Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Con đường Niết Bàn (II)
"Một
con đường để thành đạt lợi ích thế gian,
Một con đường khác dẫn đến Niết Bàn" -- Kinh Pháp Cú.
---o0o---
Tâm Định (Samadhi)
Đã
vững vàng trên nền tảng Giới luật, hành giả bước vào
con đường cao thượng hơn - hành thiền - để tiến đến tâm
Định (samadhi), tức là kiểm soát và trao giồi tâm, giai đoạn
thứ nhì của con đường trong sạnh (Thanh Tịnh Đạo).
Định (samadhi) là giữ tâm an trụ vào
một điểm, gom tâm vào đề mục, và hoàn toàn không để ý
gì khác, ngoài đề mục ấy.
Theo Phật Giáo, có bốn mươi đề
mục thành thiền khác nhau, tùy tâm tánh của mỗi cá nhân.
Bốn mươi đề mục hành thiền là:
a.- Mười đề mục để niệm
(kasina, biến xứ): [1]
1. Dùng
đất để làm đề mục, 2. Dùng nước để làm đề mục, 3.
Dùng lửa làm đề mục, 4. Dùng không khí làm đề mục, 5. Dùng
vật có màu xanh làm đề mục, 6. Dùng vật có màu vàng làm
đề mục, 7. Dùng vật có màu đỏ để làm đề mục, 8. Dùng
vật có màu trắng để làm đề mục, 9. Dùng ánh sáng làm đề
mục, 10. Dùng không gian làm đề mục.
b.- Mười đề mục về tử
thi (asubha, ô trược) [2], là mười loại tử thi kể sau:
1. Tử
thi sình (uddhumataka), 2. Tử thi đã đổi màu sắc (vinolaka), 3.
Tử thi đã rã ra, chảy nước (vipubbaka), 4. Tử thi bị cắt
đứt đoạn (vicchidaka), 5. Tử thi bị đục khoét ra từng
mảnh (vikkhayidaka), 6. Tử thi văng ra từng mảnh (vikkhittaka),
7. Tử thi bị cắt đứt và rời ra vung vẩy tản mác (hatavikkhitaka),
8. Tử thi bị đẩm máu (lohitaka), 9. Tử thi bị vòi đục (pulapaka),
và 10. Tử thi chỉ còn bộ xương (atthila)
c.- Mười đề mục suy niệm (anussati,
niệm niệm) [3]:
1. Niệm
Phật (Buddhanussati), 2. Niệm Pháp (Dhammanussati), 3. Niệm Tăng (Sanghanussati),
4. Niệm Giới (Silanussati), 5. Niệm tâm bố thí (Caganussati), 6.
Niệm chư Thiên (Devatanussati), 7. Niệm trạng thái thanh bình an
lạc (Upasamanussati), 8. Niệm sự chết (Marananussati), tuần tự,
và cùng với, 9. Niệm Thân (Kayagatasati), và 10. Niệm hơi thở
(Anapanasati)
d.- Tứ Vô Lượng Tâm, hay
bốn phẩm hạnh cao thượng (Brahmavihara):
Từ, Bi,
Hỷ và Xả
e.- Một đề mục quán tưởng
(Sanna, tưởng, tri giác):
Quán tưởng
tánh cách ô trược của vật thực [4].
f.- Một đề mục phân tách (catudhatuvavatthana)
[5]: như phân tách bốn nguyên tố cấu tạo vật chất (Tứ Đại:
đất, nước, lửa, gió).
g.- Bốn Thiền Vô Sắc:
1. Cảnh
giới Không Gian Vô Cùng Tận (Akasanancayatana), 2. Cảnh giới
Thức Vô Cùng Tận (Vinnanancayatana), 3. Cảnh giới Hư Không (Akincannayatana),
và 4. Cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (N'eva sanna
n'asannayatana).
Đề
mục thích hợp với những bẩm tánh khác nhau
Theo kinh sách, mười đề mục về
tử thi và niệm thân, như 32 phần ô trược, thích hợp với
bẩm tánh tham ái, vì những đề mục nầy có khuynh hướng
tạo sự nhờm chán cơ thể vật chất mà giác quan bám níu.
