
Vị thầy sau nầy cũng chỉ lòng vòng quanh
vấn đề cái "Ta", tuy nhiên có nhấn mạnh hơn đến hiệu quả của nghiệp
(Kamma) và sự đầu thai của linh hồn. Bồ Tát thấy học thuyết về
nghiệp của ông có cái gì đó xác thực, nhưng Ngài lại không tin nổi về sự
hiện hữu của một linh hồn cũng như sự đầu thai của linh hồn; vì vậy mà
Ngài lại giã từ Uddaka và đi đến các vị giáo sĩ Bà La Môn đang chủ toạ các
nghi lễ cúng tế nơi các đền thờ để xem ở đó Ngài có thể học được chút gì
liên quan đến phương pháp giải thoát khỏi khổ đau và sầu muộn không. Tuy
nhiên, trước những lễ hiến tế tàn ác và vô ích mà họ đang thực hiện trên
các bàn thờ thần linh khiến cho bản chất từ hoà của Ngài phải kinh tởm, và
tại đây Ngài đã giảng gải cho các vị giáo sĩ đó nghe về sự vô bổ và phi lý
của việc chuộc tội bằng cách huỷ diệt cuộc sống của chúng sanh khác, và
việc thực hành lễ nghi tôn giáo bằng cách xem thường cuộc sống đạo đức là
điều không thể chấp nhận được.
Từ Vesàli Ngài lại lên đường lang thang đi
tìm một hệ thống tốt đẹp hơn; Sĩ Ðạt Ða đã đi đến rất nhiều bậc thầy nổi
danh thời đó, nhưng không một ai có đủ trình độ để thoả mãn cho những gì
Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm. Tất cả những vị gọi là triết gia hay luận sư
thuở đó đều là những người đang mò mẫm trong đêm tối, họ chẳng khác nào
người mù dẫn dắt kẻ đui, vì chính họ cũng còn bị màn vô minh che phủ. Cuối
cùng Ngài đi đến nơi cư ngụ của năm người học trò của đạo sĩ Uddaka do
Kiều Trần Như (Kondanna) dẫn đầu, trong khu rừng già Uruvelà (Ưu
Lâu Tân Loa) gần Gàya (Già Da) thuộc xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha).
Tại đó, Ngài chứng kiến năm vị này đang hành pháp chế ngự các giác quan
của mình để mong làm suy giảm đi những dục vọng, và họ cũng đang hành pháp
sám hối bằng lối tu khổ hạnh. Bồ Tát rất khâm phục sự nhiệt tâm và nỗ lực
nghiêm khắc của họ, Ngài cũng đã thử nghiệm theo các pháp khổ hạnh mà họ
đang rèn luyện này, bởi vì vào thời ấy người ta tin rằng trừ khi con người
sống đời khổ hạnh nghiêm khắc, bằng không họ sẽ không thể đạt đến sự giải
thoát được. Do vậy, Ngài đã tự buộc mình vào các hình thức khổ hạnh nào mà
Ngài có thể thực hành được. Gia tăng hết hình thức cầu nguyện này đến hình
thức cầu nguyện khác, Ngài đã thực hiện một nỗ lực phi thường trong suốt 6
năm trường đằng đẵng, cho đến khi thân hình của Ngài cuối cùng phải
teo rút lại tựa như một cành cây héo úa, máu Ngài khô cạn, da nhăn nhúm và
gân xanh lộ hẳn ra ngoài, nhưng càng tự hành xác bao nhiêu thì Ngài càng
xa dần mục tiêu bấy nhiêu. Tuy vậy, những cố gắng và nỗ lực dù không thành
công này cũng đã dạy cho Ngài một bài học quan trọng, đó là tự hành xác
khổ hạnh là việc làm hoàn toàn vô bổ, không đưa đến giải thoát.
Có được kinh nghiệm quý giá này, cuối cùng
Ngài quyết định đi theo con đường riêng của mình, tránh xa hai cực đoan là
khổ hạnh và lợi dưỡng, vì lợi dưỡng có khuynh hướng ngăn trở những tiến bộ
tâm linh của con người, trong khi khổ hạnh ép xác sẽ làm suy giảm trí tuệ.
Con đường mới là trung đạo (Majjhima patipadà), tức là con đường
trung dung giữa khổ hạnh và lợi dưỡng, chính pháp hành trung đạo này sau
đó đã trở thành một trong những nét đặc thù của Phật giáo.
Sáng sớm ngày trăng tròn tháng Vesàkha
(tức rằm tháng tư âm lịch), khi Ngài đang ngồi lắng sâu trong thiền
định, dưới gốc cây bồ đề, không do một quyền lực siêu nhiên nào trợ giúp
và hướng dẫn, mà hoàn toàn nhờ vào những nỗ lực của tự thân, ý thức về tuệ
giác chân thực đã chiếm hữu Ngài. Bồ Tát nhận ra các phương pháp sai lầm
mà tất cả các tín ngưỡng khác chủ trương, Ngài cũng tuệ tri được cội nguồn
từ đây khổ đau của thế gian sanh khởi và con đường dẫn đến sự diệt tận khổ
đau này. Ngài thấy ra nguyên nhân của khổ (khổ tập) nằm trong sự
chấp giữ ích kỷ vào cuộc sống, và rằng con đường thoát khỏi khổ nằm trong
việc thực hành Bát Chánh Ðạo. Với sự thấu triệt những sự thật vĩ đại này
cũng như sự chứng ngộ chân lý trong cuộc đời, Bồ Tát đã tẩy trừ hết mọi
tham dục và đạt đến giác ngộ giải thoát - như vậy Ngài đã trở thành một vị
Phật.
Sau khi chứng đạt Phật quả, trạng thái
viên mãn tối thượng, Ngài đã hiến trọn phần đời quý giá còn lại của mình
để phục vụ nhân sanh, cả bằng thân giáo lẫn ngôn giáo, không vì bất cứ
động cơ cá nhân nào. Ðể tuyên thuyết bài pháp đầu tiên của mình, Ðức Phật
đã khởi hành đi Ba La Nại (Benares) nơi đây đã từng nổi tiếng trong
nhiều thế kỷ là trung tâm của cuộc sống và lý tưởng tôn giáo. Trên đường
đi Ngài đã gặp một trong những người bạn quen của mình là Upaka, một tu sĩ
theo đạo Loã Thể (Jain), bị choáng váng trước vẻ uy nghi rạng rỡ và
đầy hân hoan của Ðức Phật, Upaka đã cất tiếng chào hỏi:
"Ồ! Ai là bậc đạo sư và dưới sự hướng dẫn
tâm linh của vị nào mà bạn đã từ bỏ thế gian (xuất gia) này vậy?".
Ðức Phật trả lời:
"Ta không có thầy, ta là Bậc Toàn Giác, là
Phật; Ta đã đạt đến an lạc, đã chứng ngộ Niết Bàn. Ðể thành lập Vương Quốc
của Chân Lý, ta sẽ đến Benares, ở đó, ta sẽ thắp sáng ngọn đèn chân lý vì
lợi ích cho những ai đang bị phủ kín trong bóng tối của sự chết và tội
lỗi".
Lúc đó Upaka hỏi lại:
"Thế ra bạn tự nhận mình là Jina, bậc
chinh phục thế gian sao?".
Ðức Phật trả lời:
"Jina là người đã chiến thắng tự ngã và
những dục vọng của tự ngã và là những người đã tự mình chiến thắng, đã
kiểm soát được những dục vọng của mình và tránh xa tội lỗi. Ta đã chiến
thắng được tự ngã và vượt qua mọi tội lỗi. Vì thế, ta là Jina".
Tại Benares, Ðức Phật gặp Kondanna
(Kiều Trần Như) và bốn người bạn đồng tu của ông ta trong vườn Lộc
Giả. Nơi đây, bây giờ gọi là Saranath. Khi năm anh em Kiều Trần Như nhìn
thấy Ðức Phật đang tiến về phía họ, họ đã chào Ngài bằng tên Cồ Ðàm, tức
tên tộc của Ngài. Nhân đó Ðức Phật nói với họ:
"Ðừng gọi ta bằng tên riêng như vậy, vì đó là
cách chào hỏi thô lỗ và khiếm nhã đối với một người đã thành Phật. Tâm ta
giờ đây không còn xao động, cho dù nguời ta có đối xử với ta bằng lòng
kính trọng hay bất kính cũng vậy, thế nhưng xưng hô với một người có cái
nhìn bình đẳng và lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh bằng tên tộc của họ
thì không tao nhã chút nào; chư Phật ra đời là để đem lại sự giải thoát
cho thế gian, vì vậy họ cần phải được đối xử với lòng kính trọng".
Sau đó Ngài thuyết cho họ nghe bài pháp vĩ đại đầu tiên của mình, kinh
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana sutta), trong đó Ngài giải
thích Bốn Sự Thực Cao Thượng (Tứ Diệu Ðế) và Bát Chánh Ðạo. Cả năm
người đều xuất gia Tỳ Khưu và tạo thành nhân tố đầu tiên của các bậc Thánh
đệ tử gọi là Tăng đoàn (Sangha).
Trong suốt cuộc đời hoạt động tích cực của
mình, Ðức Phật đã thực hiện nhiều cuộc cảm hoá từ bậc thượng lưu đến người
hạ tiện, từ người giàu sang đến kẻ nghèo hèn, từ người có học đến người
thất học, từ các hàng giáo sĩ Bà La Môn đến giai cấp Thủ Ðà La, du sĩ
ngoại đạo và các gia chủ, kẻ cướp sát nhân và những cô gái giang hồ, từ
hàng vua chúa đến dân giả, nam cũng như nữ thuộc mọi giai cấp và điều kiện
xã hội đều trở thành đệ tử hoặc xuất gia hoặc tại gia của Ngài. Sau một sứ
mạng tối thượng của 45 năm hoằng hoá, đức Phật trong chuyến du hành thuyết
giảng cuối cùng của mình, đã đến Kusinàrà, một tỉnh nhỏ nằm ở miền đông xứ
Nepal, nơi đây Ngài nhập vô dư Niết Bàn ở tuổi 80; những lời cuối cùng
Ngài ban bố cho hàng đệ tử của mình là:
"Các pháp hữu vi đều phải chịu hoại diệt;
hãy chuyên cần chánh niệm".
Như vậy, Ðức Phật là một con người, Ngài
sanh ra như một con người, Ngài sống như một con người, và như một con
người, cuộc đời của Ngài cũng phải chấm dứt. Tuy nhiên, từ một phàm nhân
Ngài đã trở thành một con người phi thường (Acchariya manussa), như
chính Ngài đã tuyên bố trong Anguttara Nikàya
(Tăng Chi Kinh);
Ngài không nhận mình là hoá thân của Vishnu (một vị thần sáng tạo theo
tín ngưỡng Ấn giáo) như những người Hindus tin tưởng, Ngài cũng không
tự gọi mình là đấng cứu thế, cứu chuộc cho kẻ khác bằng sự giải
thoát cá nhân của mình. Ðức Phật khích lệ hàng đệ tử hãy nương tựa nơi
chính họ để giải thoát, vì thanh tịnh hay ô nhiễm đều do chính họ tạo.
Trong Pháp Cú kinh Ðức Phật dạy:
"Các ngươi hãy nỗ lực tự mình phấn đấu, chư Phật chỉ là bậc Ðạo Sư. Người
chánh niệm bước vào đạo lộ (Bát Chánh Ðạo), giải thoát khỏi mọi trói buộc
của tội lỗi". Hoặc
"Người khi đáng noã
lực lại không tự mình nỗ lực, người
khi đang còn thiếu niên, cường tráng đã dễ duôi lười biếng, ý chí nhu
nhược, con người biếng nhác chay lười đó sẽ chẳng bao giờ thấy được con
đường giác ngộ", hay
"Tinh cần là đường bất tử, giãi đãi là đường
chết. Người tinh cần không chết, kẻ giãi đãi (dù sống) cũng như đã chết".
Chư Phật khám phá ra con đường (giải
thoát) và để nó lại cho chúng ta đi theo nếu muốn tự cứu mình; nương
tựa vào tha lực để cứu chuộc là thái độ thụ động tiêu cực, nhưng nương tựa
tự thân là hành động mang tính tích cực. Ðể khích lệ hàng đệ tử hãy nương
tựa chính mình, Ðức Phật đã dạy trong kinh Niết Bàn là
"Hãy tự mình làm ngọn đèn, làm nơi nương tựa
cho chính mình; giữ vững chánh pháp (Dhamma) làm ngọn đèn; giữ vững chánh
pháp làm nơi nương tựa; chớ tìm nơi nương tựa nơi ai khác ngoại trừ chính
mình. Bất cứ ai tự mình làm nơi nương tựa và là ngọn đèn cho chính mình,
chính người đó trong số những người tầm cầu giác ngộ - chắc chắn sẽ đạt
đến đỉnh cao chót vót (giải thoát)".
Hơn nữa, Ðức Phật không nhận độc quyền đối
với Phật quả, mà thực ra, quả vị Phật này cũng không phải là đặc quyền
dành riêng cho một con người đã được đặc chọn nào cả. Ðức Phật đã đạt đến
trạng thái hoàn thiện viên mãn, và trạng thái nầy bất cứ ai cũng có thể
trông đợi, Ðức Phật đã khai mở cho mọi người biết con đường thẳng duy nhất
đó, để những ai mong cầu giải thoát cứ việc bước theo. Theo lời dạy của
Ðức Phật, ai cũng có thể đạt đến trạng thái tối thượng đó nếu nỗ lực cần
thiết. Như vậy, thay vì làm nản lòng những người theo mình và giữ độc
quyền trạng thái tối tôn đó cho riêng mình, Ðức Phật đã khích lệ và thúc
đẩy mọi người theo tấm gương cao quý của Ngài.
-ooOoo-
Bài 2:
ÐỨC PHẬT VÀ BỨC THÔNG ÐIỆP CỦA NGÀI
Phương pháp giải
thoát được xem là nét đặc thù của đạo Phật rất khác với pháp giải thoát
của các tôn giáo khác. Trong khi các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Ấn
giáo, Hồi giáo, Bái Hoả giáo và Do Thái giáo chủ trương rằng: "Hãy quay
về với Thượng Ðế và cầu nguyện, hiến mình trọn vẹn cho Ngài, hợp nhất với
Ngài". Nền tảng đạo lý của họ dựa trên ý niệm về Thượng Ðế, họ cho là
nếu con người không thể tin nơi Thượng Ðế thì sẽ không thể nào có được
cuộc sống chân chánh và hữu ích.
Chúng ta biết rằng hàng ngàn tín đồ của
các tôn giáo này đã thực sự sống một cuộc sống trong sạch và thánh thiện.
Thế nhưng, điều kỳ lạ là cuộc sống thánh thiện, vị tha, trong sạch đó cũng
được hàng ngàn người con Phật sống, trong khi Ngài chẳng hề yêu cầu họ tôn
thờ bất cứ vị thần nào như là bước đầu hướng đến sự giải thoát của họ cả.
Ðức Phật dạy mọi người hãy nương tựa nơi chính mình, không nên trông chờ
vào bất kỳ đấng cứu rỗi bên ngoài nào. Ngài cũng không hề tự đề cao mình
như là một đấng trung gian giữa chúng ta và sự giải thoát cuối cùng của
chúng ta. Tuy nhiên, Ngài có thể bảo cho chúng ta biết điều gì cần phải
làm bởi vì chính Ngài đã làm điều đó và do vậy, Ngài biết rất rõ đường đi
nước bước. Nhưng, trừ phi tự thân chúng ta thực hiện, bằng không thì Ðức
Phật cũng không thể đưa chúng ta đến đích giải thoát được.
Mặc dù chúng ta có thể "nương tựa (quy
y) Ðức Phật", đây là lời phát nguyện của người Phật tử trong các nghi
lễ giản dị, tự hứa sống một cuộc sống chân chánh. Ngoài ra, không qua bất
kỳ niềm tin mù quáng nào mà Ngài có thể cứu vớt chúng ta. Ðức Phật có thể
chỉ cho chúng ta thấy con đường, Ngài có thể nói cho chúng ta biết những
khó khăn cũng như những cái tốt đẹp của nó mà khi bước lên con đường đó
chúng ta sẽ thấy, nhưng Ngài không thể đi thế cho chúng ta được, mà tự
thân mỗi chúng ta phải thực sự bước lên con đường đó.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta bị
bỏ rơi không có sự trợ lực nào trong công việc khó khăn này, vì để giúp
chúng ta bước lên đường đến được mục đích giải thoát của mình (tức Niết
Bàn), Ðức Phật đã phác hoạ lại cuộc sống đạo đức cần phải sống theo.
Giống như viên kỹ sư xây dựng một con đường đi lên đỉnh núi hiểm trở. Ðức
Phật cũng vậy, Ngài đã xây dựng một quy trình đạo đức, trước tiên là ngũ
giới (Panna sìla) cho người tại gia cư sĩ, đó là: không sát sanh,
không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và các chất
say. Ðây không phải là những điều răn của Ðức Phật, phạm vào là mang tội,
mà chúng chỉ tiêu biểu cho những lý tưởng tiên khởi của một nếp sống đạo
đức mà một người cần phải chấp nhận một cách nhiệt thành, nếu như họ tự
gọi mình là một Phật tử. Người ấy không buộc phải hứa với Ðức Phật rằng sẽ
không phạm giới mà chỉ tự hứa với bản thân, vì nguyên văn "Pànàtipàtà
v.v..." có nghĩa là "con xin
vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh"
v.v... Ðối với các giới khác cũng vậy. Mỗi
người, khi lặp lại những học giới là tự đặt mình trong danh dự sẽ cố gắng
hết sức không để phạm giới.
