Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Phụ
Bản 5
Từ Bi Kinh
(Metta Sutta)
---o0o---
1. Người
khôn khéo mưu tìm lợi ích cho mình và có ước nguyện thành
đạt trạng thái Vắng Lặng [2] nên có hành động (như thế
này):
Người ấy phải có khả năng, phải
chánh trực, hoàn toàn chánh trực [3].
2. Tri túc, dễ nuôi (sống giản dị,
để cho người thiện tín dễ dàng hộ trì), có ít nhiệm
vụ (ít bị ràng buộc), sống dễ dàng (không nhiều nhu cầu),
thu thúc lục căn, kín đáo, tế nhị, không luyến ái gia đình.
3. Người ấy khác nên vi phạm lỗi
lầm nhỏ bé nào mà bậc thiện trí có thể khiển trách. Ước
mong tất cả chúng sanh được an vui và châu toàn! Ước mong
tất cả đều có tâm hoàn toàn trong sạch.
4. Bất luận chúng sanh ấy như thế
nào: - yếu đuối hay khỏe mạnh, cao lớn mập mạp hay tầm vóc
bình thường, lùn thấp bé nhỏ, hữu hình hay vô hình, những
chúng sanh ở gần hay những chúng sanh ở xa, những chúng sanh
đã ra đời hoặc những chúng sanh chưa sanh - Ước mong tất
cả chúng sanh, không loại trừ bất luận ai, đều có tâm an
lành hạnh phúc.
5. Không ai làm cho ai thất vọng, không
ai khinh bỉ ai, dù người như thế nào hoặc ở nơi đâu.
Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn, không nên mong điều bất
hạnh đến với người khác.
6. Cũng như bà từ mẫu hết lòng
bảo bọc đứa con duy nhất của bà dù có hiểm nguy đến tính
mạng, cùng thế ấy người kia trau giồi tâm Từ vô lượng vô
biên, rải khắp mọi chúng sanh.
7. Hãy để những tư tưởng từ aí
vô biên bao trùm toàn thể thế gian: - bên trên, phía dưới,
bốn phương tám hướng, không để cho điều gì làm trở
ngại, không mảy may nóng giận, không chút hiềm thù.
8. Dù người ấy đứng, đi, ngồi
hay nằm, giây phút nào còn thức (không ngủ) thì nên phát
triển tâm niệm. Đó là Phúc Lành Cao Thượng Nhất. [4]
9. Không để rơi vào những Lầm
Lạc [5], đức hạnh trong sạch và viên mãn Giác Ngộ [6], người
ấy lánh xa mọi hình thức ái dục. Đúng như vậy, người
ấy không còn trở lại vào bào thai [7].
---o0o---
Chú Giải Từ
Bi Kinh:
[1] Vào lúc ấy mùa mưa sắp đến,
sau khi được Đức Phật ban dạy những đề mục hành thiền,
một nhóm tỳ khưu ra đi, tìm nơi thích hợp để thực hành.
Trong cuộc đi bất định ấy các Ngài đến một địa điểm
vắng vẻ yên tĩnh và quyết định ở lại đó hành thiền
nhằm mục tiêu giải thoát.
Các vị thọ thần sống trên cây
cảm thấy bất tiện nên tìm cách làm cho chư tỳ khưu không
còn ở được và phải ra đi. Đêm đêm các vị thọ thần làm
đủ cách để phá khuấy không cho chư tăng ở yên hành
thiền.
Chư vị tỳ khưu thấy khó mà an
trụ tâm trong tình trạng như vậy nên trở về cbùa bạch
lại tự sự với Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy chư Tăng bài Kinh
Metta Sutta (kinh về tâm Từ) và khuyên các vị này trở lại
ngay địa điểm trước rồi cùng đọc lên bài Kinh này khi vào
rừng. Chư Tăng làm theo lời dạy.
Những tư tưởng Từ ái an lành được
ban rải ra, thấm nhuần bầu không khí trong toàn khu rừng. Các
vị thọ thần ở khắp nơi trong rừng nghe Kinh cảm thấy
thanh bình an lạc, phát tâm kỉnh mộ chư Tăng, và kể từ đó
thay vì khuấy nhiễu làm trở ngại, tận tình hộ trì và nâng
đỡ chư Tăng.
Trong thời đại ba tháng an cư kiết
hạ, Vassana, tất cả chư vị tỳ khưu trong nhóm đều chứng
đắc Đạo Quả A La Hán.
Bài Kinh Metta Sutta này vừa có tánh cách
bảo hộ, vừa là một đề mục hành thiền. Phần đầu bài
Kinh mô tả những phẩm hạnh mà người mong tìm tình trạng
an lành cho mình cần nên trau giồi, và phần sau là phương pháp
thực hành tâm Từ, được giải thích cặn kẽ.
[2] Tức Niết Bàn.
[3] Uju và Suju. Chữ Uju hàm ý đặc tánh
chánh trực trong lời nói và hành động - tức thân khẩu chánh
trực. Chữ Suju là tâm chánh trực (Bản Chú Giải).
[4] Đó là thực hành Tứ Vô Lượng
Tâm (Brahma Vihara).
[5] "Lầm lạc" ở đây có
nghĩa Sakkayaditthi (thân kiến).
[6] Tức nhoáng thấy Niết Bàn lần
đầu tiên.
[7] Khi đã chứng đắc tầng Anagami
(A Na Hàm) thì tái sanh vào cảnh giới Suddhavasa (Cảnh Giới
Trong Sạch) và không cần tái sanh vào cảnh người.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com