Tứ Vô Lượng Tâm và bốn Kasinas màu,thích
hợp với bẩm tánh sân hận.
Những đề mục suy niệm về Đức
Phật, v.v... thích hợp với bẩm tánh của người có nhiều
đức tin.
Những đề mục suy niệm về sự
trạng thái thanh bình an lạc, quán tưởng đến sự nhàm chán
vật thực, và phân tách Tứ Đại, thích hợp với những
bẩm tánh thiên về trí thức.
Những đề mục như suy niệm về Đức
Phật, tâm Từ, niệm thân và niệm về sự chết, thích hợp
với tất cả bẩm tánh.
Có sáu loại bẩm tánh (carita) là:
1. Bẩm tánh tham ái
(ragacarita),
2. Bẩm tánh sân hận (dosacarita),
3. Bẩm tánh si mê (mohacarita),
4. Bẩm tánh có nhiều đức tin (saddhacarita),
5. Bẩm tánh thiên về trí thức (budhicarita), và
6. Bẩm tánh phóng dật (vitakkacarita).
"Carita" là bẩm tánh, hay
bản chất cố hữu của một người. Bản chất này biểu
lộ khi ở trạng thái bình thường, không có gì làm giao động.
Bẩm tánh của mỗi người khác nhau là do nơi hành động quá
khứ, hay nghiệp khác nhau của mỗi người. Những hành động
quen thuộc có khuynh hướng tạo bẩm tánh riêng biệt.
Bên trong của một số người,
"raga" hay tham ái, có năng lực mạnh hơn các tánh kia,
trong khi "dosa" hay sân hận, oán ghét ác ý, trội hơn
nơi người khác. Phần đông chúng sanh thuộc về hai loại
ấy. Có một phần ít, kém thông minh và ít nhiều si mê
(mohacarita). Gần với những hạng si mê có những người có
bẩm tánh phóng dật, không thể chú tâm vào một việc
(vitakkacarita). Vài người lại có tâm đạo đặc biệt nhiệt
thành, đức tin vững chắc (saddhacarita), người khác thì đặc
biệt thông minh sáng suốt (buddhicarita).
Phối hợp những bẩm tánh ấy lại
với nhau có 63 loại. Tính chung với bẩm tánh khảo sát
(ditthicarita) là 64 loại.
Những đề mục hành thiền có thể,
ít hay nhiều, thích hợp với mỗi bẩm tánh và mỗi hạng người.
Trước
khi thực hành thiền tập, hành giả nên thận trọng quan sát
đề mục tham thiền. Thuở xưa, muốn hành thiền phải tìm đến
sự hướng dẫn của một vị thầy có khả năng và nhờ sự
giúp đỡ của vị này, chọn một đề mục thích hợp với
bẩm tánh mình. Ngày nay, hành giả phải tự mình xem xét lấy
và chọn đề mục mà mình cho là thích hợp nhất.
Khi đề
mục đã chọn, hành giả phải rút vào một nơi yên tĩnh, càng
ít bị giao động càng tốt. Một cụm rừng, một hang đá,
hoặc nơi vắng vẻ nào khác cũng có thể thích nghi. Ở
những nơi ấy hành giả ít bị phiền nhiễu trong khi hành
thiền.
Nên
biết rằng cảnh vắng lặng bên trong của tất cả mọi người.
Nếu tâm không an, dầu ở giữa rừng sâu tĩnh mịch cũng không
thích hợp. Nhưng nếu tâm không bị giao động thì ở trung tâm
thành phố cũng được. Khung cảnh chung quanh chỉ tác động
một cách gián tiếp, giúp tâm an trụ.
Điều
kế đó mà hành giả phải quyết định là giờ giấc, lúc mà
hành giả và khung cảnh chung quanh có nhiều điều kiện
thuận tiện nhất để tham thiền.
Sáng
sớm tâm trí còn tươi tĩnh, hoặc tối, trước khi đi ngủ,
nếu không quá mệt, thường là lúc thích hợp nhất để hành
hiền. Tuy nhiên, dầu thì giờ nào mà ta đã chọn, nên cố
giữ đúng giờ ấy mỗi ngày, để cho tâm được quen, có
ảnh hưởng tốt đẹp đến pháp hành.