Và nếu họ phạm giới thì sao?
Lúc đó, cách sám hối duy nhất mang tính xây
dựng là tự mình hứa giữ giới trở lại. Thực vậy, càng sám hối nhiều càng
tốt, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, và năm này sang năm
khác cho tới khi họ chiến thắng được bản chất thấp hèn của mình mới thôi.
Chúng ta phải tự mình vươn đến mục tiêu, tự mình làm cho mình cao thượng
và thanh khiết chứ không phải Ðức Phật, không phải chư thiên, không phải
bất kỳ đấng Thượng Ðế nào có thể đưa chúng ta đến giải thoát được.
Như vậy, chúng ta thấy việc thực hành lối
sống đạo đức chính là cốt lõi và điểm chính yếu của đạo Phật; nhân cách là
sản phẩm của những hành động hàng ngày, hàng giờ, có thể nói đó chính là
những việc làm từ ái, bố thí và vị tha của chúng ta trong đời sống hàng
ngày. Nhờ thực hiện những hành động chân chánh mà chúng ta trở nên chánh
trực , và chúng ta xét đoán sức mạnh bằng khả năng hành động của con
người. Tương tự như một nhạc sĩ, họ không phải là ngươi chỉ biết yêu thích
âm nhạc, mà còn là người có thể biết kết hợp và hoà điệu các thanh âm
trong một cách nào đó để đem lại sự thích thú cho người nghe. Cũng vậy,
chính cái chất lượng hành động của chúng ta sẽ quyết định phẩm hạnh của
chúng ta.
Theo Phật giáo, trong tâm của mỗi chúng
sanh hữu tình đều ngầm chứa một tia giác ngộ (trí tuệ). Tuy nhiên,
đối với những người bình thường trí tuệ này chưa phát triển thành năng lực
của nó bởi sự nhu nhược của tham, sân và si. Mỗi kiếp sống là một chặng
đường trong cuộc hành trình tâm linh từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều và từ
si mê đến giác ngộ. Mỗi người là nhà kiến trúc cho chính số phận của mình,
chúng ta sẽ gặt hái trong tương lai, có thể ở kiếp này hoặc kiếp kế, những
gì chúng ta đang gieo hôm nay. Vì những năng lực trong quá khứ khiến cho
hiện tại chúng ta như thế này, do đó chúng ta cũng có năng lực hiện tại
tương đương để tạo cho ta một tương lai hạnh phúc và hữu ích. Ðể đạt đến
chiến thắng cuối cùng và tự toàn thiện mình nhất thiết chúng ta phải đánh
bại ba kẻ thù lớn bên trong đó là: tham, sân và si. Muốn đánh bại ba kẻ
thù này mỗi người chúng ta cần phải sống một cuộc sống rộng lượng, mở rộng
lòng thương đến mọi chúng sanh và phát triển tia sáng trí tuệ sao để trở
thành năng lực hoàn hảo nhất của nó.
Chỉ khi nào ba kẻ thù này bị đánh bại, chỉ
khi nào giành được chiến thắng cuối cùng của sự giải thoát, lúc đó mới
không còn chiến tranh, và lúc đó chúng ta mới có một nền hoà bình và hạnh
phúc thực sự trường cửu.
-ooOoo-
Bài 3:
ÐẠO PHẬT LÀ GÌ?
Ðạo Phật là gì? Có
phải đó là một triết lý, một tôn giáo hay một hệ thống luân lý không?
Một cách nghiêm túc mà nói thì đạo
Phật không phải là một triết lý, vì nó không bao gồm một hệ thống chi ly
các lý thuyết và các sự kiện dành riêng để suy gẫm, mặc dù phải nhìn nhận
rằng Ðức Phật đã dự kiến trước rất nhiều những suy đoán hiện nay. Cái được
mọi người biết đến như là đạo Phật gồm có ba phương diện, giáo lý hay pháp
học (Pariyatti), pháp hành (Patipatti) và chứng đắc hay pháp
thành (Pariyatti) cả ba tuỳ thuộc và tương quan lẫn nhau. Phần lý
thuyết được lưu giữ trong Tam Tạng
kinh điển (Tipitaka), Tam
Tạng này chứa đựng những lời dạy của Ðức Phật, được đánh giá là lớn gấp
mười một lần cỡ thánh kinh Thiên Chúa. Như từ ngữ tự nó đã hàm chứa; Tam
Tạng bao gồm ba Tạng đó là: Tạng Kinh (Sutta pitaka), Tạng Luật
(Vinaya pitaka) và Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma pitaka).
Tạng Luật (Vinaya pitaka) được chia
ra năm quyển, bàn đến những giới luật và phép tắc điều hành giáo đoàn tăng
và ni, đồng thời nó cũng đưa ra lời giải thích chi tiết về cuộc đời và sứ
mạng của Ðức Phật. Tạng Kinh bao gồm những bài pháp do Ðức Phật thuyết và
trong một vài trường hợp do các vị đệ tử xuất sắc của Ngài là Tôn giả Xá
Lợi Phất, Moggalàna (Mục Kiền Liên) và Ànanda (A-nan) v.v...
thuyết. Tạng Kinh được chia ra làm 26 quyển và nó khá giống như bộ sưu tập
các toa thuốc, vì các bài pháp được đề xuất hay trình bày hợp theo thời
điểm và căn cơ của từng cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, Tạng Diệu Pháp được
xem là quan trọng nhất và lý thú nhất, bởi vì tạng này trình bày cặn kẽ
bốn pháp cùng tột, đó là: Tâm (Citta), Tâm Sở (Cetasika),
Sắc Pháp (Rùpa) và Niết Bàn (Nibbàna). Như vậy, chúng ta
thấy rằng đạo Phật liên hệ đến sự thực và các sự kiện, đạo Phật không liên
quan gì đến những triết lý mơ hồ, nghĩa là những điều có thể được chấp
nhận như chân lý ngày hôm nay nhưng cũng có thể bị người ta ném vào sọt
rác ngày hôm sau. Thực ra, Ðức Phật không đưa ra giới thiệu với chúng ta
những triết thuyết mới mẽ và đáng kinh ngạc gì, Ngài cũng chẳng mạo hiểm
sáng tạo ra bất kỳ một loại khoa học vật chất mới nào cả, nói khác hơn
Ngài chỉ giải thích cho chúng ta thấy những gì ở bên trong và không xa rời
những quan tâm của chúng ta về vấn đề giải thoát, và tối thượng hơn cả,
Ngài đã đưa ra một lộ trình giải thoát được xem là độc đáo nhất.
Ðiều cũng cần phải hiểu là Ðức Phật không
bao giờ thuyết giảng hết những gì Ngài biết. Một dịp nọ khi đang băng qua
một khu rừng, Ðức Phật bốc một nắm lá trong tay và nói với các vị Tỳ Khưu:
"Nầy các Tỳ Khưu, những gì Như Lai
nói có thể được so sánh với lá trong tay Như Lai, và điều Như Lai không
nói tựa như khối lá ở trong rừng vậy".
Vì Ngài chỉ dạy cho chúng ta những điều cần thiết liên quan đến sự giải
thoát. Tuy nhiên, vô hình trung, Ngài đã đưa ra những lời tuyên bố mà ngày
nay được mọi người đều phải chấp nhận như những sự thật mang tính khoa
học.
Phật giáo không phải chỉ đơn thuần lưu giữ
trong kinh sách, cũng không phải là một đề tài để mọi người nghiên cứu
trên quan điểm văn chương và lịch sử. Ngược lại, Phật giáo cần phải được
học hỏi và đem áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, vì nếu
không thực sự hành Phật giáo chắc chắn người ta không thể thưởng thức được
hương vị của giáo pháp. Trước tiên cần phải nghiên cứu và thực hành, nhưng
trên hết vẫn là sự chứng đắc, sự tự chứng, đây mới chính là mục tiêu cùng
tột của đạo Phật. Như vậy, đạo Phật có thể được so sánh với chiếc bè, là
phương tiện cho mục đích duy nhất thoát khỏi đại dương sanh tử luân hồi;
vì thế, một cách nghiêm túc không thể gọi đạo Phật là một triết lý.
Vậy thì đạo Phật có phải là tôn giáo
không? Ðạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa trong đó từ này
thường được mọi người hiểu, vì đạo Phật không phải là một hệ thống của đức
tin và thờ phượng, đạo Phật không đòi hỏi sự tin tưởng mù quáng nơi các
tín đồ; ở đây, đức tin thuần tuý bị hạ bệ và được thay thế bằng tín
(Saddhà), niềm tin dựa trên trí hiểu biết về sự thực. Tín (Saddhà)
được người Phật tử đặt nơi Ðức Phật như niềm tin của người bệnh đối
với thầy thuốc vậy, hay cũng có thể nói là niềm tin của người học trò đối
với thầy của mình. Người Phật tử quy y nơi Ðức Phật bởi vì Ngài là người
đã khám phá ra con đường giải thoát. Người bệnh tin dùng phương thuốc mà
thầy thuốc đã chẩn đoán và kê toa để được lành bệnh, người học trò học hỏi
nghiên cứu những gì thầy của họ giảng dạy để trở thành người hiểu biết
thông thái. Cũng tựa như vậy, một người Phật tử có tín tâm sẽ theo những
chỉ dẫn của Ðức Phật để đạt đến mục đích giải thoát.
Khởi điểm của đạo Phật là trí hay sự hiểu
biết, nói một cách khác, đạo Phật khởi đi từ chánh kiến (Sammàditthi).
Ðối với những người đi tìm sự thực (chân lý) Ðức Phật dạy:
"Không nên tin điều gì chỉ do đồn đại;
không nên tin bất cứ điều gì vì điều đó thuộc về truyền thống hay chỉ vì
đó là tập tục lâu đời được truyền xuống qua bao thế hệ; không nên tin vào
bất cứ điều gì do người khác nói; không nên tin chỉ vì đó là xác chứng văn
bản của một hiền giả xa xưa nào đó trình bày đến ta; không nên tin điều gì
bởi vì phong tục nhiều năm khiến ta phải xem nó như sự thực, không nên tin
điều gì chỉ vì thẩm quyền của bậc thầy hay giáo sĩ của mình. Theo kinh
nghiệm riêng của ta, và sau khi đã thẩm xét đầy đủ, bất luận điều gì hợp
với chân lý và đem lại lợi ích cho bản thân cũng như mọi người, các ông
hãy chấp nhận đó là sự thực và sống hợp theo điều ấy".
Như vậy đạo Phật có phải là một hệ thống
luân thường đạo lý không? Ðiều
hiển nhiên là đạo Phật có bao gồm một hệ thống luân lý tuyệt hảo, được xem
là thích ứng cho mọi xứ sở và thời đại, thế nhưng nó vượt hơn hẳn cái luân
lý bình thường này. Trong các bản kinh như Singàla sutta (Kinh Thiện
Sanh), Mangala sutta (Hạnh Phúc Kinh), Mettà sutta (Từ Bi
Kinh) hay Dhammika sutta v.v... nếu đọc một cách cẩn trọng chúng ta sẽ
hiểu những chuẩn mực đạo đức cao vời của nó. Tuy nhiên, đạo đức, hay giới
(sìla) chỉ là bước khởi đầu của đạo Phật.
Vì vậy, có thể nói đạo Phật không phải là
một triết lý, một tôn giáo hay một hệ thống luân lý bình thường, mà đạo
Phật chính là giáo lý thực tiễn, một phương tiện giải thoát, hay như trong
Pàli thường gọi, đạo Phật là Dhamma (Pháp).
-ooOoo-
Bài 4:
ÐẠO PHẬT
Nếu chúng ta muốn
xây dựng một cuộc sống an lành hạnh phúc và thành công, một cuộc sống có
đủ khả năng để chống chọi với những trận cuồng phong của bất hạnh hoặc tai
hoạ trong đời, cuộc sống đó cần phải dựa trên những nguyên tắc đạo đức hợp
lý như là ngũ giới mà Ðức Phật đã đề ra.
Cuộc sống của chúng ta ở đây là những gì
chúng ta đã tạo ra bằng chính ý nghĩ và hành động của mình. Như vậy, có
thể nói là xuyên qua những tư duy của mình mà một người đi lên hoặc tụt
xuống. Nếp suy nghĩ đã trở thành thói quen về một đức hạnh nào đó sẽ khiến
cho ta trở thành đức hạnh đó, và nếu cứ để cho tâm trú vào những ý tưởng
xấu xa trong một thời gian tương đối cũng sẽ làm cho ta bị ô nhiễm với
thói xấu đó.
Có một quan điểm rất si mê cho là những
thất bại và những sai lầm của con người trong cách cư xử là do người chung
quanh chứ không phải do chính bản thân họ tạo ra, quan niệm sai lầm này
xuất phát từ niềm tin không đúng cho là người khác có thể chịu trách nhiệm
thay cho những hành động sai lầm của họ. Tất cả những sự nhu nhược và tội
lỗi của một người đều nảy sinh trong tâm ý của họ, như vậy chỉ có họ phải
chịu trách nhiệm đối với sai lầm ấy, và những ai đầu hàng trước những cám
dỗ hoặc bị những dục vọng kích thích, sai xử đều trở thành kẻ đồng loã
trong xấu xa và tội lỗi đó. Những cám dỗ này hoàn toàn bất lực trước những
ai từ chối đáp ứng theo nó. Nhu nhược nào cũng nằm trong tâm con người, và
nếu người ấy đầu hàng trước những cám dỗ của kẻ khác, thì cội nguồn thực
sự của những phiền muộn, những thất bại và đau khổ của người ấy chính là
sự nhu nhược của họ; họ phải chịu trách nhiệm cho mọi hành vi của mình.
Một lời biện hộ chung chung cho việc làm
sai lầm là hành động chân chánh sẽ dẫn đến thất bại, thua thiệt và mất mát
hạnh phúc; con người tâm trí non nớt như vậy, tự thân họ ít quan tâm đến
hành vi tạo tác hơn là đến hậu quả do hành vi đó gây ra. Khát vọng muốn
đạt được những kết quả vừa lòng thích ý là nguyên nhân sanh ra những hỗn
loạn tinh thần, khiến cho con người không còn có thể phân biệt được đâu là
thiện, đâu là ác, đâu là giá trị và vô giá trị, đâu là phải, đâu là trái.
Hành động chân chính là điều rất đơn giản, trong khi đó, hành động sai lầm
lại là điều hỗn tạp không thể giải quyết được, một điều sai trái thường
đòi hỏi phải bịa đặt thêm vài cái sai khác để hòng che đậy nó. Chỉ một
hành động bất thiện, đồi bại hoặc dối trá cần đến hàng chục điều sai trái
khác để củng cố nó, điều này có nghĩa là họ đã tự tạo ra những nhiêu khê
phức tạp, gây phiền muộn và khổ đau cho chính bản thân mình và cho người
khác.
Người tâm ý chân chánh, bản thân họ quan
tâm đến hành động chứ không quan tâm đến kết quả; họ không màng đến việc
thích ý hay không thích ý, mà chỉ quan tâm đến đâu là thiện là chân chánh
đúng theo tinh thần giới luật. Khi người ấy làm một điều phải lẽ, không
phải để tầm cầu điều gì, mà chỉ để trút bỏ những gánh nặng của hoài nghi,
sợ hãi và rắc rối, họ không bao giờ vướng vào những chuyện nhiêu khê hoặc
khó khăn không thể giải quyết được. Tâm của họ lúc nào cũng an lạc, thanh
thản; đây là những điều cần yếu cho một cuộc sống an lành, hạnh phúc và
trường thọ.
VẤN ÐỀ ƯA VÀ GHÉT
Ta thường nghe những lời bọc bạch như:
"Tôi cảm thấy không thích làm điều
này, điều nọ". Một người như vậy
chứng tỏ đang bị cái ta hay bản ngã trói buộc, khi họ chịu dưới sự thống
trị của những cảm xúc, thói quen và xu hướng như vậy, tất nhiên không sao
tránh khỏi tình trạng nô lệ cho những cảm xúc của mình. Những ai mong muốn
thoát khỏi vấn đề này cần phải có lý trí và ý lực hướng dẫn, phải bình
tĩnh và phán xét cẩn trọng liên quan đến mọi việc, lúc nào cũng phải tâm
niệm rằng: "Ðây là vấn đề đúng -
sai, phải - trái, tốt - xấu, vấn đề cần thiết hay không cần thiết, những
cảm xúc của ta không liên quan gì đến nó cả. Vấn đề không phải ở chỗ ta
cảm thấy thế nào, mà ở chỗ đâu là điều hợp lẽ phải làm".
Nếu cuộc sống và cách cư xử của chúng ta bị những cảm xúc ưa - ghét này
sai xử thì chúng ta chỉ là những kẻ nhu nhược, bù nhìn và nô lệ, dễ bị các
khuynh hướng lười biếng, thiếu nghị lực, chán chường và bệnh hoạn lấn
lướt.
Có hai loại cảm xúc, một là loại cảm xúc
có tính tiêu cực hoặc huỷ diệt, hai là loại cảm xúc tích cực hoặc có tính
xây dựng.
Loại cảm xúc tiêu cực như sân hận, ganh
tỵ, gay gắt, thâm hiểm, nóng nảy, thù hằn tuyệt vọng, sợ hãi, lo lắng,
buồn phiền, thiếu kiên nhẫn cần phải được ngăn ngừa, vì chúng đầu độc hay
làm hại đến nhiệt huyết của đời sống và thường gây ra những rối loạn ở
tim, não và huyết quản. Dĩ nhiên những điều này sẽ khiến người ta ươn yếu
nhu nhược, thất bại, điên rồ, sầu muộn hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Loại cảm xúc tích cực hoặc có tính xây
dựng như lòng trắc ẩn, cảm thông với tha nhân, biết chuộng điều tốt, nhân
từ, thiện chí và những động lực mang tính vị tha cần phải được khích lệ và
trau dồi. Những cảm xúc này sẽ tác động qua tâm trên những hạch tuyến chủ
yếu của thân để tạo ra sức khoẻ tráng kiện, hạnh phúc, thịnh vượng và sống
lâu.
