Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Phẩm hạnh A La Hán
"Dù
ít tụng nhưng hành đúng giáo lý,
diệt tham, sân, si,
tri kiến chân chánh, tâm siêu thoát,
không luyến ái, tại đây và về sau.
Người ấy sẽ chứng nghiệm thành quả
của đời sống phạm hạnh thiêng liêng." -- Kinh Pháp Cú
---o0o---
Trong
Tam Tạng kinh điển có rất nhiều Phật ngôn mô tả trạng thái
vắng lặng và hạnh phúc của một vị A La Hán, còn tạm trú
trên thế gian cho đến khi ngũ uẩn chấm dứt, để phục vụ
những ai muốn tìm Chân Lý, bằng lời giáo huấn và gương lành
trong sạch.
Kinh Pháp Cú ghi lại những Phật ngôn
sau đây:
Đối với người đã trải qua suốt
cuộc hành trình [1], chấm dứt mọi ưu phiền [2], hoàn toàn
siêu thoát [3], cắt đứt mọi trói buộc [4], nhiệt độ (tham
ái) không còn nữa .[5] -- (câu 90)
Người tự lực cố gắng giữ tâm
niệm, không luyến ái, không đeo níu theo nơi trú ẩn nào; cũng
tựa hồ như những con thiên nga đã lìa ao hồ, người ấy
rời bỏ nhà này đến nhà khác, và ra đi. [6] -- (câu 91)
Những ai không tích trữ [7], giữ chánh
niệm khi dùng vật thực [8], những vị đã nhắm sự Giải
Thoát, vốn hư không và vô hình tướng, như đối tượng
của mình [9]. Lộ trình của những vị ấy không khác nào
lộ trình của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ
lại được. -- (câu 92)
Người tận diệt ô nhiễm, không
luyến ái vật thực, nhắm đến Giải Thoát, vốn hư không và
vô tướng, như đối tượng của mình. Con đường của Ngài
không khác nào con đường của đàn chim bay trên không trung,
không thể vẽ lại. -- (câu 93)
Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh
phúc Niết Bàn bằng cách chứng đắc Đạo Quả A La Hán trong
kiếp sống hiện tiền. Đã chế ngự lục căn như tuấn mã
được huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ ngã mạn và không
còn ô nhiễm, người vững chắc như thế, chí đến chư Thiên
cũng quý mộ. -- (câu 94)
Như đất, người giữ tâm quân bình
và có nếp sống kỷ cương không còn xúc động. Người ấy
như trụ đồng Indakhila [10], như ao hồ phẳng lặng, không
bị bùn đất làm nhơ bẩn. Với người có tâm quân bình như
thế [11], cuộc đi lang thang bất định của đời sống không
còn lặp lại nữa [12]. -- (câu 95)
Tâm trầm tĩnh, ngôn ngữ trầm tĩnh,
hành động trầm tĩnh, người ấy, hiểu biết chân chánh,
trọn vẹn siêu thoát, hoàn toàn tịnh lạc và quân bình. -- (câu
96)
Người không nhẹ dạ [13], thấu
triệt trạng thái Vô Sanh [14] (Niết Bàn), cắt đứt mọi hệ
lụy [15], chấm dứt mọi cơ hội [16] (cho điều thiện và điều
ác phát sanh) [17], tận diệt mọi tham ái [18], người ấy
quả thật là tối thượng. -- (câu 97)
Dù ở làng mạc hay trong rừng sâu,
ở non cao hay trũng thấp [19], bất luận nơi nào mà vị A La Hán
trú ngụ, nơi ấy quả thật là tịnh lạc. -- (câu 98)
Quả thật tịnh lạc, chốn rừng sâu
mà người trần tục không thích ở. Người hết dục vọng
[20] sẽ hoan hỷ an trú (ở nơi ấy) vì các Ngài không tìm
dục lạc. -- (câu 99)
Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù
giữa đám người thù hận. Giữa những người thù hận, ta
sống không thù hận. -- (câu 197)
Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe
[21] giữa những người ươn yếu. Giữa đám người bệnh
hoạn ta được sống mạnh khoẻ. -- (câu 198)
Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát
(dục lạc) giữa những người khao khát. Trong đám người
tham ái ta sống không dục vọng. -- (câu 199)
Hạnh phúc thay, ta sống không bị chướng
ngại. Dưỡng nuôi phỉ lạc, ta sẽ như các vị Trời trong
cảnh Quang Âm Thiên. -- (câu 200)
Người không còn bờ bên này [22] hay
bên kia [23], cũng không còn cả hai bên, bên này và bên kia, người
thoát ly phiền não và không còn bị ràng buộc [24] - Như Lai
gọi ngườiay là Bà La Môn (Brahmana). [25] -- (câu 385)
Người có hành thiền [26], sống
trong sạch và ẩn dật [27], hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra
khỏi mọi hoặc lậu [28], người đã thành tựu Mục Tiêu
Tối Thượng [29] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu
391)
Người đã cắt đứt mọi thằng thúc,
người không còn run sợ, đã vượt hẳn ra khỏi mọi ràng
buộc, không dính mắc - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn.