Cách
ngồi cũng có thể giúp ích cho việc gom tâm. Người phương
Đông thường ngồi tréo chân mặt đặt trên vế trái và chân
trái đặt trên vế mặt, thân mình ngay thẳng. Đó là lối
ngồi kiết già. Nếu không quen ắt thấy khó ngồi như thế.
Nhiều người ngồi bán già dễ dàng hơn. Chỉ để chân mặt
đặt trên vế trái, còn chân trái thì để dưới luôn, khỏi
phải tréo lên.
Khi
ngồi theo điệu tam giác ấy thì thân mình vững vàng. Tay
mặt đặt trên tay trái, cổ ngay, giữ mũi nằm trên một đường
thẳng góc với rún. Lưỡi ép sát trên nóc vọng. Sắp sửa
quần áo ngay ngắn và lưng quần không nên thắt chặt lắm. Vài
người chịu nhắm mắt lại để không còn nhìn thấy gì
nữa.
Nhắm kín
mắt cũng có lợi, nhưng thường hay làm buồn ngủ. Đến lúc
muốn ngủ rồi thì hành giả không còn kiểm soát được tâm
nữa. Những tư tưởng bất định phát sanh, không còn giữ thân
ngay ngắn, vô tình mở mệng, chảy nước dãi và gục đầu.
Chư
Phật thường ngồi kiết già, hình đóa sen búp, mắt nhắm phân
nửa, nhìn theo chót mũi đến chí đất, không xa hơn lối
một thước hai.
Người
nào thấy lối ngồi kiết già khó khăn, có thể thuận tiện
ngồi trên ghế, hay chỗ nào khác, vừa đủ cao để hai bàn
chân gác trên mặt đất.
Thế
ngồi không quan trọng. Hành giả tùy tiện, ngồi thế nào cũng
được, miễn là thấy thoải mái và dễ dàng là được.
Người
có chú nguyện cố gắng gom tâm vào một điểm phải nỗ
lực kiểm soát những tư tưởng ô nhiễm mỗi khi nó vừa
khởi sanh.
Hành giả có thể bị mười đạo
binh của Ma Vương tấn công như có ghi trong kinh Sutta Nipata
[6]. Mười đạo binh ấy là:
1. tham
dục (kama), 2. nản chí (arati), 3. đói và khát (khuppipasa), 4.
ái dục (tanha), 5. dã dượi hôn trầm (thina-middha), 6. sợ
sệt (bhaya), 7. hoài nghi (vicikiccha), 8. phỉ báng, gièm pha và
ngoan cố (makkha, thambha), 9. thâu đoạt một cách bất chánh
tiếng tốt, danh vọng, những lời tán dương khen tặng và
lợi lộc (labha, siloka, sakkara, micchayasa), và 10. tự phụ và
khinh miệt kẻ khác (attukkamsanaparavambhana).
Tùy trường hợp, những lời gợi ý
sau đây của Đức Phật về pháp hành thiền có thể bổ ích
cho tất cả mọi người.
1. Cố
tạo những tư tưởng tốt, trái nghịch với tư tưởng trở
ngại. Như bị lòng sân trở ngại, cố tạo tâm từ.
2. Suy
niệm về hậu quả xấu có thể xẩy ra. Như nghĩ rằng sân
hận có thể đưa đến tội lỗi, sát nhân v.v...
3. Không
để ý, cố lãng quên những tư tưởng xấu ấy.
4. Đi ngược
dòng tư tưởng, phăng lần lên, tìm hiểu do đâu tư tưởng
ô nhiễm ấy phát sanh và như vậy, trong tiến trình ngược
chiều ấy, hành giả quên dần điều xấu.