Chánh niệm, sự chú tâm chân chánh, là bước
thứ bảy trong Bát Chánh Ðạo sẽ dẫn đến việc vượt qua sự buồn rầu và để đạt
đến giới thanh tịnh, chánh niệm bao gồm:
1) Chánh niệm trên thân (niệm thân).
2) Chánh niệm trên các cảm thọ (niệm thọ).
3) Chánh niệm trên tâm (niệm tâm).
4) Chánh niệm trên các đối tượng của tâm hay các pháp (niệm pháp).
Trong Trung Bộ Kinh (Majjhimà Nikàya)
chúng ta thấy có đề cập đến 10 công đức lớn nhằm bảo đảm cho người
thực hành bốn niệm xứ này. Không một ai mong muốn có được sức khoẻ tốt, an
vui trong hạnh phúc, và trí tuệ có thể bỏ qua pháp thiền tứ niệm xứ của
đạo Phật này; tu tập giới xuyên qua việc hành thiền là một bước rất cơ bản
trong sự giải thoát khỏi mọi khổ đau và bất hạnh. Nhờ thiền pháp người ta
học được cách suy xét đúng đắn qua mọi tình huống, thay vì phản ứng theo
cảm xúc theo sự ưa ghét, theo thiên kiến, phong tục hoặc truyền thống; ta
biết cách hợp lý hoá kinh nghiệm sống của mình. Khi đã học được bài học
quý giá này, con người trở nên cao thượng hơn khi xử sự các trường hợp,
biến cố hoặc tình huống.
Hãy lấy trường hợp của hai người cùng gặp
phải biến cố liên quan đến tài chánh này làm minh hoạ. Một người phản ứng
có tính cách xúc cảm và rơi vào cơn khủng hoảng cay đắng, mất hết hy vọng
và suy sụp sức khoẻ, sinh lực, vô phương giải quyết, hoặc cuối cùng người
đó phải tự tử để giải quyết vấn đề. Trong khi người kia, đã học được bài
học tư duy về mọi vấn đề của cuộc sống, có hành thiền, biết hợp lý hoá và
áp dụng mọi phương pháp có thể được để vượt qua vấn đề, đồng thời tìm ra
giải pháp thoả đáng, vì anh ta đã luyện tập tâm mình như các nhà lực sĩ
luyện tập các cơ bắp của họ vậy. Anh ta là người chủ, trong khi người kia
là nô lệ. Nếu người ta biết cách sống theo pháp (Dhamma) chắc chắn
những thất vọng và đổ vỡ sẽ không tồn tại.
Như vậy chúng ta thấy, đạo Phật là một
triết lý sống đầy hy vọng, và là một triết lý sống chắc chắn sẽ đưa đến
thành công, đạo Phật là chân lý của sự giải thoát khỏi bất hạnh và khổ
đau. Ðức Phật giải thích cho chúng ta thấy rằng, trong mọi sanh linh, dù
khiêm tốn thấp hèn đến đâu chăng nữa đều có một chút giá trị, một tia trí
tuệ, từ đó họ có thể nhen nhúm thành ngọn lửa, họ có thể phát triển với
chính nỗ lực thuộc ý thức nhân bản của họ. Ðức Phật luôn luôn khích lệ mọi
người hãy cố gắng phát triển tinh thần bằng lời tuyên bố rằng, mọi nỗ lực
chân chánh chắc chắn sẽ nhận lãnh một phần thưởng xứng đáng ở đây và bây
giờ trong kiếp sống này hoặc kiếp sau.
Ðức Phật cũng tuyên bố rằng mọi tham muốn
thấp hèn, mọi khát vọng đối với những điều đê tiện, và mọi cảm xúc không
xứng đáng mà chúng ta chiến thắng hay đè nén được, cũng như mọi khó khăn
mà chúng ta can đảm đương đầu và chiến thắng được nó với sự chân chánh hợp
theo những nguyên tắc đạo đức, những điều này sẽ trở thành từng bậc thang
nhờ đó chúng ta có thể trèo lên các kiếp sống cao quý hơn. Ðây là quy luật
của sự phát triên tấn hoá, là giáo lý của đạo Phật về sự chuyển hoá, chứng
đạt và thành tựu (Niết Bàn).
Ðức Phật đã vẽ cho chúng ta bức tranh của
một cuộc sống thăng hoa, một sự tăng trưởng từ nhỏ đến lớn, từ ít đến
nhiều, từ vô minh đến trí tuệ, của sự phát triển tuỳ thuộc vào nội lực bên
trong, sự chuyên cần và nỗ lực nảy mầm từ kiếp sống này đến kiếp sống
khác. Ðây chính là giáo lý về sự hoàn thiện con người đạt được qua lòng vị
tha, gìn giữ giới luật và trí tuệ.
Bài 5:
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY (THERAVÀDA)
Tên người sáng lập
ra cái mà ở phương Tây người ta biết đến như là Buddhism (Phật giáo),
là Gotama (Cồ Ðàm), Gotama là tên tộc hay dòng họ của Ngài. Chữ
"Buddha" (Phật) nghĩa là "Bậc Tỉnh Thức" hay "Bậc
Giác Ngộ", đây không phải là tên mà chỉ là một hồng danh được ban tặng
cho hiền giả cồ đàm, sau khi Ngài đã chứng đạt giác ngộ dưới gốc cây Bồ Ðề
tại Buddhagayà (Bồ Ðề đạo tràng)
ở Ấn Ðộ.
Ðức Bồ Tát sanh làm con của một vị vua Ấn
Ðộ, xứ sở này nằm trên biên giới Nepal ngày nay, sáu trăm hăm ba (623)
năm trước công nguyên, để đánh dấu địa điểm này như là nơi khai sanh
ra bậc đại đạo sư của nhân loại, và cũng để tỏ lòng tôn kính của mình đối
với Ngài, hoàng đế A Dục (Akosa) năm 239 B.C. đã cho dựng một trụ
đá mang dòng chữ "Nơi đây Bậc Giác
Ngộ đã đản sanh". Khi Ngài vừa
sanh ra, các vị minh triết trong nước đã tiên đoán rằng với những tướng
hảo ấy chứng tỏ là Ngài sau này sẽ trở thành một bậc chuyển luân vương
hoặc một bậc đạo sư vĩ đại nhất. Vua cha muốn con mình sẽ trở thành bậc
chuyển luân vương cai trị khắp năm châu nên đã cố tình hướng tâm thái tử
vào những điều trần tục thay vì đời sống tôn giáo, vua đã cố gắng sắp xếp
sao cho thái tử không bao giờ nhìn thấy những điều bất xứng ý khiến Ngài
phải trầm tư về thế thái nhân tình. Tuy nhiên, năm 29 tuổi, lần đầu tiên,
khi đi dạo trong vườn Thượng Uyển, thái tử đã gặp một người già, một người
bệnh và một người chết, từ đó Ngài nhận thức ra rằng tất cả mọi người,
không ngoại lệ ai đều phải chịu sanh - lão - bệnh - tử, và rằng mọi lạc
thú thế gian chỉ là khởi đầu của khổ đau. Chính khi gặp vị tu sĩ Ngài đã
hiểu ra là muốn tìm phương pháp vượt qua nỗi khổ của thế nhân Ngài phải từ
bỏ những lạc thú trần gian. Thế là từ đó, Ngài giã từ vương vị và trở
thành một du sĩ khổ hạnh.
Ðức Bồ Tát đã lang thang khắp các vùng
thôn dã như là kẻ đi tìm chân lý và an lạc cho đời, đã đến học đạo với
những vị đạo sư lừng danh thời đó, nhưng không ai có thể đáp ứng được
những điều Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm. Ngài đã thực hành mọi hình thức
khổ hạnh nghiêm khắc nhất và thực hiện một nỗ lực siêu nhiên trong suốt 6
năm trường, cho đến cuối cùng khi tấm thân thanh nhã của Ngài teo rút lại
chẳng khác một bộ xương, nhưng càng hành xác bao nhiêu, Ngài càng xa vời
mục tiêu giải thoát bấy nhiêu. Nhận ra sự vô dụng hoàn toàn của pháp khổ
hạnh, cuối cùng Ngài quyết định theo một cách khác, tránh xa hai cực đoan
của khổ hạnh và lợi dưỡng. Con đường mới mà Ngài khám phá là trung đạo hay
Bát Chánh Ðạo, con đường mà sau này trở thành nét đặc thù của giáo pháp.
Nhờ hành theo trung đạo này trí tuệ của Ngài phát triển đến mức toàn hảo
nhất, và Ngài khám phá ra bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Ðế) hiểu rõ
thực chất của các pháp và cuối cùng đạt đến toàn giác. Như một con người,
đức Bồ Tát nhờ vào chính nỗ lực, ý chí, trí tuệ và từ bi của mình để đạt
đến Phật quả, trạng thái hoàn thiện được xem là cao tột nhất, và Ngài đã
vén lên cho nhân loại thấy con đường thẳng duy nhất dẫn đến trạng thái đó.
Tính chất đặc biệt nhất của đạo Phật là bất cứ ai cũng có thể vươn đến
ngay cả trạng thái giác ngộ tối thượng như chính Ngài, nếu như người ấy
thực hiện những nỗ lực cần thiết. Có thể nói đây là một tiến trình tấn hoá
được thành tựu bằng chính nỗ lực cá nhân của con người.
Ðức Phật nhấn mạnh đến nhân phẩm và thường
đề cao giá trị được làm người. Một vị Phật đang trong giai đoạn tu tập là
Bồ Tát, và khi còn là Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp sanh tử Ngài đã chịu
đựng tất cả, hy sinh tất cả để hoàn thiện các pháp Ba La Mật, để rồi đến
một ngày xa xôi nào đó có thể thành tựu mục tiêu cao cả này, mục tiêu
chiến thắng - không phải cho bản thân Ngài, mà cho cả chúng sanh - giải
thoát khỏi những gánh nặng của sanh - lão - bệnh - tử. Chính Ðức Phật đã
kể cho chúng ta nghe về nguồn gốc của Ngài, và Ngài đã khởi sự thực hiện
nguyện lực toàn giác với một quyết tâm không thể lay chuyển nổi như thế
nào; đồng thời Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự hoàn thiện dần dần của
cái động lực đã thúc đẩy niềm khao khát giác ngộ đó, cũng như cuối cùng
Ngài đã đạt đến Phật quả như thế nào. Về phương diện này, thay vì làm nản
lòng những người theo mình và giữ độc quyền trạng thái tối tôn ấy cho
riêng mình, Ðức Phật đã khuyến khích và thúc giục mọi người nên theo tấm
gương cao quý của Ngài.
Lời dạy của Ðức Phật được gọi là Dhamma
(pháp) hình thức Sanskrit là Dharma, Pháp nghĩa là sự thực hay chân
lý, tức là cái thực sự là; Dhamma còn có nghĩa là quy luật, quy luật hiện
hữu trong tâm và trí của con người, đó là nguyên tắc công bằng, vì vậy Ðức
Phật kêu gọi mọi người hãy sống cao thượng, trong sạch và khoan dung độ
lượng, không phải để làm hài lòng một vị Thượng Ðế nào, mà chỉ để sống
thành thực đến cực độ đối với chính mình. Dhamma (pháp), quy luật
công bằng này, hiện hữu không phải chỉ trong tâm trí con người, mà nó còn
hiện hữu trong vũ trụ nữa; tất cả vũ trụ này là sự thể hiện hay hiển lộ
của pháp. Những quy luật tự nhiên mà khoa học hiện đại khám phá ra chỉ là
sự hiển lộ của pháp (Dhamma); nếu mặt trăng mọc để rồi lặn, chính
là vì pháp; vì Dhamma là quy luật nằm trong vũ trụ khiến cho vật chất vận
hành theo các cách đã được nghiên cứu trong khoa học vật lý, hoá học, động
vật học, thực vật học và thiên văn học; pháp hiện hữu trong vũ trụ cũng
như pháp hiện hữu trong tâm và trí con người. Nếu một người sống tuỳ thuận
pháp, người ấy sẽ thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết Bàn, sự giải thoát
cuối cùng khỏi khổ đau.
Như vậy, đạo Phật không phải là một tôn
giáo theo nghĩa mà từ này thường được hiểu, vì đạo Phật không phải là một
hệ thống chỉ có đức tin và thờ phượng, đạo Phật khởi đi như một sự tầm cầu
sự thực (chân lý). Ðạo Phật không bắt đầu với những sự giả định vô
căn cứ liên hệ đến bất kỳ vị Thượng Ðế hay nguyên nhân đầu tiên nào, và
đạo Phật cũng không tuyên bố sẽ giới thiệu toàn bộ sự thực về khởi thủy,
và kết thúc tuyệt đối của cuộc hành trình tâm linh của nhân loại trong
hình thức của một sự mặc khải có tính thần thánh thiêng liêng. Tự thân Ðức
Phật đã đi tìm và khám phá, với trí tuệ nội quán, ra bản chất của vũ trụ,
nguyên nhân khởi sinh ra nó và sự hoại diệt của nó, Ngài cũng khám phá ra
nguyên nhân thực sự của khổ cùng với con đường trong đó khổ có thể được
đưa đến đoạn trừ, vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Sau khi đã tìm ra như
vậy, Ngài tuyên bố những nguyên tắc trong đó Ngài đã tiến hành sự tìm kiếm
của mình, để cho những ai muốn được như vậy có thể theo phương thức của
Ngài và tự mình hiểu rõ chân lý.
Ðức Phật dạy mọi người hãy nương tựa nơi
chính mình để thành tựu sự giải thoát cá nhân của họ, không nên trông chờ
vào một đấng cứu độ bên ngoài nào cả. Ðức Phật cũng không đưa mình ra như
một đấng trung gian giữa chúng ta và sự giải thoát cuối cùng của chúng ta,
nhưng Ngài có thể nói cho chúng ta biết cần phải làm những gì bởi vì điều
đó tự thân Ngài đã làm và vì vậy Ngài biết rất rõ phương pháp; tuy nhiên,
nếu chúng ta không tự mình làm, Ðức Phật không thể đưa chúng ta đến đích
giải thoát được. Ngài có thể chỉ đường cho chúng ta, nói rõ những khó khăn
và tốt đẹp của nó, những điều mà chúng ta sẽ gặp khi chúng ta bước lên con
đường đó, nhưng Ngài không thể bước thế cho chúng ta, mà chúng ta phải tự
mình bước lấy.
Tiến trình sinh diệt của vũ trụ được điều
khiển bởi quy luật tự nhiên của nhân và quả. Nhân luôn luôn trở thành quả,
và quả lại trở thành nhân, và như vậy sanh được theo sau bởi chết, chết
ngược lại, được theo sau bởi sanh; sanh và tử là hai phương diện của cùng
tiến trình sống. Trong vòng nhân - quả hay sinh - tử này, nói theo đạo
Phật là luân hồi (Samsàra), không thể tìm ra điểm khởi đầu của nó;
Tương Ưng Kinh có nói: "Nguồn gốc
của mọi hiện tượng là điều không thể khám phá được, cũng như không thể
khám phá ra sự khởi đầu của chúng sanh, do vì bị vô minh ngăn trở và bị
dính mắc trong ái dục".
Theo đạo Phật thì vũ trụ có tiến hoá,
nhưng không phải tiến hoá từ chỗ không không mà nó tiến hoá từ phần vật
thể bị phân tán của vũ trụ trước đó; và khi vũ trụ này tiêu hoại, vật thể
phân tán của nó hay năng lực dư sót của nó - tất cả những điều này luôn
luôn tự đổi mới, sẽ đúng thời làm khởi sanh một vũ trụ khác theo cùng cách
thức như trước. Vì vậy, tiến trình sinh diệt này có tính tuần hoàn theo
chu kỳ và liên tục, và vũ trụ tự nó lại bao gồm hàng triệu hệ thống thế
gian như là thế gian chúng ta biết nằm trong thái dương hệ này, và mỗi thế
gian có những cảnh giới sinh tồn khác nhau của nó.
Còn linh hồn là gì?
Cái mà chúng ta gọi là "con người" gồm
có tâm và thân. Theo đạo Phật thì ngoài tâm và thân hay danh (Nàma)
và sắc (Rùpa) tạo thành cái gọi là "con người" này ra, hoàn
toàn không có thứ gì xem như là linh hồn hay cái ngã bất tử nằm đằng sau
nó cả. Sắc (thân) là hình thể có thể thấy được của những tính chất
hay lực vô hình, có tất cả 28 loại sắc cấu tạo nên thân vật lý của một hữu
tình chúng sanh. Tâm (danh) là phần quan trọng nhất của một con
người, nó bao gồm tứ danh uẩn là:
1) Thọ (Vedanà)
2) Tưởng (Sanna)
3) Hành (Sankhàra)
4) Thức (Vinnàna)
Như vậy, sự kết hợp của năm uẩn, hay của
các tâm lực và vật lực (sắc), được gọi là một chúng sanh, và có thể
khoác cho nhiều tên gọi tuỳ theo chủng loại, hình dáng, thể trạng của nó,
cũng như có thể thay đổi tuỳ theo cách thức chuyển biến của thân và tâm.