-- (câu 397)
Người ấy đã cắt đứt dây cương
(sân hận), dây thừng (luyến ái), và dây nọng (tà kiến), cùng
các món đồ bắt kế (những khuynh hướng còn ngủ ngầm),
vứt bỏ cây trục (vô minh), người đã giác ngộ (Phật) [30]
- Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 398)
Người không tức giận, chịu đựng
lời khiển trách, roi vọt, và hình phạt. Người lấy hạnh
nhẫn nhục làm quân lực (để tự bảo vệ) - Như Lai gọi người
ấy là Bà La Môn. -- (câu 399)
Người không nóng giận, làm tròn
bổn phận [31], giới hạnh trang nghiêm, thoát khỏi ái dục,
thu thúc lục căn và mang xác thân ngũ uẩn này lần cuối cùng
[32] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 400)
Như nước trên lá sen, như hột cải
đặt trên đầu mũi kim, người không luyến ái dục lạc - người
ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 401)
Tại đây, trên thế gian này, người
chứng ngộ sự tận diệt phiền não của chính mình, người
bỏ gánh nặng xong bên đàng [33] và siêu thoát - người ấy,
Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 402)
Người có tri kiến thâm diệu, người
trí tuệ, thấu hiểu đường chánh nẻo tà [34], người đã
thành đạt mục tiêu tối thượng - Như Lai gọi người ấy là
Bà La Môn. -- (câu 403)
Người không trìu mến hàng cư sĩ cũng
như hàng xuất gia, người du phương đó đây, không có một nơi
ở nhất định, người không còn tham ái - người ấy, Như
Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 404)
Người đã rời bỏ gậy gộc trong
khi tiếp xúc với chúng sanh, mạnh hay yếu, không sát sanh
hoặc làm tổn thương bất luận ai - Như Lai gọi người ấy
là Bà La Môn. -- (câu 405)
Thân hữu giữa những người thù
nghịch, ôn hoà trong đám đông hung hăng, hỷ xả giữa người
cố chấp [35] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu
406)
Nơi con người mà tham lam, sân hận,
ngã mạn và phỉ báng (không còn bám vào được) lả tả rơi
như hột cải để đầu mũi kim (phải rơi) - Như Lai gọi người
ấy là Bà La Môn. -- (câu 407)
Người nói lời êm dịu, hiền hoà,
xây dựng, chân thật và không xúc phạm đến ai - người ấy,
Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 408)
Người không tham ái điều gì trong
thế gian này hay thế gian kế, người dập tắt dục vọng và
siêu thoát - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu
410)
Người đã vượt khỏi điều thiện,
điều ác, và mọi ràng buộc [36], người không ưu phiền, không
ô nhiễm và tinh khiết - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn.
-- (câu 412)
Ngh không bợn nhơ, người trong sáng
như mặt trăng, thanh tịnh, vắng lặng và không chao động
[37], người đã tuyệt trừ tham ái thủ hữu - người ấy, Như
Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 413)
Người đã tự tách rời ra những ràng
buộc trong cảnh người và vượt qua những thằng thúc của
cảnh Trời, thoát ly mọi hệ lụy - người ấy, Như Lai gọi
là Bà La Môn. -- (câu 417)
Người đã dứt bỏ ưa [38] và ghét
[39], thản nhiên, không bị ô nhiễm [40] làm hoen ố, người
đã khắc phục thế gian [41] và kiên trì cố gắng - người
ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 418)
Người không bám vào ngũ uẩn trong
quá khứ, vị lai hay hiện tại, không luyến ái (ái) và không
bám chặt vào (thủ) - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn.
-- (câu 412)
Vô quý [42], cao thượng, anh dũng, đại
hiện thánh [43], người đã khắc phục [44], không còn dục
vọng, người ấy rửa sạch [45] (mọi ô nhiễm), đã giác
ngộ [46] - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 422)
Bậc hiền thánh đã thấu hiểu
tiền kiếp, đã thấy những cảnh hạnh phúc [47] và đau khổ
[48], đã đến mức tận cùng của mọi kiếp sống [49], người
đã, với trí tuệ cao siêu, tự mình cải tiến [50], hoàn
tất [51] (đời sống phạm hạnh thiêng liêng) và chấm dứt
mọi dục vọng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu
423).