5. Gián
tiếp vận dụng năng lực vật chất. Cũng như một người
mạnh mẽ tráng kiện khắc phục một người khác, suy nhược
yếu ớt, ta phải vận dụng sức lực của cơ thể để chế
ngự những tư tưởng xấu xa. Đức Phật khuyên: "Cắn
chặt răng lại và ép lưỡi sát vào nóc vọng phía trên, hành
giả vận dụng hết năng lực để kiềm chế tâm và như
vậy, khi cắn răng lại và ép lưỡi sát phía trên, cưỡng bách
và kiềm chế tâm, những tư tưởng xấu xa và nguy hại sẽ
suy nhược dần và tiêu tan. Do đó tâm sẽ lắng dịu, an
trụ, thuần nhất và định". [7]
Khi đã trải qua những giai đoạn
cần thiết ấy, hành giả tìm một nơi ẩn dật và đặt
niềm tin vào ý chí quyết thành tựu cho kỳ được mục tiêu,
tận lực và tliên tục cố gắng phát triển tâm định.
Một vật để như hình tròn Kasina
chỉ có thể giúp hành giả đạt đến tâm định. Như một
đức tánh như tâm từ có lợi ích đặc biệt là tạo nên tâm
tánh hay bản chất con người.
Trong lúc hành thiền, hành giả có
thể lặp lại một cách có thể hiểu biết những lời, hay
những câu kệ đặc biệt, vì những chữ hay gợi cho hành
giả những lý tưởng mà nó tượng trưng.
Dầu quyết tâm nỗ lực đến đâu,
người hành giả còn sơ cơ vẫn phải trải qua những giai đoạn
khó khăn, những vấp váp lúc ban đầu. "Tâm phóng, những
ý tưởng ngoài đề mục sẽ phát sinh và vẩn vơ trước
mắt, cảm thấy sốt ruột, thấy tiến bộ chậm chạp lên
nản lòng, do đó mất nhẫn nại, kém cố gắng." Nhưng hành
giả phải bền chí, không chịu thất bại. Cố gắng thêm, thêm
nữa, để khắc phục mọi trở ngại, vượt qua khó khăn để
nhìn thẳng vào đề mục và kềm giữ tâm không một giây xao
lãng.
Thí dụ như hành giả dùng Kasina đất
làm đề mục hành thiền (Kammatthana):
Trước
tiên lấy đất sét nhồi làm thành dĩa tròn bằng độ ba
tấc bề kính, cạo gọt cho trơn bén, tô mặt thật láng và
đều đặn. Cái đĩa tròn Kasina để tham thiền này được
gọi là đề mục sơ khởi (parikamma nimitta). Đặt cái Kasina
ấy cách chỗ mình ngồi một thước, hành giả chăm chú nhìn
vào đó và niệm "pathavi, pathavi" (đất, đất) cho đến
lúc tâm hoàn toàn an trụ, không còn ý tưởng ngoại lai nào
khác. Và khi hành như thế ít lâu - có khi vài tuần, có khi vài
tháng, vài năm hay hơn nữa - hành giả có thể hình dung đề
mục nghĩa là lúc nhắm mắt vẫn còn thấy cái vòng Kasina. Đó
là hình ảnh của đề mục phát hiện trong tâm (uggaha
nimitta). Tếp tục cố gắng, hành giả chăm chú vào uggaha
nimitta nầy và phát triển hình ảnh khái niệm của đề mục
(patibhaga nimitta).
Theo sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi
Magga), sự khác biệt giữa hai hình ảnh ấy là: "Trong
'uggaha nimitta' hành giả còn thấy rõ cái dĩa tròn kasina, tỷ
như trên ấy có lồi lõm vv... còn trong 'patibhaga nimitta' dĩa
tròn kasina xuất hiện như một cái gương tròn mới lấy từ
trong bao ra, hoặc như vỏ ốc xa cừ trau giồi bóng loáng,
hoặc như mặt trăng rằm xuất lộ giữa những đám mây."
Hình ảnh khái niệm (patibhaga nimitta)
không có màu sắc, cũng không có hình thể. Nó chỉ là hình
thức xuất lộ do tri giác tạo nên.