Vì thế cho nên con người là một hữu tình chúng sanh có những khuynh hướng
thiện và ác, có những phẩm chất và năng lực, con người còn có những khả
năng vô hạn về phương diện vật lý (thân), tâm lý và luân lý, trong
tâm mỗi người đều có một tia trí tuệ, nhưng đối với người bình thường, tia
trí tuệ này còn đang ngủ ngầm hay tê liệt do sự giao lưu không sáng suốt
của nó với tham, sân, si. Là người Phật tử, mục đích của cuộc sống chúng
ta là phải làm sao để phát triển từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều, từ vô
minh đến giác ngộ và từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ toàn hảo. Mỗi người
chúng ta là nhà kiến trúc cho chính số phận của mình, và chúng ta sẽ gặt
hái những gì mình đã và đang gieo trồng.
Như vậy, chỉ có các tâm lực và vật lực
(sắc) kết hợp và lại tái kết hợp, hoàn toàn không có một thực thể hay
linh hồn nằm bên trong nào tạo cho nó thường hằng, và tiến trình luôn luôn
trở thành hay vòng luân hồi sanh tử này cứ tiếp diễn một cách vô định cho
đến khi cái nhân chính của nó, tức là tham ái hay ước muốn vị kỷ đối với
sự hiện hữu, hoàn toàn bị huỷ diệt. Chính ước muốn hay tham ái này đã làm
cho bánh xe sanh tử chuyển động, và nó được biểu thị bằng hành động thực
sự có chủ ý hay sức mạnh ý chí. Trong Pàli hành động có chủ ý gọi là
"nghiệp" (Kamma) và chính Kamma (nghiệp) hay hành động
có chủ ý này là cái phải chịu trách nhiệm cho sự tạo ra chúng sanh.
Kamma là tất cả những hành động có chủ ý,
hoặc bằng tâm, bằng khẩu hay bằng thân, nghĩa là những ý nghĩ, lời nói và
hành động của chúng ta. Mọi hành động đều tạo ra kết quả, đó là nhân đi
trước và quả theo sau. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng Kamma (nghiệp)
là "quy luật nhân quả" và con người là chủ nhân ông của
chính số phận mình, là con đẻ của quá khứ và cha đẻ của tương lai mình.
Tuy nhiên, nghiệp ở đây không phải là thuyết định mệnh, cũng không phải là
lời biện bạch cho số phận; quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại thật, nhưng nó
không hoàn toàn chi phối hiện tại, quá khứ chỉ là bối cảnh hay nền tảng
dựa vào đó cuộc sống diễn tiến từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác, và
quá khứ cộng với hiện tại sẽ ảnh hưởng đến tương lai, nhưng chúng ta cần
ghi nhớ rằng chỉ có khoảnh khắc hiện tại hiện hữu, như vậy trách nhiệm cho
việc sử dụng khoảnh khắc hiện tại này vào mục đích thiện hay ác nằm trong
mỗi cá nhân chúng ta. Con người có một số tự do ý chí và vì thế họ có thể
phẩm định cho những hành động của mình đồng thời tạo ảnh hưởng cho tương
lai. Do đó, nếu một người làm những việc làm thiện, nói những lời nói
thiện hoặc nghĩ những ý nghĩ thiện, hiệu quả tác động trên người ấy sẽ làm
gia tăng những khuynh hướng hướng đến điều thiện trong họ. Việc thực hành
thiện nghiệp khi phát triển đầy đủ có thể sẽ làm cho người ta vượt qua cái
ác, từ đó đưa họ đến đích giải thoát - Niết Bàn.
Căn để mọi phiền muộn của con người là
tình trạng vô minh ban sơ của họ, và từ vô minh dẫn đến tham ái khiến cho
nghiệp lực vận hành. Người Phật tử thăng tiến Niết Bàn qua việc thực hành
trung đạo, đạo lộ của trí tuệ, giới hạnh và chế ngự tâm hoặc thiền
(Giới - Ðịnh - Tuệ), người Phật tử vượt qua vòng sanh tử luân hồi và
tự hoàn thiện mình bằng cách thắng phục mọi tham ái với trí tuệ và từ bi.
Việc đạt đến cấp độ toàn hảo này đòi hỏi phải có sự phát triển cùng tột
của tất cả mọi năng lực của con người nhờ nỗ lực kiên trì trau dồi lý trí,
sự hiểu biết và lối sống chân chánh.
Ðạo Phật dạy rằng với việc hành thiền và
tu tập tâm người ta có thể thâu nhập được năm năng lực siêu nhiên, đó là:
thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông và những
năng lực tâm khác. Không những chỉ có thế, mà đạo Phật còn dạy rằng với
việc đạt đến Niết Bàn ngay trong kiếp sống này, qua sự giác ngộ và trí
tuệ, người ta có thể đi đến chỗ chấm dứt chuỗi sanh tử luân hồi này.
Niết Bàn không phải là sự huỷ diệt, và
cũng không phải là một loại rỗng không mà Niết Bàn là một trạng thái thoát
ly mọi khả năng tái tục của hiện hữu duyên sanh, là sự an lạc và hạnh phúc
tối thượng. Trong các kinh điển Phật giáo Niết Bàn thường được mô tả bằng
những từ ngữ mang tính tích cực như là nơi nương tựa cao nhất, nơi
an toàn nhất, sự giải thoát, an lạc v.v.. .
Ðạo Phật bao gồm ba phương diện: lý
thuyết, thực hành và chứng đắc. Phương diện lý thuyết hay giáo lý được lưu
giữ trong kinh điển gọi là Tam tạng hay Ba Giỏ, tạng kinh chứa đựng những
lời dạy của Ðức Phật, được đánh giá bởi các nhà dịch thuật Anh ngữ là gấp
mười một lần thánh kinh Thiên Chúa.
Tất cả những lời dạy của Ðức Phật có thể
cô đọng lại trong một bài kệ, đó là:
"Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo".
Bài kệ này biểu hiện ba giai đoạn tu tập
trên đạo lộ dẫn đến giác ngộ giải thoát, ba giai đoạn đó là: Giới, Ðịnh và
Tuệ. Giới điều hoà lời nói và hành động, định kiểm soát tâm, và chính trí
tuệ, giai đoạn cuối cùng sẽ giúp hành giả trừ diệt hoàn toàn mọi tham dục
đã từng gây ra những hỗn loạn trong tâm.
Ngay sau khi chứng ngộ giải thoát, Ðức
Phật đã thành lập giáo đoàn Tỳ Khưu
(Tăng già)
gồm cả hai cộng đồng các bậc Thánh đệ tử đã
đạt các tầng thánh cũng như cộng đồng các vị Tỳ Khưu đang nỗ lực thành đạt
thánh quả. Giáo đoàn các vị Tỳ Khưu gia tăng nhanh chóng, trong suốt 45
năm hoằng hoá của Ðức Phật, giáo đoàn này đã lan truyền khắp cõi Ấn Ðộ và
những vùng phụ cận, chân lý giải thoát đã được "những người có ít bụi
trong mắt" biết đến và tu tập. Ngoài ra, một giáo đoàn tương tự dành
cho chư ni cũng đã được Ðức Phật thành lập, với cùng những giới luật như
bên tăng cộng thêm một số giới được đòi hỏi cho người nữ. Giáo hội Tăng
Già Phật giáo, mà lịch sử đã chứng minh là tổ chức tăng sĩ có mặt sớm nhất
được điều hành bởi những nguyên tắc hoàn toàn dân chủ, vẫn tiếp tục tồn
tại cho đến ngày hôm nay.
Sau khi Ðức Phật nhập diệt được 7 ngày,
trưởng lão Ca Diếp, chủ quản Tăng Ðoàn lúc đó, đã quyết định tổ chức một
cuộc hội nghị nhằm xác chứng những lời dạy có căn cứ của Ðức Phật
(đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất).
Chư vị lúc đó tổ chức đại hội kết tập tại Ràjagaha (vương xá thành)
dưới sự bảo trợ của vua A-xà-thế (Ajàtasatu), kinh điển Phật giáo
đã được sưu tập và đọc lại bằng hình thức tụng đọc.
Trong suốt thế kỷ đầu sau khi Phật nhập
diệt, chỉ có một truyền thống tu tập duy nhất giữa các Phật tử. Thế nhưng
đến cuối thế kỷ đầu này, trong thời kỳ vua Kàlàsoka cai trị, một nhóm Tỳ
Khưu đã cố gắng đưa ra 10 điều canh tân có tính lợi dưỡng vào giới luật
của Tăng Già (Sangha), họ tuyên bố những điều này có thể chấp nhận
được đối với tăng già. Ðể ngăn cản những điều phi pháp này, cũng như vì
mục đích bảo đảm sự trường tồn của Phật pháp, bảy trăm vị Thánh Tăng
Arahán do Ngài Revata (Ly Bà Ða) làm thượng thủ và đức vua Kalàsoka
bảo trợ, đã tổ chức đại hội kết tạp lần thứ nhì tại Vesàli (Tỳ Xá Ly)
theo thể thức tụng đọc chính xác như lần trước.
Cuộc kết tập lần thứ 3 được tổ chức vào
thế kỷ thứ ba, tức gần 300 năm sau khi Phật nhập diệt, dưới sự bảo trợ của
hoàng đế A Dục (Asoka). Theo lời khuyên của tôn giả Moggaliputta
tissa (Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu), người chủ trì cuộc kết tập lần thứ
3, hoàng đế A Dục đã phái các đoàn truyền giáo đến các nước lân bang nổi
tiếng vào thời đó.
Cuộc kết tập lần thứ 4 tổ chức tại Tích
Lan (Ceylon) đầu thế kỷ thứ 6 sau khi Phật nhập diệt, do Ngài Mahà
Agga chủ trì và được sự bảo trợ của vua Vattagàminì. Tại đại hội này Tam
Tạng (Tipitaka), tức những lời dạy của Ðức Phật được truyền tụng
bằng ngôn ngữ Pàli theo ký ức từ thời Ðức Phật, lần đầu tiên đã được viết
thành văn tự.
Cuộc kết tập lần thứ 5 tổ chức tại
Mandalay thủ phủ của Miến Ðiện, khoảng đầu thế kỷ 25 sau khi Phật diệt độ,
do tôn giả Jàgara chủ toạ với sự bảo trợ của vua Minh Ðông (Mindon).
Lúc đó toàn bộ Tam Tạng đã được khắc trên 729 phiến đã cẩm thạch và đặt
tại chân đồi Mandalay.
Cuộc kết tập lần thứ 6 tổ chức tại Rangoon
Miến Ðiện, khởi sự từ ngày trăng tròn tháng 5 (tức rằm tháng tư âm
lịch), 2498 năm sau ngày Ðức Phật nhập diệt và chấm dứt vào ngày rằm
tháng tư năm 2500 - PL (tức tháng 5
năm 1956). Tại cuộc kết tập này
Tam Tạng Pàli (Tipitaka) được tụng đọc lại bằng tiếng Pàli và từng
bước chuyển dịch sang một vài ngôn ngữ thời nay.
Hiện nay, có hai trường phái Phật giáo
chính là Thượng Toạ Bộ (Theravàda), bộ phái này được phần lớn các
nước như Ceylon (Tích lan), Miến Ðiện, Thái Lan... tu tập; trong
khi các nước Trung Hoa, Tây Tạng và Nhật Bổn thực hành theo truyền thống
Mahàyàna (Ðại Thừa).
Thượng Toạ Bộ (Theravàda), hay
đường lối tu tập của các bậc Trưởng Lão, là truyền thống Nguyên Thủy và
duy nhất từ thời Ðức Phật cho đến lần kết tập thứ hai, khi mà trường phái
Ðại Chúng Bộ (Mahàsangika), một tiền duyên của Ðại Thừa sau này
(Mahàyàna) được thành lập. Phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstivàda)
lúc đó nảy sinh như trường phái chính thứ 2 khác với Thượng Toạ Bộ, mặc
dầu lúc đầu chỉ ở những chi tiết nhỏ nhặt. Sau đó, phái này đã chia thành
nhiều chi phái, một số trong đó cuối cùng đã phát triển thành Ðại Thừa
(Mahàyàna).
Những khác biệt chính giữa Thượng Toạ Bộ
và Ðại Chúng Bộ là những ý niệm liên quan đến tự thân Ðức Phật cũng như
liên quan đến lý tưởng Bồ Tát, việc công nhận một số kinh điển, việc phát
triển giáo lý, một số quan điểm về đời sống độc thân của chư tăng, và các
hình thức nghi lễ.
Những điểm tương đồng giữa hai trường phái
Phật giáo này là: cả hai đều công nhận giáo lý Tứ Diệu Ðế, giáo lý liên hệ
đến cái khổ của con người là do sự chấp thủ đối với những gì chỉ có tính
chất tạm bợ và vô thường; giáo lý Vô Ngã (Anatta) và giáo lý Thập
Nhị Nhân Duyên, dù rằng giải thích có hơi khác; công nhận Bát Chánh Ðạo là
pháp hành dẫn đến giải thoát, đòi hỏi phải có giới luật cũng như thực hành
thiền quán; đức hạnh từ bi được xem là nền tảng căn bản; sự chấp nhận lời
dạy của Ðức Phật như là đặc điểm chung hướng đạo trong việc ứng dụng tu
tập; và lối sống Trung Ðạo là lối sống dẫn đến mục tiêu Niết Bàn, đỉnh cao
của mọi hạnh phúc.
-ooOoo-
Bài 6:
Ý
NGHĨA CỦA ÐẠO PHẬT
Người Phật tử thăng
hoa Niết Bàn xuyên qua nhiều giai đoạn tu tập theo Trung Ðạo, Ðạo Lộ của
Trí Tuệ, Giới Hạnh và Chế Ngự (Giới - Ðịnh - Tuệ). Trong phạm vi
một bài giảng, dĩ nhiên không thể có đủ chỗ để đề cập ngay cả đến từng
chặng đường tu tập một, huống nữa là các phương diện khác của chế độ tu
tập mà Ðức Phật đã khuyến hoá trong kho tàng kinh điển rộng lớn của Ngài;
thế nhưng điều mà người ta có thể chấp nhận là, đời sống tu tập của người
Phật tử chân chánh vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua nhiều kiếp luân
hồi, người Phật tử thăng hoa, tự hoàn thiện mình; vị ấy thắng phục những
dục vọng của mình bằng trí tuệ và từ bi. Dần dà nghiệp lực tiêu mòn, ngọn
lửa tham dục đó cũng lắng dịu lại. Căn để mọi phiền não của con người
chính là do tình trạng vô minh ban sơ của họ. Từ vô minh tham dục sanh,
điều này khiến cho nghiệp lực vận hành. Vì vậy con đường dẫn đến Niết Bàn
nằm ở chỗ có trí tuệ, và chúng ta lại phải xoay quanh việc thực hành pháp
(Dhamma), tức những lời dạy của Ðức Phật. Vì trong pháp (Dhamma)
hay sự thật, chứa đựng sự giải thoát khỏi vô minh và tham dục cũng như
giải thoát khỏi tình trạng vô thường bất tận, Ðức Phật đã chỉ cho chúng ta
con đường đi đến sự thực hay chân lý này.
Vậy thì ý nghĩa của đạo Phật là gì?
Một cách chính xác thì đạo Phật là
một cách luyện tập tâm hay tinh thần có hệ thống và chắc chắn đây là một
trong những pháp vĩ đại nhất đã từng được mọi người biết đến. Ðạo Phật
giới thiệu đến mỗi cá nhân một phương tiện nhờ đó họ có thể tự hoàn thiện
mình qua sự hiểu biết, cuối cùng đạt tới bình diện của một con người siêu
việt ở đó cả ngã và ngã sở đều không còn hữu dụng nữa. Meister Eckhart,
một nhà thần học Thiên Chúa có nói:
"Nước đức chúa trời chỉ dành cho kẻ đã chết
hoàn toàn" (The kingdom of god is
for none but the thoroughly dead)
[*]. Người Phật tử chúng ta chắc chắn sẽ đồng ý với quan niệm này, dù rằng
chúng ta có lẽ thích một lối nói ít nghiêm khắc hơn thế. Niết Bàn trong
cuộc sống, sự bình an "vượt ngoài mọi hiểu biết", là sự thắng phục
cuộc đời, sự khám phá ra cái thường hằng trong dòng biến dịch của những
biến cố tâm sinh vật lý của nó. Người Phật tử tin rằng qua việc tu thiền
và tư duy chân chánh họ có thể theo gương Ðức Phật trải qua những chặng
đường giác ngộ và cuối cùng thành tựu trí tuệ viên mãn vượt qua mọi đòi
hỏi.
[*] Theo quan niệm của người theo đạo
Thiên Chúa thì con người sau khi chết, linh hồn của họ sẽ về với chúa
hoặc xuống địa ngục đời đời. Tuy nhiên, Meister Eckhart khi tuyên bố câu
này là đã phủ nhận cái linh hồn ấy; và theo ông chỉ có chết cả linh hồn
lẫn thể xác mới mong về được nước của Ðức Chúa Trời, một ý niệm gần
giống với Vô Ngã của đạo Phật.
Tuy nhiên, hoàn toàn không phải mọi người
Phật tử đều là nhà sư hoặc cư sĩ thuần hành.
Vậy thì đạo Phật có ý nghĩa gì đối với những
người bình thường đang bận rộn với công việc trong cuộc đời?