Chú thích:
[1] Suốt cuộc hành trình trong vòng
luân hồi: ám chỉ một vị A La Hán.
[2] Hành giả chấm dứt mọi ưu
phiền lúc đắc Quả A Na Hàm, tầng thứ ba trong bốn tầng thánh.
Đến tầng ấy, hành giả đã tận diệt mọi luyến ái đeo níu
theo dục vọng và mọi hình thức bất mãn.
[3] Sabbadhi, hoàn toàn tự do, thoát ra
khỏi mọi dính mắc đối với ngũ uẩn v.v...
[4] Có bốn loại trói buộc (gantha) là:
a/ tham muốn (abhijja), b/ oán ghét (vyapada), c/ dễ duôi nương
theo nghi thức lễ bái và cúng tế (silabbataparamasa, giới cấm
thủ), d/ cố chấp trong thành kiến, khư khư chấp rằng thành
kiến của mình là chân lý (idhamsaccabhinivesa, kiến thủ).
[5] Những câu này ám chỉ phẩm
hạnh của một vị A La Hán. Có hai loại nhiệt độ: tinh
thần và vật chất. Lúc còn sống, một vị A La Hán còn thọ
cảm nhiệt độ của thể xác, nhưng không quan tâm đến. Tuy
nhiên, Ngài không còn có nhiệt độ của tham vọng, hay lửa
tham ái.
[6] Chư vị A La Hán đi lang thang bất
định, không luyến ái một nơi ở nhất định nào bởi vì các
Ngài đã hoàn toàn tự do, đã thoát ra khỏi mọi quan niệm
về "Ta" và "Của Ta".
[7] Có hai loại tích trữ là hoạt động
có liên quan đến nghiệp (tức tích trữ nghiệp hay hành), và
bốn món cần thiết trong đời sống của một vị tỳ khưu (tứ
vật dụng: thuốc men, chỗ ở, y bát và vật thực). Loại tích
trữ đầu tiên có khuynh hướng kéo dài cuộc hành trình trong
vòng luân hồi. Tứ vật dụng, mặc dù cần thiết, có thể là
một trở ngại cho tiến bộ tinh thần.
[8] Dứt khoát từ bỏ mọi thèm
muốn về vật thực.
[9] Giải Thoát, hay Niết Bàn, là thoát
ra khỏi mọi phiền não (Vimokkha). Gọi là hư không vì còn lòng
tham-sân-si, chớ không phải Niết Bàn là hư vô, không có gì
hết hay tuyệt diệt. Niết Bàn là trạng thái siêu thế tích
cực, không thể mô tả bằng ngôn ngữ tại thế. Không có
dấu vế của tham-sân-si, chư vị A La Hán chứng nghiệm quả
vị Niết Bàn lúc còn ở trong kiếp sống này. Nói rằng sau
khi từ bỏ kiếp này, các Ngài sẽ còn sống, "tại",
hay hết sống, "bất tại", đều không đúng, bởi vì
Niết Bàn không phải vĩnh cửu cũng không phải hư vô. Không
có cái gì để vĩnh viễn hóa cũng không có cái gì, ngoại
trừ khát vọng, để tuyệt diệt (hư vô hoá).
[10] Indakhila là một cây cột vừa
vững chắc vừa cao của Trời Đế Thích, hoặc là cây trụ
chánh ở cổng vào một thị trấn.
Các nhà chú giải ghi nhận rằng
Indakhila này là những trụ cột vững chắc, dựng lên bên
trong hay bên ngoài các thị trấn cho đẹp mắt. Thông thường,
các trụ cột này làm bằng gạch hoặc bằng gỗ, hình bát giác.
Những trụ cột này được chôn thật sâu dưới đất. Do đó
có thành ngữ "vững chắc như trụ Indakhila".
[11] "Tadi" là người đã buông
xả, không còn luyến ái những gì ưa thích, không bất mãn
với điều không vừa lòng, cũng không bám níu vào điều gì.
Giữa tám điều kiện thăng trầm của thế sự - được và
thua, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu,
hạnh phúc và đau khổ - một vị A La Hán sống hoàn toàn bình
thản. Tâm quân bình, không chao động, không biểu hiện lòng
ưa thích hay bất mãn, không hỷ hạ vui cười mà cũng không
lo âu sầu muộn.
[12] Bởi vì các Ngài không còn sanh
tử nữa.
[13] Assaddho, theo sát nghĩa là không tín
nhiệm hay không trung thành. Vị A La Hán không chấp nhận suông
những nguồn hiểu biết, vì chính Ngài đã tự chứng nghiệm
chân lý.