Bấy
giờ hành giả nỗ lực chú tâm vào hình ảnh khái niệm
trừu tượng ấy và đạt đến mức độ gọi là" cận
định" (upacara samadhi, tâm gần nhập định). Lúc ấy, năm
chướng ngại tinh thần cố hữu, dính liền với chúng sanh
(nivarana, năm pháp triền cái, hay năm pháp che lấp) tạm thời
được khắc phục do tâm an trụ, hay nhất điểm tâm
(ekaggata), phỉ (pity), tầm (vitakka), lạc (sukha), và sát
(vicara), kể theo thứ tự. Lúc bấy giờ, có thể nhập toàn
định và đắc thiền, thọ hưởng trạng thái yên tĩnh và
vắng lặng của tâm nhất điểm. Tâm nhất điểm này được
thành tựu nhờ hành giả đã vượt qua các pháp triền cái
(nivarana), thành tựu trạng thái gọi là cittavisuddhi (Tâm
Tịnh), giai đoạn thứ nhì của Thanh Tịnh Đạo.
Nếu hành giả dùng kasina nước làm
đề mục hành thiền thì nên lấy một bát nước đầy chí
miệng, tốt nhất là nước mưa trong sạch, không màu sắc và
chăm chú nhìn vào đấy, rồi niệm "apo, apo" (nước,
nước) cho đến khi tâm lắng dịu, an trụ vào đề mục nước.
Muốn dùng kasina lửa làm đề mục,
hành giả đốt một ngọn lửa nhỏ trước mặt mình rồi chăm
chú nhìn vào đấy ,xuyên qua một cái lỗ cỡ bốn ngón tay
bề kính trong một tấm vải, tấm đệm hay một tấm da.
Với đề mục kasina gió, hành giả
nhìn vào ngọn gió thổi xuyên qua cửa sổ hoặc một cái lỗ
trong vách và chăm chú niệm "vayo, vayo" (gió, gió).
Nếu muốn hành đề mục dùng màu
sắc thì dùng cái đĩa tròn kasina có màu sắc như xanh, vàng,
hoặc đỏ, hoặc trắng rồi chăm chú nhìn vào và niệm màu
sắc ấy như "xanh, xanh" (nilam, nilam) cũng như đề
mục đất v.v... Hành giả cũng có thể nhìn vào cành hoa
hoặc xanh, hoặc vàng v.v... để niệm màu sắc ấy.
Hành giả muốn niệm đề mục ánh sáng
có thể nhìn mặt trăng, hoặc một ngọn đèn không chao động,
hoặc ánh sáng có hình ảnh mặt trăng hay mặt trời, chiếu
xuyên qua lá cây hay xuyên qua vách, in trên tường hay dưới
mặt đất, và niệm "aloka, aloka" (ánh sáng, ánh sáng).
Có thể phát triển và trau giồi đề
mục không gian bằng cách nhìn lên trời, xuyên qua cái lỗ độ
bốn ngón tay bề kính, khoét trên vách, hay trên miếng vải
hoặc miếng da.
Đề
mục Tử thi (Asubha)
Ở Ấn Độ thời xưa, người ta không
chôn người chết, cũng không hỏa thiêu mà chỉ đem ra để
ngoài nghĩa địa. Do đó, có mười loại tử thi làm đề
mục hành thiền. Ngày nay, phong tục ấy không còn nữa. Như
vậy, mười đề mục tham thiền về tử thi không thể đặt
thành vấn đề.
Niệm
về Hồng ân của Đức Phật (Buddhanussati)
Là suy niệm về các phẩm hạnh của
Đức Phật như sau:
"Đức
Thế Tôn hẳn thật là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn." .
Niệm
về những đặc tánh của Giáo Pháp (Dhammanussati)
Là suy niệm về các đặc tánh của
Giáo Pháp như sau:
"Giáo
Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng dạy và được truyền bá
đầy đủ là để tự chứng ngộ, có hiệu năng tức khắc,
khuyến khích sự tìm tòi suy gẫm, dẫn đến nơi (Niết Bàn),
để bậc thiện trí an hiểu, mỗi người cho riêng mình."
Niệm
về Tăng Già (Sanghanussati)
Là suy niệm về phẩm hạnh tinh
khiết của các hội viên Giáo Hội như sau:
"Giáo
Hội của các đệ tử của Đức Thế Tôn có đức hạnh toàn
hảo. Các Ngài có phẩm hạnh bậc trí tuệ. Các Ngài là
những vị đã thành đạt bốn Đạo và bốn Quả Thánh. Giáo
Hội của các đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc xứng đáng
lãnh nhận những vật cúng dường và chỗ ở. Các Ngài là
bậc xứng đáng được lễ bái, là phước điền vô thượng
trên thế gian."