Xuyên suốt qua lời dạy của Ðức Phật, tinh thần tự lực và lòng quyết tâm là
điều mà Ngài thường nhấn mạnh và lặp đi lặp lại. Ðạo Phật buộc mọi người
phải nương tựa tự thân, đồng thời đánh thức niềm tự tín và năng lực của họ
dậy. Ðức Phật luôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử của Ngài rằng không một ai,
hoặc trên trời hoặc dưới đất này có thể giúp họ hoặc giải thoát cho họ
khỏi những quả báo do những hành động bất thiện mà họ đã tạo trong quá
khứ. Người Phật tử biết rằng những năng lực của tâm và tinh thần của họ có
đủ để hướng dẫn họ trong hiện tại và uốn nắn cho tương lai để rồi cuối
cùng sẽ đưa họ đến sự thực (chân lý). Người Phật tử cũng biết rằng
họ có một sức mạnh được xem là tối thượng không gì có thể vượt qua nổi.
Hơn nữa đạo Phật đã vạch ra rất rõ rệt
phương diện đạo đức trong cuộc sống hàng ngày cho người Phật tử sống theo.
Dù rằng Niết Bàn, tự thân nó không dung chứa ý niệm đạo đức, trong ý nghĩa
rằng sự giải thoát cuối cùng vượt qua sự đối đãi của thiện và ác. Thế
nhưng, con đường đi đến trí tuệ rõ ràng là một con đường của đạo đức. Con
đường này hợp theo giáo lý nghiệp báo (Kamma). Mọi hành động phải
tạo ra kết quả, và những hành động cá nhân của một người sẽ tạo ra kết quả
hay quả báo trong kiếp sống riêng của họ. Như vậy nghiệp lực chắc chắn sẽ
đưa chúng ta đi lên chỉ có thể là một nghiệp thực hiện vì mục đích thiện,
nghĩa là nghiệp thực hiện để có trí tuệ cùng tột.
Giáo lý về nghiệp này tìm được sự bộc lộ
cao nhất của nó trong tâm từ (Mettà), mục tiêu của người Phật tử về
một tình thương bao la rộng khắp. Mettà (Tâm Từ) có ý nghĩa to lớn
hơn chỉ là cảm tình huynh đệ hoặc lòng nhân ái, mặc dầu cả hai tình cảm
này đều là một phần của tâm từ. Có thể nói tâm từ là lòng quảng đại tích
cực, một tình thương được bộc lộ và chu toàn trong sứ mạng tích cực nhằm
nâng cao tâm hồn đồng loại. Tâm từ đi đôi với sự giúp đỡ và một thiện chí
muốn từ bỏ lợi ích cá nhân để cổ xuý cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của
nhân loại. Chính tâm từ trong đạo Phật đã là nền tảng cho sự tiến bộ xã
hội. Cuối cùng, tâm từ là cấp độ cảm thông rộng lớn nhất và mạnh mẽ nhất
có thể quan niệm được, nó được bộc lộ trong nỗi khắc khoải về khổ đau và
vô thường của cuộc đời. Người Phật tử chân chánh cố gắng hết khả năng của
mình để tu tập tâm từ đối với mọi chúng sanh và tự đặt mình vào hoàn cảnh
của họ, không phân biệt họ là ai thuộc đẳng cấp, mầu da, địa vị hay giới
tính nào.
Ngoài ra, đạo Phật dĩ nhiên còn là một
động lực phát triển văn hoá chính yếu trong cuộc sống của phương đông,
cũng như Thánh Kinh là nguồn cội chính của nhiều tư tưởng và nghệ thuật
Tây phương vậy. Tuy nhiên, kinh điển của đạo Phật to lớn hơn và chi tiết
hơn thánh kinh Thiên Chúa rất nhiều. Trong ngôn ngữ Pàli, ngôn ngữ của
kinh điển, những lời dạy của Ðức Phật được gọi là Tipitiaka, nghĩa là
"Tam Tạng Kinh".
Vinaya Pitaka hay Tạng Luật, bao gồm năm
quyển trong đó giải thích những giới luật của đời sống người tu sĩ. Sutta
Pitaka (Tạng Kinh) là một bộ sưu tập các buổi thảo luận, những câu
chuyện, những bài kệ, những câu nói mang tính cách ngôn, tất cả được viết
bằng ngôn ngữ đơn giản, truyền đạt tất cả những ý niệm về việc thực hành
Phật giáo. Tạng thứ ba là Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka), bàn
về những pháp bản thể, những vấn đề trừu tượng và thuộc lãnh vực tâm lý,
đây là Tạng được các triết gia lão luyện hết sức thích thú quan tâm.
Như vậy Tam Tạng (Tipitaka) đưa ra
sự hướng dẫn có tính kết hợp ở mọi cấp độ hoạt động của tri thức, đạo đức
và tinh thần; lời dạy của Ðức Phật được xem là ánh sáng, là ngọn đèn soi
đường cho Miến Ðiện nói riêng và mọi người nói chung.
-ooOoo-
Bài 7:
ÐẠO PHẬT CÓ Ý NGHĨA GÌ ÐỐI VỚI NGƯỜI PHẬT TỬ
Ðối với người Phật
tử, đạo Phật không phải là một Tôn giáo theo cái nghĩa mà từ này thường
được mọi người hiểu; mà đối với họ đạo Phật là một pháp hành thực tiễn
nhất trong cuộc sống - nó chỉ cho họ biết cách làm thế nào để sống một
cách chân chánh, nhờ vậy được an vui và hạnh phúc, mặc dù những bất ổn
đang tràn ngập trong thế gian này.
Sở dĩ chúng ta nói, đạo Phật không phải là
một tôn giáo bởi vì đạo Phật không phải là một hệ thống chỉ có đức tin và
thờ phượng. Chữ "Tôn giáo" thường có nghĩa là một hệ thống đức tin
và thờ phượng, nhưng đạo Phật lại là một phương cách sống, và cũng là một
phương cách để hiểu những điều kiện của cuộc sống; nhờ đó một Phật tử có
thể sống hài hoà với tha nhân cũng như sống hài hoà với những quy luật
công bằng của tự nhiên.
Ðạo Phật được sáng lập trên căn bản trí
tuệ, vì thế cho nên đạo Phật có thể được xem là lời giải thích hợp với
khoa học về những quy luật tự nhiên của cuộc sống, và đạo Phật không phải
là một loạt những tín điều được đưa ra có tính cách võ đoán; hoàn toàn
không có tín điều trong đạo Phật. Chúng ta đã biết, tín điều là một hệ
thống giáo điều cứng nhắc, do những người có uy quyền đặt ra như sự biểu
thị của chân lý, trên cơ sở đó tín điều chỉ là một lời tuyên bố có tính
kiêu mạn về quan niệm riêng của một cá nhân nào đó mà thôi. Trong đạo Phật
không có những tín điều như vậy, nhưng Ðức Phật có đặt ra một loạt các sự
kiện và nguyên tắc cho chúng ta sống theo và hành theo. Ðạo Phật công bố
những quy luật hết sức công bằng, quy luật của vũ trụ, những quy luật nhân
quả (Dhamma niyàma) tuyên bố rằng con người là chủ nhân của chính
số phận mình, con ngưòi có thể uốn nắn cuộc đời mình theo những ý niệm
riêng của họ như là một Phật tử. Ðạo Phật xóa bỏ những nỗi lo sợ vu vơ về
sự chết thường ám ảnh những người tâm không tu tập, đạo Phật là con đường
sống chân chánh không thiên về lạc quan cũng chẳng bi quan. Nhiều người
phương Tây nghĩ rằng đạo Phật là bi quan yếm thế. Ngược lại, lối sống của
đạo Phật không lạc quan cũng chẳng bi quan; rất nhiều người trên thế gian
này, đặc biệt là loại người ít tư duy, vô tư lự - thích có một cái nhìn
lạc quan về cuộc sống. Khi một người như vậy trở nên thất vọng chán
chường, họ được khuyên là hãy lạc quan lên, nhưng theo quan niệm của đạo
Phật thì điều này không đúng. Lạc quan là một quan niệm đánh giá quá cao
về điều kiện sống, không phải là chánh kiến, cũng như chánh kiến không có
nghĩa là phải có quan niệm bi quan đánh giá quá thấp thực tại của cuộc
đời.
Chánh kiến hay cái nhìn đúng đắn về cuộc
đời là Trung đạo (Majjhimapatipadà) giữa hai cực đoạn này. Cả hai
cực đoan lạc quan và bi quan đều vô bổ cho những ai theo nó. Như vậy, đối
với một Phật tử, đạo Phật có nghĩa là lối sống chân chánh - một pháp hành
nhờ đó con người có thể sống một cách an vui, hạnh phúc bảo đảm trong kiếp
sống hiện tại và bảo đảm cho cả kiếp sống tương lai. Ở nước Anh người ta
nói về sự bảo đảm ở tương lai, nhưng thực ra sự bảo đảm mà họ nói đó chỉ
có tính nhất thời; cách bảo đảm của Phật giáo là sự bảo đảm thường hằng,
vĩnh cửu và bền lâu.
Cuộc sống của con người hay của toàn vũ
trụ bao gồm mọi loài chúng sanh, bị chi phối hay bị cai quản bởi những quy
luật bất biến và vĩnh cửu, những quy luật như luật nhân - quả, những quy
luật của tâm hay quy luật tâm lý (Citta - niyàma). Như vậy, toàn bộ
vũ trụ đều do những quy luật vĩnh hằng này chi phối chứ không phải do một
Ðấng Thượng Ðế tưởng tượng nào cả.
Chẳng hạn như tội, theo đạo Phật thì hoàn
toàn không giống như tội tổ tông mà đạo Thiên Chúa từng đề cập. Ðạo Phật
nói, tội là hệ quả trực tiếp từ vô minh của con người, do vô minh không
hiểu biết những quy luật tự nhiên này mà con người tạo tội. Như chúng ta
biết, tội lỗi sanh ra sầu muộn và đau khổ, đây là quy luật muôn đời của
cuộc sống.
Ðối với những ai tin rằng thế gian này
không do những quy luật công bằng này chi phối, mà do một đấng Thượng Ðế
hay thay đổi và thay đổi liên tục cai quản, điều này xem ra con người phải
cố gắng làm sao để thuyết phục Ðấng Thượng Ðế tối cao tạo cho tình thế tốt
đẹp hơn. Như vậy, có nghĩa là con người không tin rằng ý chúa luôn luôn
công bằng, vì chúa có những cơn giận dữ cần phải làm cho Ngài nguôi ngoai,
chúa có lòng thương cần phải được đánh thức dậy và tính thiên vị cần phải
vựơt qua. Nhưng đối với người Phật tử thì những quy luật của tự nhiên,
những quy luật công bằng chi phối thế gian này, luôn luôn như vậy, như vậy
với người này và như vậy đối với tất cả mọi người. Chính vì vậy, bổn phận
của con người là không được vi phạm những quy luật tự nhiên hay những quy
luật của công bằng này - không nên cố gắng làm thay đổi nó bằng những
phương tiện hay những hình thức cầu nguyện này, nọ hoặc bằng cách chống
lại nó, mà tốt hơn hết hãy hiểu, tìm hiểu rõ những quy luật tất nhiên, bất
biến này rồi sống hài hoà với nó.
Ngay trong những lời dạy của Ðức Phật, các
thuộc tính như tự lực, tự tín, quyết tâm, tinh tấn, nỗ lực rất được nhấn
mạnh. Ðạo Phật buộc người Phật tử phải có tinh thần tự lực, nương tựa nơi
chính mình và là chủ nhân ông của chính số phận mình. Chánh niệm cũng được
Ðức Phật nhấn mạnh một cách triệt để, chẳng hạn trong Kinh Pháp Cú
(Dhammapàda) có dạy:
"Hãy nỗ lực tinh tấn
Như Lai bậc dẫn đường
Ai tu tập chánh niệm
Ắt thoát vòng ma vương"
(Pháp Cú, 276).
Hoặc
"Chánh niệm là đường sanh
Buông lung là ngõ tử
Tinh cần là bất tử
Buông lung như thây ma" (Pháp Cú, 21).
Bất tử ở đây Ðức Phật muốn nói đến Niết
Bàn (Nibbàna). Tất cả các pháp hữu vi khác, tất cả các cảnh giới
khác đều đầy sự chết chóc - cái chết cứ xoay vần liên tục và bất tận.
Trong nhiều bài kinh khác, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, Ðức Phật cũng
thường nói rằng chính nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ và sự kiên trì bất
động mà Ngài đã đạt đến phật quả, trạng thái viên mãn tối thượng, nghĩa là
sự giác ngộ cùng tột. Tuy nhiên, Ðức Phật không giữ độc quyền quả vị này
cho riêng mình; thay vào đó Ðức Phật còn khuyến khích hàng đệ tử gắng đạt
đến những trạng thái tâm linh cao tột nếu họ có thể, và ngay cả đến trạng
thái mà Ngài đã chứng đạt nếu như họ đủ nỗ lực và kiên quyết, đó là nét
đặc thù của đạo Phật. Ðức Phật chẳng khác nào người cha tốt bụng, chăm lo
săn sóc thật khéo đứa con của mình và mong sao cho nó được bằng mình hoặc
hơn mình, nếu như người con có thể, đó là nét đặc thù của đạo Phật mà các
tôn giáo khác không có. Ðức Phật còn chỉ đường cho mọi người đi đến sự tự
ngộ và Ngài luôn nhắc nhở hàng đệ tử rằng hãy nương tựa nơi chính bản thân
mình, nương tựa vào những nỗ lực cá nhân của mình, vì không một ai dù trên
trời hay dưới đất này có thể giúp đỡ cho ta cả, không một ai có thể cứu ta
thoát khỏi những quả báo của những hành động sai lầm mà ta đã tạo. Chúng
ta còn nhớ lời dạy của Ðức Phật:
"Ác nghiệp do tự ta tạo ra, chẳng phải do cha mẹ, bạn bè, thân quyến hoặc
do kẻ khác xúi giục. Do vậy, chính ta phải gặt hái quả khổ của những ác
nghiệp đó". Chính vì vậy, chúng ta
phải có trách nhiệm đối với những hành động sai lầm của mình, mà không ai
có thể cứu chúng ta thoát khỏi quả báo của những ác nghiệp này.
Hiểu rằng không một ai, không có Thượng
Ðế, không có đại tế đàn nào có thể cứu chúng ta được. Chẳng ai có thể ban
cho chúng ta sự cứu chuộc tâm linh cả, người Phật tử chân chính tự buộc
mình phải nương tựa nơi chính mình, nương tựa vào những nỗ lực của tự
thân, như vậy chúng ta mới có niềm tin vào khả năng của mình và có tinh
thần trách nhiệm cá nhân. Khuynh hướng ỷ lại vào Thượng Ðế hay bất kỳ một
quyền lực tưởng tượng nào bên ngoài không những làm suy yếu niềm tự tin
của mình mà còn ảnh hưởng đến tinh thần trách nhiệm cá nhân. Ngược lại,
khuynh hướng tin tưởng vào nội lực của mình sẽ làm tăng trưởng niềm tự tín
và nhận lãnh tinh thần trách nhiệm cá nhân; tiến bộ tâm linh và đạo đức
chỉ có thể hiện diện ở nơi nào có tự do tư tưởng, không có tín điều và
không có quyền lực. Nơi đâu tín điều ngự trị và trói buộc tâm thức, ở đó
không thể có tiến bộ tâm linh được; và sự trông cậy hay đặt niềm tin vào
bất kỳ quyền lực bên ngoài nào chỉ dẫn đến sự trì trệ tâm linh mà thôi.
Bần Tăng đã sống nhiều năm giữa những
người theo Thiên Chúa giáo. Một vài người bạn của bần tăng trong số những
người Thiên Chúa đó có lần đã đọc lời cầu kinh của họ, có lẽ để bông đùa
cho vui, như thế này: "Kính lạy Chúa! Nếu quả thực có chúa, hãy cứu vớt
cho linh hồn con, nếu như con có linh hồn".
Trong bất kỳ tín ngưỡng nào, tự do tư
tưởng là điều quan trọng nhất. Một trong sáu đặc tính của Phật pháp
(Buddha Dhamma), như chúng ta đã biết, có đề cập đến những từ như
"Ehi passiko" (hãy tự mình đến
và thấy). Ðức Phật yêu cầu chúng
ta không nên tin theo lối mù quáng những gì được nói bởi Ngài. Trong tất
cả các tôn giáo thì đạo Phật đưa ra những đòi hỏi lớn nhất về hoạt động
tâm linh như - chánh niệm - nhiệt tâm - chuyên cần v.v... khi Ðức Phật ban
những lời giáo huấn nổi tiếng của Ngài đến các hoàng tử Kàlàma trong kinh
Kàlàma (Kàlàma sutta) Ngài nói:
"Không nên chấp nhận (quan điểm hay những ý
niệm) chỉ do lời đồn đại, từ những gì các người được bảo là như vậy, bởi
vì điều đó được đề cập trong kinh điển"; những điều nghe có vẻ Logic hợp
lý, không nên chấp nhận những điều gì dựa trên cơ sở suy đoán, bởi vì tính
khả dĩ của nó hoặc bởi vì "đó là do vị thầy đáng kính" của ta nói, mà khi
nào, hỡi các hoàng tử Kàlàma, tự các ngươi hiểu rõ được những phẩm chất
này là thiện, là tốt đẹp, không lỗi, được bậc trí khen ngợi và sẽ dẫn đến
an vui hạnh phúc khi thực hành và vâng giữ điều đó. Như vậy, này các hoàng
tử Kàlàmas, các người hãy trú trong đó sau khi đã đạt được những lợi ích
như đã nói".