[14] Akata, Vô Sanh, là Niết Bàn.
Akatannu cũng có thể được hiểu là người vô ân bạc nghĩa.
[15] Những dây nối liền trong kiếp
nhân sinh. Sandicchedo cũng có nghĩa là người phá nhà, một tên
trộm.
[16] Hata + avakaso là người đã tiêu
trừ cơ hội.
[17] Vanta + aso, người ăn đồ ói
mửa, là một định nghĩa khác của danh từ này.
[18] Bằng bốn Thánh Đạo. Những hình
thức thô kịch của tham ái được chế ngự trong ba tầng Thánh
đầu tiên. Hình thức vi tế được tận diệt trong tầng
cuối cùng.
[19] Nina và Thala, sát văn tự là
những lớp thấp và những đất cao, những thung lũng và
những đồi cao.
[20] Chư vị A La Hán đã dứt bỏ
dục vọng,thích ở nơi vắng vẻ ẩn dật trong rừng sâu, nơi
mà người trần tục không thích.
[21] Khỏe mạnh, không còn những
chứng bệnh của tham ái.
[22] Bờ bên này, tức Param, lục căn:
nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.
[23] Bờ bên kia, tức Aparam, lục
trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
[24] Không dính mắc, không bị ràng
buộc vào điều gì như "Ta" và "Của Ta".
[25] Brahmana là một danh từ có liên
quan đến giai cấp Bà La Môn, giai cấp được ưu đãi nhất
thời bấy giờ, và cũng là danh từ để gọi những người
theo đạo Bà la Môn. Mặc dù vậy ở đây Brahmana có nghĩa là
người đã hoàn tất Con Đường, người đã chứng nộ Đạo
và Quả, tức một vị Phật hay một vị A La Hán. Trong chương
này danh từ Bà La Môn được dùng theo ý nghĩa này.
[26] Người thực hành thiền Vắng
Lặng (Samatha, chỉ) và thiền Minh sát (Vipassana, quán).
[27] Asinam, người sống một mình
trong rừng, ẩn dật.
[28] Bằng cách chứng ngộ Tứ Diệu
Đế và tận diệt các Thằng Thúc.
[29] Tức chứng ngộ Niết Bàn.
[30] Đã thông suốt Tứ Diệu Đế.
[31] Bổn phận đối với đạo giáo.
[32] Vì người đã tận diệt dục
vọng không còn tái sanh nữa.
[33] Gánh nặng của ngũ uẩn.
[34] Người thông suốt con đường
dẫn đến những cảnh khổ, con đường dẫn đến các nhàn
cảnh và con đường Niết Bàn.
[35] Những người còn thành kiến ngã
chấp, còn luyến ái ngũ uẩn.
[36] Những ràng buộc ấy là: tham, sân,
si, ngã mạn và tà kiến.
[37] Không bị ô nhiễm làm chao động.
[38] Tức luyến ái, đeo níu theo
nhục dục ngũ trần.
[39] Arati, ghét bỏ, không chịu cuộc
sống ở chốn rừng sâu (theo bản Chú giải).
[40] Upadhi, bợn nhơ. Có bốn loại
upadhi là: ngũ uẩn (khanda), khát vọng (kilesa), tác hành (abhisankhara),
và dục lạc (kama).
[41] Thế gian là ngũ uẩn.
[42] Usabham, là con trâu cổ - Ý nói
người vô úy, không sợ sệt, như con trâu cổ.
[43] Mahesim, người tìm giới định,
tuệ, cao thượng.
[44] Vijitavinam, người đã khắc
phục mọi khát vọng.
[45] Nahatakam, người đã thanh lọc
mọi ô nhiễm.
[46] Buddham, người đã thông suốt
Tứ Diệu Đế.
[47] Sagga, là sáu cảnh Trời Dục, mười
sáu cảnh Trời Sắc Giới, bốn cảnh Trời Vô Sắc Giới. (Xem
Chương 27).
[48] Apaya là bốn khổ cảnh.
[49] Jatikkhayam là đạo quả A La Hán.
[50] Abhinnavosito tức là đến mức cùng
tột bằng cách thông suốt những điều phải được thông
suốt, xa lìa những điều phải xa lìa, chứng ngộ những gì
phải chứng ngộ và trau dồi những gì phải trau dồi (theo
bản Chú giải).
[51] Sabbavositavosanam tức là đã
sống đời phạm hạnh thiêng liêng dẫn đến mức tận cùng
là tuệ giác có liên quan đến Con Đường A La Hán, chấm
dứt mọi khát vọng.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com