Như vậy, Ðức Phật khuyên chúng ta không
nên tin những gì người khác nói chỉ đơn thuần do uy quyên của họ. Cũng như
không nên tin bất cứ điều gì bởi vì điều đó là phong tục tập quán.. .nhưng
đồng thời, tốt hơn hết cũng không nên vội bỏ những truyền thống như vậy
một cách quá dễ. Chúng ta phải cố gắng thử nghiệm điều đó, khảo sát nó một
cách tỉ mỉ và sau khi đã làm như vậy, nếu thấy rằng điều đó là hợp lý, sẽ
dẫn đến hạnh phúc an vui cho mình cũng như cho mọi người, lúc đó hãy chấp
nhận và sống đúng với điều ấy. Ðây có thể nói là một trong những lời tuyên
bố vĩ đại nhất, can đảm nhất chưa từng có một bậc thầy tôn giáo nào đã
từng tuyên bố.
Ðể hiểu rõ những nguyên nhân và điều kiện
(duyên) của cuộc sống, một trong những giáo lý được Ðức Phật dạy là
giáo lý về nghiệp (Kamma). Hiểu biết được nghiệp là điều tốt vì nhờ
vậy chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đạo Phật, đồng thời hiểu rõ hơn về cuộc
sống hàng ngày của chúng ta. Kamma là một từ Pàli có nghĩa là
"hành động",
dịch sát nghĩa là "những hành
động thiện và ác". Như vậy,
nghiệp bao trùm cả hành động thiện lẫn bất thiện của thân, khẩu và ý; nói
một cách khác đó là ý nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta. Trong ý
nghĩa cùng tột của nó, kamma nghĩa là Tư Tâm Sở (Cetanà)- hành động
có chủ ý. Trong Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikàya) Tư Tâm Sở được
dịnh nghĩa: có ý muốn làm người ta mới hành động bằng tâm, bằng lời nói và
bằng hành động.
Giáo lý nghiệp báo không phải là thuyết
định mệnh hay là một giáo lý đề cập đến sự tiền định. Nghiệp chỉ là một
trong 24 nhân Ðức Phật đã đề cập trong Patthàna (Pháp Duyên Hệ),
pháp chi phối toàn thể vũ trụ này. Nghiệp (Kamma) còn là một trong
12 nhân tạo thành vòng sanh tử luân hồi (Thập Nhị Nhân Duyên) mà
Ðức Phật đã dạy trong Vibanga (pháp phân tích). Kamma cũng là một
trong 4 nhân được đề cập trong Vi Diệu Pháp và các kinh khác. Nghiệp không
phải chỉ là ở quá khứ, quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại nhưng không hoàn
toàn chi phối nó, bởi vì nghiệp không phải chỉ ở trong quá khứ mà còn ở
hiện tại nữa; nghiệp quá khứ chỉ là nền tảng dựa vào đó cuộc sống hiện tại
vận hành trong khoảnh khắc nào đó, quá khứ kết hợp với hiện tại ảnh hưởng
đến tuơng lai sẽ tới, chỉ có giây phút hiện tại đang hiện hữu, và có thể
nói là nằm trong sự quản lý của con người. Do đó, trách nhiệm sử dụng giây
phút hiện tại này nằm ở mỗi cá nhân hoặc cho mục đích thiện hoặc cho mục
đích ác, mọi hành động đều tạo ra kết quả của nó. Chính hành động hay nhân
đi trước và rồi quả theo sau. Như vậy, chúng ta nói về nghiệp như là quy
luật của vũ trụ về nhân và quả.
Bần tăng xin nêu ra đây một ví dụ rất phổ
biến và đã được đề cập nhiều lần để chứng minh cho vấn đề này. Chẳng hạn,
ném một hòn đá là hành động, hay gọi là nhân; hòn đá này đập trúng cánh
cửa kiếng và làm nó bể tung. Việc ném hòn đá là hành động, là nhân, nhưng
hòn đá đập vào cửa sổ và làm bể kiếng là quả. Chúng ta nói hành động ném
cục đá vào cửa sổ là nhân gây ra việc bể kiếng và cánh cửa bể tức là quả.
Quả này đến lượt nó trở thành nhân cho sự phiền muộn hay hậu quả xa hơn;
chẳng hạn, phải tốn tiền đi thay cửa kiếng, bởi vì bạn phải thay cánh cửa
bể nên tốn kém tiền bạc của bạn, hậu quả tác động trên tâm bạn là sẽ thất
vọng hay bất mãn, lúc đó bạn trở nên bực dọc khó chịu. Khi bạn khó chịu
thì sự sân hận có thể rất dễ sanh khởi; sự sân hận của bạn là kết quả,
nhưng nó cũng trở lại thành nhân; vì sân hận bạn có thể nói hay làm điều
gì đó khó ưa; và chính điều bạn nói hay làm với thái độ khó ưa này có thể
làm tổn thương đến người khác hoặc làm hư hao vật gì khác v.v...
Trong thuật ngữ của người Thiên Chúa thì
vì bạn ném hòn đá và làm bể cửa sổ, bạn phải tốn tiền mua tấm kiếng cửa sổ
mới, toàn bộ chuỗi nhân và quả này dẫn đến kết quả cuối cùng được họ xem
như là một sự trừng phạt của Chúa. Trong đạo Phật hoàn toàn không có chỗ
đứng cho một vị Thượng Ðế đến để trừng phạt bạn. Vì vậy, tiếp tục ví dụ
trên, khi bạn nổi sân bạn có thể nói điều gì đó khó ưa với một người nào
đó và người này có thể cũng trả đũa lại bạn như vậy. Sau đó, nếu không
thận trọng, sự việc này có thể dẫn đến một cuộc khẩu chiến giữa hai người
và còn có thể đánh lộn nhau nữa. Giữa hai quốc gia cũng vậy, từ một xích
mích nhỏ, nếu không tự chế thì có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh. Tất cả
những điều này chỉ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng rằng có sự hiện hữu
của quy luật nhân quả.
Nếu hiểu một cách đúng đắn thì giáo lý
nghiệp dạy cho chúng ta bài học cần phải cẩn trọng với những ý nghĩ, lời
nói và hành động của mình trong cuộc sống hàng ngày để cho khi thời gian
qua đi, nó sẽ tạo cho chúng ta thành những con người tốt đẹp hơn, ước mong
thực hiện những hành động cao quý và tốt lành hơn đối với mọi người, đồng
thời sống một cách hài hoà hơn với đồng loại. Ðây mới chỉ là một ví dụ về
sự lợi ích của việc hiểu giáo lý nghiệp báo.
Có một câu hỏi khá phổ biến và thường được
một số người Tây phương hoặc các nước không Phật giáo hỏi là:
"Ðôi lúc chúng tôi cố gắng làm điều thiện,
nghĩ rằng sẽ gặt hái quả lành, thế nhưng trong một vài trường hợp kết quả
hay quả báo lại hoá ra trái ngược lại, nghĩa là chúng tôi phải chịu quả
xấu. Tại địa phương chúng tôi ở, một người xảo quyệt, biết lợi dụng thời
cơ được gọi là một người "khôn ngoan". Càng khôn ngoan, càng ác độc và
càng tham lam bao nhiêu hắn ta lại càng được mọi người ca tụng như là một
vị anh hùng thành công nhất của xã hội. Lại nữa, trong số những con chó,
con nào khoẻ nhất và dữ tợn nhất thì vớ được cục xương bở nhất. Thế đấy,
không hiểu sự vận hành của luật nhân quả mà các Ngài nói nằm ở chỗ nào?
Giáo lý về nghiệp công bằng ở chỗ nào?".
Vâng, về trường hợp này, không những ở
Australia (Úc), (vì người hỏi là người Úc), mà ở các vùng
khác trên thế gian này người ta cũng hỏi vậy. Xảo quyệt, tham lam lại
thường được ca tụng như những bậc anh hùng chiến thắng trong xã hội. Nói
như vậy, các bạn cũng có thể hỏi:
"Chừng nào thì chúng tôi sẽ gặt những quả lành cho điều thiện mà chúng tôi
đã làm hoặc đang cố làm?" Cái
thiện mà chúng ta đã làm dường như cho quả rất chậm có phải vậy không? Rồi
lại có người khác hỏi bần tăng rằng trong lúc anh ta đang đọc kinh cầu
nguyện chúa thì một gã nào đó - người hàng xóm của ông ta - đi đến và nói
với ông ta là ông đã gây ồn ào quá mức trong lúc đọc kinh. Vì vậy mà ông
ta hỏi bần Tăng "Tại sao lúc tôi
đang thực hiện một việc thiện như vậy với một đức tin trọn lành, nhưng lập
tức quả báo lại xấu, phải nói là rất xấu. Ðiều này chứng tỏ là quy luật
nhân quả của các Ngài không thể hiện công bằng đối với người Thiên Chúa
chúng tôi rồi?"
Bần tăng nói với ông ta:
"Mặc dù ông có thể đang phụng thờ chúa vì một
mục đích tốt vào lúc đó, thế nhưng để hiểu lý do tại sao người ta lại đến
và sỉ vả ông, thì cần phải nghĩ lại xem ông có làm hay nói điều gì với
người kia hoặc sáng nay hoặc hôm qua hay một ngày nào đó trước đây không.
Lúc đó ông mới khả dĩ tìm ra nguyên nhân vì sao họ lại đến sỉ vả mình;
người ta có khuynh hướng hay quên những điều mình đã làm cho người khác.
Vì thế, khi quả báo đến họ nghĩ là nó đến thật bất ngờ hoặc họ vô cùng
ngạc nhiên về điều đó; không phải rằng việc gì cũng xảy đến thình lình
hoặc không phải việc gì cũng khiến bạn phải kinh ngạc vì sự xuất hiện của
nó cả, vấn đề là ở chỗ bạn không nhớ những gì mình đã làm và nguyên nhân
có thể là hoàn toàn hiểu lầm".
Vì thế cho nên bất luận điều gì xảy đến
với chúng ta cũng luôn luôn là công bằng và cần phải được chấp nhận trong
tinh thần hiểu biết đúng đắn. Nếu điều gì khó chịu xảy đến, ta không nên
nóng nảy, giận dữ hoặc thất vọng mà cần phải bình tĩnh để nhận ra rằng
nghiệp xấu đã trở lại để nhắc chúng ta nhớ về những sai lầm trong quá khứ
của chúng ta. Nếu điều gì đáng ưa, dễ chịu xảy đến cũng vậy, chúng ta
không nên hãnh diện về nó. Ðiều đó chỉ chứng tỏ rằng thiện nghiệp đã trở
lại với chúng ta bằng quả lành mà thôi. Bất cứ khi nào có vấn đề gì xảy
đến làm đảo lộn cuộc sống của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng sống cho thật
tốt và đừng bao giờ lo lắng, kích động hay giận dữ. Chúng ta cần quyết tâm
vững chắc sống một cuộc đời chân chánh nhờ hiểu biết sự vận hành của những
quy luật Nhân - Quả này, còn gọi là quy luật Nghiệp Báo (Kamma)
trong đạo Phật.
Bài 8:
ÐẠO PHẬT: CON ÐƯỜNG ÐI ÐẾN TRÍ TUỆ
Ðức Phật là một
người đã đạt đến giác ngộ; nói đến giác ngộ là muốn nói đến trí tuệ - một
trạng thái lý tưởng của sự hoàn thiện cả về tri thức lẫn đạo đức, trạng
thái này có thể được mọi người đạt đến qua những phương tiện hoàn toàn
nhân bản. Từ "Phật" (Buddha) nghĩa đen là "Bậc Giác Ngộ"
"Bậc Hiểu Biết" - và đó cũng là một hồng danh được ban tặng cho hiền
giả Cồ Ðàm (Gotama) sau khi Ngài đã chứng đạt giác ngộ dưới gốc cây
Bồ đề (Bodhi) tại Buddhagayà (Buddhagayà) Ấn Ðộ.
Thái tử sinh làm con một vị vua Ấn Ðộ nơi
vùng biên giới xứ Nepal hiện nay, vào khoảng 623 năm trước Christ. Ðể đánh
dấu địa điểm này như là nơi sanh ra bậc đạo sư của nhân loại và để tỏlòng
tôn kính của mình đối với Ngài, hoàng đế A Dục năm 239.B.C đã cho dựng một
thạch trụ mang dòng chữ "nơi đây
bậc giác ngộ đã đản sanh". Thái tử
đã trải qua những năm đầu của thời kỳ thơ ấu trong an lạc, xa hoa và được
giáo dục rất tốt. Cha Ngài, vua Tịnh Phạn, cố hết sức không để cho con
mình thấy một điều gì xấu xa và khó chịu trong cuộc đời này. Tuy nhiên năm
29 (hai mươi chín) tuổi, khi đi dạo trong vườn thượng uyển, thái tử
đã chứng kiến trên đường đi những cảnh người già đau, chết và Ngài nhận
chân ra rằng tất cả mọi người không ngoại lệ ai đều phải chịu sanh, già,
bệnh, chết, và rằng mọi lạc thú thế gian chỉ là khởi đầu của khổ đau. Hiểu
rõ nỗi khổ đau chung của nhân thế như vậy, Ngài khát khao muốn tìm cho ra
một phương thuốc chữa trị cho căn bệnh thế gian này.
Vào cái đêm sau khi đi dạo chơi vườn
Thượng Uyển trở về, Thái tử suy nghĩ rằng nếu như mình tại vị như một ông
vua, mình sẽ phải phung phí thời giờ quý báu của mình để lo toan quốc sự
và để duy trì vương vị. Từ đó, không thể tìm kiếm được phương thuốc chữa
trị cho nhân gian, cũng như không thể đạt đến hạnh phúc cao tột của Niết
Bàn - sự diệt tận mọi khổ đau. Từ ấy, Ngài từ bỏ vương quốc và cắt đứt mọi
ràng buộc thế gian để sống cuộc đời của một nhà tu khổ hạnh, lang thang
làm kẻ đi tìm chân an lạc cho đời. Ngài đã đến học đạo với nhiều bậc thầy
nổi tiếng thời đó, thế nhưng không ai có đủ khả năng thoả mãn cho những gì
Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm. Ngài đã thực hành một cách kiên trì mọi hình
thức khổ hạnh nghiêm khắc nhất và thực hiện một nỗ lực phi thường trong
suốt 6 năm trường. Cuối cùng, tấm thân thanh nhã của Ngài teo rút lại hầu
như chỉ còn là bộ xương; càng hành xác bao nhiêu Ngài càng cảm thấy xa rời
cứu cánh giải thoát bấy nhiêu. Nhận ra sự vô dụng hoàn toàn của việc hành
hạ thân xác theo lối khổ hạnh, cuối cùng Ngài quyết định đi theo một lộ
trình tu tập khác, rời xa hai cực đoan của khổ hạnh và lợi dưỡng.
Lộ trình mới mà Ngài khám phá là Trung Ðạo
(Bát Chánh Ðạo), đạo lộ mà sau này đã trở thành một nét đặc thù của
Phật pháp. Nhờ hành theo Trung Ðạo này, trí tuệ của Ngài phát triển tột độ
và Ngài khám phá ra Chân Lý Tứ Ðế, liễu tri các pháp như chúng thực sự là,
và cuối cùng đạt đến Toàn Giác. Như vậy, là một con người, thái tử, bằng
chính ý chí, nỗ lực tinh tấn, trí tuệ và từ bi của mình, đã đạt đến Phật
quả - trạng thái tuyệt đỉnh của sự hoàn thiện - và Ngài đã vén lên cho
nhân loại thấy con đường thẳng duy nhất dẫn đến trạng thái giác ngộ đó.
Một nét đặc thù của đạo Phật nữa là bất cứ ai cũng có thể vươn đến ngay cả
trạng thái mà chính Ðức Phật đã đắc nếu như họ thực hiện những nỗ lực cần
thiết. Ðó chính là một loại tiến trình tiến hoá và được thành tựu bằng nỗ
lực cá nhân của con người.
Ðức Phật nhấn mạnh đến giá trị nhân bản và
Ngài thường dạy cho mọi người thấy cái quý được làm người. Ngài đã vẽ cho
ta bức tranh toàn hảo về một con người đang cố gắng và đang phấn đấu từ
kiếp này sang kiếp khác để tầm cầu sự hoàn thiện về đạo đức hay các pháp
Ba La Mật - vị Bồ Tát - một người đang cố gắng để thành Phật. Khi còn là
một Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp luân hồi Ngài đã chịu đựng mọi đau khổ,
đã hy sinh tất cả để chu toàn mọi pháp độ (Ba la mật) sao cho một
ngày xa xôi nào đó Ngài có thể thành tựu cứu cánh tối hậu của mình, mục
tiêu chiến thắng không chỉ cho riêng mình mà cho tất cả chúng sanh, giải
thoát khỏi những gánh nặng của sanh, lão, bệnh, tử. Chính Ðức Phật đã kể
cho chúng ta nghe về nguồn gốc của Ngài và Ngài đã khởi đầu với một quyết
tâm tha thiết và không gì lay chuyển nổi như thế nào. Ngài còn kể cho
chúng ta biết về sự hoàn thiện dần từng bước của tiến trình thực hiện
nguyện vọng tha thiết đó, và cuối cùng Ngài đã đạt đến giác ngộ viên mãn
như thế nào. Thay vì làm nản lòng những người theo mình để giữ độc quyền
trạng thái tối tôn (Phật quả) cho riêng mình, Ðức Phật đã khuyến
khích và thúc đẩy mọi người đi theo tấm gương cao quý của Ngài.
Ðạo Phật có phải là một tôn giáo không?
Ðạo Phật không phải là một tôn
giáo theo cái nghĩa mà từ này thường được hiểu, bởi vì đạo Phật không phải
là một hệ thống đức tin và thờ phượng. Mặc dù chúng ta có thể quy y nơi
Ðức Phật, như trong các nghi lễ giản dị, tự thân người Phật tử nguyện sẽ
sống một cuộc sống theo gương Ngài bằng Tam Quy, vấn đề ở đây không phải
là bằng niềm tin mù quáng nơi Tam Bảo mà Ngài có thể cứu độ chúng ta. Ở
đây, chỉ có đức tin suông sẽ bị loại trừ và được thay thế bằng niềm tín
(hay Tín) dựa căn bản trên kiến thức hay sự hiểu biết về sự thực
(chân lý). Một Phật tử có niềm tin nơi Ðức Phật sẽ theo những lời chỉ
dẫn của Ngài để đạt đến giải thoát. Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng kính
trọng đối với Ngài - bậc ân nhân đã chỉ cho ta con đường giải thoát, chúng
ta hoàn toàn không phải là những người sùng bái các ngẫu tượng, dù bằng
bất cứ ý nghĩa nào; hình tượng của Ngài nhắc cho chúng ta nhớ đến nhân
cách toàn vẹn của một bậc thầy, người mà phát xuất từ lòng bi mẫn đối với
chúng ta, đã để lại những lời dạy quý giá vì lợi ích cho chúng sanh. Chúng
ta không đi tìm sự giải thoát từ nơi hình tượng của Ðức Phật; làm thế nào
một bức tượng lại có thể cứu độ cho chúng ta được chứ?
"Hãy tự mình thực hiện sự giải thoát; chư
Phật chỉ là bậc đạo sư" Ðức Phật
đã dạy như vậy. Mỗi người là nơi nương tựa cho chính mình và không ai có
thể trông đợi để được người khác cứu độ cho cả.
Ðức Phật có thể chỉ đường và nói cho chúng
ta biết rõ những khó khăn cũng như những cái đẹp của con đường, những điều
chắc chắn chúng ta sẽ gặp khi chúng ta bước lên đó, Ngài không thể bước
thế cho chúng ta mà tự thân chúng ta phải bước lấy. Ðể giúp chúng ta bước
lên đạo lộ đi đến mục tiêu giải thoát này, Ðức Phật đã vẽ lại những pháp
hành cần phải được sống theo và chỉ bằng cách sống hợp theo những nguyên
tắc của giáo pháp người ta mới có thể thấu hiểu được thực nghĩa của nó. Lý
tưởng vĩ đại nhất là Niết Bàn, sự giải thoát cuối cùng khỏi khổ đau. Ðây
là một trạng thái được đạt đến bằng pháp hành dẫn tới sự giác ngộ - tự
ngộ. Lối sống của Ðức Phật là lối sống trung đạo, không lạc quan cũng
chẳng bi quan. Lạc quan có khuynh hướng đánh giá quá cao điều kiện của
cuộc sống, trong khi đó bi quan lại đánh giá nó quá thấp, giáo lý về
"con đường"
hay
"trung đạo" chỉ có thể nắm bắt
được bởi một người đã hiểu rõ tính tương quan và tương duyên của hai cực
đoan đó. Tất cả các cực đoan đều sanh ra những đối nghịch của nó và cả hai
đều bất lợi như nhau. Ðối với mọi người thì lối sống trung đạo trong thế
gian này là lối sống tốt đẹp và an toàn nhất.
Phật giáo có ba phương diện: học, hành và
chứng đắc. Phương diện học hay còn gọi là pháp học được lưu giữ trong kinh
điển Tam Tạng. Tam Tạng Kinh (Tipitaka) chứa đựng những lời dạy của
Ðức Phật và được các nhà dịch thuật anh ngữ đánh giá là lớn gấp 11 lần
thánh kinh Thiên Chúa. Bài kệ sau đây có thể xem là cô đọng của tất cả
những gì Ðức Phật đã dạy:
"Không làm mọi điều ác
Luôn làm các việc thiện
Giữ cho tâm trong sạch
Ðó lời chư Phật dạy".
Bài kệ này thể hiện rõ nét ba chặng đường
tu tập (Giới - Ðịnh - Tuệ) trên đạo lộ giải thoát. Giới điều hoà
lời nói và hành động; Ðịnh kiểm soát tâm; nhưng chính Trí Tuệ, chặng cuối
cùng của đạo lộ, mới có thể giúp hành giả trừ diệt hoàn toàn những tham
dục đã từng gây bao xáo trộn trong cuộc sống của hành giả.
SỨC MẠNH CỦA TRÍ TUỆ
Trí tuệ là năng lực để thấy được các pháp
thực sự là gì (thực tánh của các pháp) và làm thế nào để hành xử
một cách đúng đắn khi các vấn đề của cuộc sống xảy đến trước chúng ta. Hạt
giống trí tuệ ngủ ngẫm trong mỗi chúng ta, và khi tâm hồn ta nồng ấm và
dịu dàng với lòng từ bi, những hạt giống trí tuệ này sẽ phát triển thành
những năng lực của nó. Khi một người lắng dịu lại những dòng bộc lưu của
tham, sân, si, họ trở nên một nguời có lương tâm, đầy lòng trắc ẩn, và họ
biết lo lắng cho sự an vui hạnh phúc của tất cả chúng sanh. Người ấy tránh
không trộm cắp và biết cư xử chánh trực thanh liêm; người ấy tránh xa sự
tà dâm và sống trinh bạch thuần khiết; người ấy tránh xa việc nói dối;
điều gì người ấy nghe ở nơi này không đem nói ở nơi khác để gây sự bất hoà
chia rẽ; người ấy biết kết hợp lại những người chia rẽ và khuyến khích
những người biết sống đoàn kết; người ấy tránh xa lời nói hung ác, chỉ nói
những lời dịu dàng, mềm mỏng, dễ nghe và truyền cảm; người ấy tránh không
nói lời vô ích và chỉ nói những điều hữu ích, đúng thời và hợp với sự
kiện. Chính khi tâm người ấy thanh tịnh và cõi lòng người ấy lắng dịu nhờ
được trang bị với giới hạnh như vậy là lúc mà hạt giống thánh thiện - trí
tuệ phát triển. Kiến thức hiểu biết về những đặc tánh của cây kim từ tính
(trong chiếc la bàn) có thể giúp người đi biển thấy đúng hướng trên
đại dương mênh mông trong những đêm tối tăm nhất, khi không một vì sao nào
được thấy. Cũng như vậy, trí tuệ có thể giúp cho người ta thấy các pháp
như chúng thực sự là, và nhận ra con đường chân chánh đi đến an lạc. Chính
trí tuệ này sẽ giúp chúng ta hội nhập với mọi chúng sanh trong cùng một
đại dương mênh mang của từ ái và yêu thương.
-ooOoo-
Bài 9:
LỊCH SỬ TÓM TẮT VỀ PHẬT GIÁO
Tại địa điểm nơi đây
Ðức Thế Tôn nhập diệt, vô số các vị vua chúa, các vị Bà La Môn, các vị
thương gia và Thủ Ðà La (giai cấp hạ tiện), cũng như chư thiên các
hàng đã tụ hội lại để tham dự buổi lễ trà tỳ (hoả thiêu nhục thân Ðức
Phật). Cũng có 700 ngàn Tỳ Khưu do Ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahà
kassapa) lúc đó làm thượng chủ và dưới sự hướng dẫn của tôn giả Ca
diếp mà buổi lễ trà tỳ và phân chia xá lợi của Ðức Phật được thành tựu
viên mãn. Nghe được lời nhận định điên rồ, mê muội của Tỳ Khưu Subhadda,
ông này tuyên bố rằng giáo pháp cũng như giới luật của Ðức Phật ban bố cho
chư tăng và chư ni chỉ có giá trị và được vâng giữ lúc sanh tiền của Ngài
mà thôi, Tôn giả Ca Diếp khởi lên ước vọng muốn bảo tồn những lời dạy cao
quý của bậc tôn sư, không để cho bị xuyên tạc như vậy. Vì thế, vào ngày
thứ 7 sau khi Ðức Phật nhập diệt, với mục đích tổ chức một cuộc hội nghị
kết tập, Ngài Ca Diếp đã sắp xếp triệu tập 500 vị thượng thủ Thanh Văn,
những vị đã vượt thoát sự chi phối của tham dục, có tiếng tăm lớn, thuần
thục trong mọi phương diện tu tập và những vị tinh thông giáo điển. Cuộc
kết tập lúc đó được tổ chức tại Ràjagaha (Vương Xá thành) dưới sự
bảo trợ của vua Ajàtasatu (A-xà-thế), các Ngài đã thu thập những
Phật ngôn và lặp lại bằng hình thức tụng đọc. Cuộc kết tập này kéo dài
trong 7 tháng.
Kinh điển đạo Phật bao gồm ba phương diện,
pháp học hay giáo lý (Pariyatti), pháp hành (Patipatti) và
pháp thành (Pativedha). Cả ba phương diện này có liên quan và tương
duyên lẫn nhau.
Phương diện giáo lý hay pháp học được lưu
giữ trong Tam Tạng (Tipitaka). Tam tạng này bao gồm những Phật ngôn
và có đến tám mươi bốn ngàn pháp môn, theo sự ước lượng của giáo sư Rhys
Davids thì tổng cộng có đến 1.752.800 từ trong toàn bộ Tam tạng. Như tự
thân của từ này đã hàm ý, Tam tạng bao gồm ba Tạng kinh điển, đó là Tạng
Luật (Vinaya pitaka), Tạng Kinh (Sutta pitaka) và Tạng Diệu
Pháp (Abhidhamma pitaka).
Tạng Luật (Vinaya pitaka) được chia
làm năm quyển, bàn về những giới luật và phương pháp điều hành giáo đoàn
Tỳ Khưu - Tỳ Khưu Ni, đồng thời cũng đưa ra lời giải thích chi tiết về
cuộc đời và sứ mạng của Ðức Phật. Tạng Kinh (Sutta pitaka) chia làm
26 quyển, chứa đựng những bài pháp do Ðức Phật thuyết, và trong một vài
trường hợp do các vị đệ tử lớn của Ngài thuyết. Có thể nói Tạng kinh khá
giống như một bộ sưu tập các toa thuốc, vì những bài pháp được đề xuất khế
hợp với từng căn cơ và trường hợp của mỗi cá nhân hay hội chúng. Tạng Diệu
Pháp (Abhidhamma pitaka), là Tạng quan trọng nhất và lý thú nhất,
vì nó trình bày chi tiết bốn pháp cùng tột là: Tâm (Citta), Tâm Sở
(Cetasika), Sắc (Rùpa) và Niết Bàn (Nibbàna).
Cuộc kết tập đầu tiên do các vị Thượng Toạ
Trưởng Lão tổ chức và tôn giả Mahà Kassapa (Maha Ca Diếp) chủ trì,
được gọi là cuộc kết tập của các vị Trưởng Lão (Theriya sangiti).
Trong suốt thế kỷ đầu sau khi Ðức Phật nhập diệt, hay một trăm năm sau
ngày Phật Niết Bàn (Phật lịch), chỉ có một trường phái tu tập duy
nhất trong hàng Phật tử, nhưng vào cuối thế kỷ đó, trong thời kỳ vua
Kàlàsoka trị vì, một nhóm Tỳ Khưu cư ngụ ở Tỳ Xá Ly (Vesàli), đã cố
tình đưa ra 10 điều dễ duôi, nhằm canh tân giới luật của tăng đoàn, họ
tuyên bố những điều này có thể được tăng đoàn cho phép. Nhằm ngăn chặn
những điều phi pháp này, 120 ngàn vị Tỳ Khưu do Ngài Revata lãnh đạo, đã
cu hội tại Vesàli. Ngay sau đó, các vị trưởng lão vì mục đích bảo tồn Phật
ngôn của bậc đạo sư, đã chọn ra bảy trăm vị trưởng lão (Theras)
những bậc đã đắc thánh quả và thông suốt ba Tạng kinh điển; với sự chủ toạ
của Tôn giả Revata và được vua Kàlàsoka bảo trợ, các vị Trưởng Lão đã tổ
chức cuộc kết tập tại Vesàli. Nơi đây, hội nghị được điều hành theo thể
thức chính xác như lần kết tập đầu tiên và kéo dài trong 8 tháng.
Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ thứ hai sau khi
Ðức Phật nhập diệt, nhóm học trò của các vị tăng phạm tội trước đây, tức
các Tỳ Khưu chủ xướng 10 điều phi pháp và đã bị các bậc Trưởng Lão trục
xuất trong kỳ kết tập thứ hai, đã khởi phát một bộ phái mới gọi là Ðại
Chúng Bộ (Mahàsangika), từ những điều phi pháp đó, sau này đã dần
dần phân chia ra thành nhiều nhánh khác nhau. Những người này tự lập ra
giáo lý riêng của họ, mặc dù tuyên bố giáo lý đó là lời Ðức Phật, thế
nhưng những hình thức tôn giáo mà họ thực hiện đều theo ý riêng của họ và
hoàn toàn không liên quan gì đến giới luật và kinh điển của Phật. Do hậu
quả của đa số ưu thế và do những truyền thống tu tập dị biệt của nhóm Tỳ
Khưu này, mà các vị Tỳ Khưu chân chánh đã không thể hành tăng sự theo
những giới luật phát xuất từ niềm tin nguyên thủy được. Vì vậy, chư Tỳ
Khưu trong các chùa Phật giáo ở Ấn Ðộ suốt 7 năm trường đã không hành lễ
Uposattha (lễ phát lồ sám hối mỗi nửa tháng của chư Tỳ Khưu), vì
chỉ có những Tỳ Khưu chân chánh mới được nhìn nhận trong các buổi lễ này.
Ðức Phật nhập diệt năm 543.B.C, 220 năm
sau ngày này (tức năm 323 B.C)
Asoka (A-dục), hoàng đế Ấn
Ðộ, trở thành vị đại hộ pháp cho Phật giáo và ban quyền bảo hộ hoàng gia
cho Tăng đoàn (Sangha), khiến cho tất cả những tu sĩ dị biệt này bị
truc xuất khỏi Giáo Hội. Toàn bộ số tu sĩ bị thanh lọc này lên đến 60 ngàn
người, và từ đó Giáo Hội được chấn hưng, chư Tăng nhất trí hoà hợp, duy
trì những giới luật thánh thiện do Ðức Phật ban hành. Nhằm mục đích tổ
chức thêm một cuộc kết tập để xác minh những lời dạy đích thực của Ðức
Phật, vị chủ trì lúc đó là tôn giả Tissa tuyển chọn một ngàn vị Tỳ Khưu đã
đắc Thánh quả, tinh thông Tam tạng và có trí tuệ toàn hảo; dưới sự bảo trợ
của hoàng đế A Dục, các Ngài đã tổ chức cuộc hội nghị kết tập lần thứ ba
tại Patana, theo phương thức mà Ngài Mahà Kassapa và Revata đã sử dụng
trong hai lần kết tập trước, cuộc kết tập lần này kéo dài trong 9 tháng.
Hoàng đế A Dục đã cho người con trai và
người con gái yêu dấu của mình là hoàng tử Mahinda (Ma-Xẩn-Ðề) và
công chúa Sanghamittà (Tăng-Già
Mật-Ða) gia nhập tăng đoàn, và gởi
họ đến Ceylon (Tích-Lan) để truyền bá đạo Phật tại đây. Các tăng sĩ
do hoàng đế A Dục bảo trợ đã truyền bá giáo pháp khắp cõi Ấn Ðộ và đến 14
quốc gia chư hầu khác ở ngoại biên Ấn Ðộ, cũng như năm vua Hy Lạp
(Greek) là đồng minh của Hoàng Ðế, tất cả những vị vua này đã ký một
thoả hiệp nhìn nhận các đoàn truyền giáo của vua A dục gởi đến. Danh tánh
của năm vị vua này đã được đề cập đến trong sắc lệnh của hoàng đế A Dục và
được khắc tên trong các trụ đá, đó là vua Antiochus của Syria, vua Ptolemy
của Egypt, vua Antigonus của Macedon, vua Magas của Cyrene và vua
Alexander của Epirus. Năm đoàn truyền giáo khác được gởi đến Trung Hoa vào
thế kỷ thứ ba trước công nguyên và từ đây đạo Phật đã tiến đến Korea
(Triều Tiên) năm 372 A.D (sau Công nguyên) và Nhật Bản
(Japan) năm 552 A.D. vào thế kỷ thứ tư và thứ năm sau công nguyên đạo
Phật đã truyền đến Việt Nam, mông cổ và những nước Châu Á khác, đồng thời
từ Kashmir đạo Phật truyền đến Nepal và Tibet. Trong khi đó hai nhà sư do
vua A dục phái đi là Sona và Uttara đã truyền bá đạo Phật vào xứ Miến Ðiện
(Burma), và từ đó dần dần đạo Phật lan truyền đến Arakan và
Cambodia. Ðến thế kỷ thứ bảy, khoảng 638 A.D; phật giáo từ Tích Lan truyền
sang Thái Lan và tại đây đạo Phật trở thành quốc đạo như nó vẫn tồn tại
hiện nay vậy.
Ðến cuối thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch,
Phật giáo tại Ấn Ðộ bị chia làm hai trường phái, một trong hai phái này
chủ trương rằng mỗi cá nhân cần phải tuân thủ theo giáo lý truyền thống
của Ðức Phật để tầm cầu giải thoát Niết Bàn; phái này được gán cho cái tên
là Hinayàna (Tiểu Thừa), hay là cỗ xe nhỏ. Các nước Tích lan, Miến
Ðiện, Thái lan... được xem là thuộc trường phái này. Trong khi đó phái kia
chủ trương những giáo lý đặc biệt hơn về Ðức Phật và thêm vào đó một số
những lý thuyết siêu hình mới mẻ; phái này tự nhận mình là Mahayàna
(Ðại Thừa), hay cỗ xe lớn. Mặc dù những từ Tiểu Thừa (Hinayàna)
và Ðại Thừa (Mahayàna) hoàn toàn không được đề cập đến trong kinh
điển, thế nhưng nó lại trở nên phổ thông trong số các nhà viết lách Tây
phương, do ảnh hưởng của những tu sĩ người Trung Hoa sử dụng. Một trong
những luận sư tên tuổi nhất của trường phái Ðại Thừa này là Long Thọ
(Nàgàrjuna), người đã sáng lập và diễn giải triết lý Trung Quán
(Madhyamika). Cứu cánh và mục tiêu của trung quán luận do Long Thọ chủ
trương là để tạo một sự hoà giải, như nó đã làm, giữa những tín đồ Phật
giáo Ðại Thừa và Bà La Môn giáo, cũng như để tìm ra một điểm chung, ở đây
tín đồ của hai giáo phái này có thể gặp gỡ và bắt tay với nhau. Kể từ thời
Long Thọ, những người Bà La Môn bắt đều xem Phật giáo Ðại Thừa như huynh
đệ của họ trên lãnh vực tôn giáo, và cũng từ đó trường phái Ðại Thừa đã có
tiếng nói ưu thế.
Tuy nhiên, vào những năm cuối của thế kỷ
thứ 11, Ấn Ðộ đã bị người Hồi giáo xâm chiếm, họ đã tiêu huỷ các chùa
chiền, chiếm dụng đất đai tu viện cho quân binh sử dụng, tàn sát hàng ngàn
tăng sĩ và đốt cháy các thư viện và Tàng Kinh Các nào mà họ tìm thấy,
nhiều tu sĩ đã phải vượt biên đến Tây Tạng và những nơi an toàn khác để
nương náu, đem theo được một ít kinh sách bên mình. Như vậy, trên thực tế,
Tiểu Thừa (Hinayàna) đã bị dập tắt khỏi Ấn Ðộ, trong khi đó Ðại
Thừa (Mahayàna) còn nấn ná trong những hẻm hóc hoặc những chỗ hẻo
lánh đâu đó trên đất Ấn trong hơn hai thế kỷ nữa trước khi nó thất truyền
hoàn toàn.
-ooOoo-
Bài 10:
LỄ
HỘI VESÀKHA
(LỄ TAM HỢP)
Một trong những lễ hội quan trọng nhất của
Phật giáo là Ðại Lễ Tam Hợp (Vesàkha) [*]. Vesàkha là gì?
Vesàkha là tên một thang ở Ấn Ðộ, đó là tháng năm
(tương đương với tháng tư âm lịch),
và đây cũng là tháng mà vào ngày trăng tròn của nó (tức ngày rằm)
Ðức Phật đã đản sanh, thành đạo và Niết Bàn, chính vì vậy lễ này được đặt
theo tên của tháng (Vesàkha). Ðể giải thích thêm điều này, chúng ta
hãy ngược dòng thời gian để tìm lại lịch sử Ðức Phật.
Cuộc đời của Ðức Phật là một câu chuyện
rất phi thường về lòng vị tha, tinh thần phục vụ và những lý tưởng vĩ đại
khác. Sinh ra ở Ấn Ðộ vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha (rằm tháng tư
âm lịch) năm 623 trước công nguyên, tên của Ngài là Gotama (Cồ Ðàm);
cha Ngài Suddhodana, là vua nước Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ); mẹ
Ngài là Ma Gia hoàng hậu. Ngày sinh của Gotama được kèm theo bởi những
điềm lạ như là: người mù thấy đường, người điếc nghe được, người câm biết
nói, người gù thẳng lưng và người què đi được; vì thế đức vua cho mời vào
hoàng cung một vị ẩn sĩ nổi tiếng tên là Asita (A Tư Ðà), đạo sĩ
A-Tư-Ðà nổi tiếng trong vương quốc không những về trí tuệ và thông thái,
mà còn về tài đoán điềm giải mộng của ông nữa. Khi đạo sĩ Asita nhìn thấy
hoàng nhi, ông cười một cách hân hoan, nhưng sau đó lại khóc một cách cay
đắng; đức vua thấy vậy vội hỏi lý do, Asita trả lời rằng những điềm lạ tỏ
rõ rằng hoàng nhi sau này sẽ thành Phật, mang lại sự giải thoát cho thế
gian, chính sự kiện thiêng liêng này đã khiến ông vô cùng hoan hỷ. Giải
thích về sự đau buồn của mình, Asita nói rằng, nay ông đã quá già không
còn sống được bao lâu nữa để chứng kiến sự kiện hân hoan này, và ngày chết
của ông đang đến gần tới nỗi ông không thể cầm được những giọt nước mắt.
Ðức vua hỏi tiếp:
"Thái tử con ta sẽ thấy điều gì khiến cho nó
phải xuất gia tu hành như vậy?".
Ðối với vấn đề này, Asita trả lời "bốn dấu hiệu". Vua nóng ruột hỏi
thêm "bốn dấu hiệu đó là gì?"
Asita trả lời "một người già,
một người bệnh, một người chết và một tu sĩ". Vua liền nói:
"Từ lúc này trở đi, không được phép để cho
bốn loại người này đến gần con ta, như vậy nó sẽ không trở thành Phật
được; điều mà ta muốn thấy là con trai ta sẽ có quyền lực cai trị khắp bốn
châu thiên hạ này". Thế là đức vua
cắt đặt canh phòng bốn hướng quanh hoàng thanh, mỗi hướng xa khoảng một
dặm, để không một ai trong bốn loại người này có thể lọt vào tầm mắt của
thái tử.
Như vậy thái tử Gotama đã trải qua những
năm tháng đầu đời trong vinh hoa, phú quý và được giáo dục kỹ lưỡng, chỉ
thấy quanh mình những điều đẹp mắt vừa ý. Tuy nhiên năm 29 tuổi, sự thực
đã hé mở trước mắt Ngài, và thế là Ngài quyết định hiến trọn đời mình để
tìm cho ra câu trả lời cho ba vấn đề trọng đại: chúng ta từ đâu đến, tại
sao chúng ta lại có mặt ở đây (thế gian này) và chúng ta sẽ đi về
đâu (sau khi chết)? Sự quyết định này xảy ra như là hệ quả của bốn
sự kiện trọng đại hay bốn dấu hiệu mà đạo sĩ Asita đã đề cập, những dấu
hiệu này đã buộc Ngài phải chú tâm đến vấn đề sanh, lão, bệnh, tử của kiếp
nhân sinh "tại sao người ta lại phải già?" Ngài hỏi nhưng không ai
có thể trả lời được. Bệnh đau từ đâu đến để rồi tước đoạt đi của con
người, ngay cả cái hạnh phúc tạm bợ nhất; cái thể xác cứng lạnh, im lìm
đang nằm bất động trên giường chết kia có ý nghĩa gì? Liệu cái tâm có chết
ở đó không; phải chăng chết là chấm dứt hết mọi việc, hay đó là một sự
giải thoát, một cánh cửa mở để đi vào thế giới bên kia? Từ những vấn đề
này đã làm cho vị hoàng tử trẻ phải trầm tư sâu lắng, nhưng không sao tìm
được câu trả lời cho đến khi Ngài thành Phật. Thế rồi Ngài gặp một tu sĩ,
dấu hiệu thứ tư mà đạo sĩ Asita đã tiên đoán, khuôn mặt của thầy đầy an
lạc và điềm tĩnh, khẳng định sự giải thoát khỏi già, đau, bệnh, chết, như
đã hé mở cho vị hoàng tử trẻ một điều gì; qua hình ảnh của người tu sĩ
thánh thiện, hoàng tử như đã được chỉ cho thấy là hạnh phúc thực sự nằm ở
trong sự an lạc và hiểu biết.
Bức xúc trước tình cảnh của đồng loại,
thái tử lén rời khởi hoàng cung năm Ngài vừa tròn 29 tuổi, để lại đằng sau
tất cả những quyến luyến của trần gian, kể cả vợ đẹp con thơ, Ngài lang
thang không chút di sản và một mình một bóng giữa những núi rừng trùng
điệp ở Ấn Ðộ, tham vấn bất cứ vị đạo sư nào Ngài gặp xem họ có thể hé mở
chút ánh sáng nào về bí ẩn của kiếp nhân sinh không. Câu trả lời mà Ngài
nhận được, luôn luôn là câu trả lời phủ định, những vị đạo sư cũng như
luận sư thời ấy, những người tự hào có thể lý giải bất cứ điều gì, thế
nhưng họ không thể nào trả lời được những gì Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm.
Ngài xoay qua hành pháp khổ hạnh ép xác, và qua những khổ hạnh nghiêm khắc
này Ngài đã nổi tiếng như một bậc Thánh nhịn ăn và du phương đây đó, bao
quanh Ngài có rất nhiều môn đệ, họ tôn sùng Ngài vì những nhiệt tâm không
mệt mỏi và lòng cam đảm phi thường của Ngài. Hao mòn vì dầm mưa dãi nắng,
đau đớn vì những pháp khổ hạnh và khổ sở vì thiếu ăn uống, cuối cùng sức
khoẻ của Ngài suy sụp. Sau đó Ngài nhận ra rằng mọi nỗ lực tự hành xác đều
không đem lại kết quả, và cũng chẳng đến gần đáp án cho những vấn đề trọng
đại của Ngài là bao, so với những năm tháng sống trong hoàng cung thụ
hưởng mọi tiện nghi vật chất. Khi thấy rõ được sự tự hành xác là vô bổ như
vậy, Ngài bắt đầu ăn uống theo cách thức hợp lý trở lại, thế nhưng lập tức
Ngài bị những đệ tử của mình bỏ rơi, vì họ cho rằng bậc Thánh vĩ đại đã ăn
uống lại, giống như một người tội lỗi ăn vậy.
Bị bỏ rơi và phủ vây bởi những điều bất
trắc giữa rừng gia cô quạnh, thái tử Gotama lại tiếp tục cuộc hành trình
lang thang vô định của mình, cuối cùng ngồi lại dưới bóng mát của cây Bồ
đề, tại đây Ngài quyết định ở lại cho đến khi nào tự mình tìm ra chân lý.
Chậm rãi, từng giờ trôi qua, lắng sâu trong thiền định, trí tuệ của Ngài
phát triển đến mức toàn hảo nhất của nó, tâm Ngài... không còn bị đoanh
vây bởi những âu lo và những vấn đề nan giải nữa, Ngài nhìn thấy rất rõ
tiến trình của kiếp nhân sinh, thấy cả nguyên nhân của các vấn đề và cách
chữa trị của nó. Chính tại đây thái tử Cồ Ðàm đã trở thành một vị Phật -
vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha (rằm tháng tư âm lịch) - năm đó
Ngài vừa 35 tuổi.
Trí tuệ viên mãn, thoát khỏi đám mây mù
của vô minh, Ngài rời khỏi chỗ ngồi dưới gốc cây Bồ đề và ra đi thuyết
giảng chân lý giải thoát; ngang qua cố đô Benares Ngài dừng chân tại một
tỉnh nhỏ của Saranath, nơi đây Ngài gặp lại 5 người đệ tử đã bỏ rơi Ngài.
Ðức Phật thuyết phục họ lắng nghe và Ngài thuyết bài Pháp đầu tiên của
Ngài, năm người này đã trở thành những đệ tử đầu tiên trong tôn giáo, mà
sau này là tôn giáo lớn nhất thế giới.
Trong suốt 45 năm Ðức Phật đã thuyết giảng
chân lý giải thoát, giáo lý mà Ngài gọi là Dhamma (Pháp), Ðạo Lý về
Con Ðường Trung Dung. Ðức Phật đã xoá bỏ hai cực đoan lợi dưỡng và khổ
hạnh, hướng dẫn hàng đệ tử của mình một đạo lý vĩ đại nhất, đạo lý mà ngày
nay thế gian vẫn áp dụng và đem lại kết quả tốt đẹp như cách đây 2500 năm
trước khi Ngài thuyết giảng lần đầu. Ðức Phật nhập diệt năm Ngài đúng 80
tuổi vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha (rằm tháng tư).
Hoài niệm ba sự kiện thiêng liêng này,
hàng năm người Phật tử chúng ta long trọng cử hành đại lễ Tam Hợp
(Vesàkha) [*].
[*] Trong truyền thống Bắc Tông, ngày
nầy thường được gọi là ngày Phật Đản. Tuy nhiên, trong truyền thống Phật
giáo Nguyên thủy, đây là Ngày Tam Hợp, kỷ niệm ba sự kiện thiêng liêng
cao quý trong lịch sử Đạo Phật (Bình Anson chú thích).
TRIẾT LÝ CĂN BẢN CỦA ÐẠO PHẬT
Ðạo Phật dựa căn bản trên sự kiện rằng vô
minh chính là nguyên nhân gây ra mọi bất hạnh trong thế gian này, và rằng
chỉ tự mình chứng ngộ sự thực (chân lý) mới có thể chiến đấu với
cái vô minh này. Ðức Phật dạy: "Từ
vô minh sinh ra bất thiện, và tội lỗi, nếu nhân loại thấy rõ được như vậy,
họ có thể hành động chân chánh".
Do đó chánh kiến là điều tuyệt đối cần thiết cho một cuộc sống tri thức và
tâm linh chân chánh.
Con người, trong cái si mê mù quáng của
họ, đã tạo ra không biết bao nhiêu là điều ác (tội lỗi) và khổ đau
trong thế gian này, vì thế cho nên
Chân Ðế đầu tiên trong Tứ Ðế là Sự
Thực về Khổ. Hàng ngày chúng ta có thể nhận ra quanh mình những hậu quả mà
người ta phải gặt hái do lòng tham muốn đối với những gì mà họ không có,
cũng như hậu quả của việc cố gắng tránh né những trách nhiệm mà lẽ ra họ
phải nhận lãnh. Chúng ta cũng biết rằng, trong hầu hết các trường hợp, thì
tham vọng hay lòng khát khao đã là nguyên nhân chính khiến cho con người
hư hỏng. Ðức Phật dạy rằng cái khuynh hướng muốn sở hữu của con người là
kẻ thù nguy hiểm nhất của họ, bởi vì tham muốn tích luỹ đã tước đi của họ
lý trí và sự hiểu biết. Như vậy chúng ta đi đến Chân Ðế Thứ Hai của Tứ
Ðế, đó là nguyên nhân của khổ hay Tập Ðế. Nguyên nhân chính của khổ
đau và bất hạnh là lòng tham muốn sở hữu, và khát khao muốn giữ những gì
đã có.
Dính mắc vào một vật là sẽ đau buồn khi
mất nó, không ưa hay ghét bỏ một điều gì, cũng sẽ mất vui khi phải gần nó.
Ðức Phật dạy rằng tham muốn ích kỷ đối với những đối tượng vật chất thế
gian, hậu quả là phải hy sinh kho báu tinh thần của mình để giữ lấy đối
tượng của lòng tham ấy, mà có thể đối tượng đó còn kém giá trị hơn là đằng
khác. Do đó, chúng ta thấy là lòng tham ích kỷ đã huỷ hoại đi khả năng
phân biệt về giá trị, vì lòng tham đặt sở hữu thế gian lên trên trí tuệ và
quyền lợi cá nhân lên trên những nguyên tắc đạo đức.
Chân Ðế Thứ Ba
là sự giải thoát khỏi khổ đau, điều này được đạt đến nhờ sự tận diệt mọi
tham muốn ích kỷ. Song song với điều này chúng ta thấy rằng chấp thủ là
căn để của sự sợ chết, và rằng khi một cá nhân không chấp giữ vào những sở
hữu của mình thì việc nó đến hay đi cũng không khiến họ phải xao động.
Trong khi đó, nếu bị dính mắc vào vật sở hữu thì họ sẽ than khóc khi nó
mất, và nếu như đó là điều mà họ ghét thì họ cũng sẽ khóc than khi phải
gần nó. Ngày nào đôi mắt họ còn có khả năng nhỏ lệ
(đối với việc còn - mất của thế gian),
ngày ấy bảo đảm họ không thể có trí tuệ được. Con đường trung dung là con
đường của Ðức Phật, để bước vào con đường trung dung này chúng ta phải
hiểu rõ Bát Chánh Ðạo, đó là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh, đây chính là
Chân Ðế Thứ Tư.
Nằm dưới các pháp này (Bát Chánh Ðạo)
là một triết lý rất thâm diệu, vì Bát Chánh Ðạo được dựa trên bốn pháp
cùng tột đó là: Tâm, Tâm sở, Sắc pháp và Niết Bàn.
Tuy nhiên, đạo Phật không phải là một chủ đề để người ta nghiên cứu, đơn
thuần trên quan điểm lịch sử và văn học; ngược lại, đạo Phật cần phải được
học và đem ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày, vì không thực sự hành chắc
chắn người ta không thể nếm được hương vị giải thoát. Ðạo Phật cần được
nghiên cứu và thực hành, nhưng trên hết những lời dạy của Ðức Phật vẫn là
phải chứng ngộ; tự chứng là cứu cánh tối thượng, chưa bao giờ nhân loại
chúng ta cần đến lời dạy của Ðức Phật hơn ngày nay. Ðó chính là con đường
chỉ cho chúng ta thấy rằng hạnh phúc chỉ đến với trí tuệ, trí tuệ này là
kết quả của cuộc sống chân chánh, và chỉ chừng đó thôi là đủ.
--- o0o
---
Mục Lục |
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
--- o0o
---
Source:
BuddhaSasana website
( By Binh Anson)
Trình bày :
Nhị Tường
Cập
nhật ngày: 1-2-2003