Niệm
về Giới đức (Silanussati)
Là suy niệm về phẩm hạnh có tính
hoàn hảo của chính mình.
Niệm
về tâm bố thí (Caganussati)
Là suy niệm về bản chất khoan
hồng rộng lượng của chính mình.
Niệm
về chư thiên (Devanussati)
Là suy niệm như sau:
"Các
vị trời đã sanh vào những cảnh giới đáng phấn khởiấy
do nhờ niềm tin và những đức tánh khác của các Ngài. Ta cũng
có những đức tánh ấy".
Suy niệm như thế nhiều lần.
Niệm
về những đặc tính của Niết Bàn (Upasamanussati)
Là suy nệm về đặc tính tịch
tịnh của Niết Bàn, như chấm dứt đau khổ và tương tự.
Niệm
về sự chết (Marananussati)
Là suy niệm về sự chấm dứt đời
sống tâm-vật-lý. Quán tưởng về cái chết giúp hành giả
thấu hiểu bản chất tạm bợ của đời sống. Khi quán
triệt rằng chết là điều chắc chắn phải đến và sống là
tạm bợ, nhất thời, hành giả sẽ cố gắng tận dụng
kiếp sống nầy để tự trau giồi, tự phát triển và giúp
kẻ khác mở mang, thay vì phung phí thì giờ trong dục lạc,
dễ duôi. Kiên trì hành thiền, suy niệm cái chết không làm
cho hành giả trở thành bi quan yếm thế và sống tiêu cực mà
trái lại, càng tích cực và tinh tấn hơn. Ngoài ra, hành giả
còn có thể ứng phó với cái chết một cách bình tĩnh,
thản nhiên. Khi quán tưởng sự chết, hành giả có thể suy
niệm rằng đời sống như ngọn đèn dầu, hoặc suy niệm
rằng cái được gọi chúng sanh chỉ là sự biểu hiện tạm
thời và bề ngoài của luồng nghiệp lực vô hình, không khác
nào ánh sáng của ngọn đèn điện là biểu hiện tạm thời
của luồng điện lực vô hình ở trong sợi dây điện.
Hành giả có thể hình dung đời
sống theo nhiều lối khác, quán tưởng về tánh cách vô thường
cùa kiếp nhân sinh và sự kiện hiển nhiên chắc chắn là cái
chết phải đến.
Niệm
Thân (Kayagatasati)
Là suy niệm về ba mươi hai phần ô
trược của cơ thể như tóc, lông, móng tay, móng chân, răng,
da, thịt, gân, xương, tủy, tận, tim, gan, lá lách, mật,
phổi, ruột, bao tử v.v...
Quán tưởng về tánh cách ô trược
của cơ thể giúp hành giả chế ngự tâm luyến ái đối
với bản thân mình. Nhiều vị tỳ khưu thời Đức Phật đã
đắc quả A La Hán nhờ hành thiền với đề mục này.
Người không thích hợp với tất cà
ba mươi hai phần ô trược có thể chọn một vài phần như xương,
thịt, da cũng được. Bên trong thân này là bộ xương. Đầy
bên ngoài bộ xương là thịt, và bên ngoài, chỉ là một
lớp da bao bọc lấy thịt và xương. Khi suy niệm như thế
về cơ thể vật chất, hành giả dần dần giảm bớt luyến
ái thân mình.
Đối với người không chú trọng đến
nhục dục, đề mục nầy có thể không thích hợp. Hành giả
có thể quán tưởng khả năng tạo tác cố hữu của guồng máy
phức tạp này mà ta gọi là con người.
Niệm
hơi thở (Anapanasati)
Là pháp suy niệm về hơi thở, Ana có
nghĩa là thở vô, Apana là thở ra.
Tham thiền, niệm hơi thở là phương
pháp luyện tập cho tâm an trụ, đồng thời giúp hành giả
chứng ngộ minh sát tuệ và dẫn đến Đạo Quả A La Hán.
Đây là đề mục hành thiền rất
lợi ích và có thể thích hợp với tất cả mọi người. Xưa
kia Đức Phật cũng đã áp dụng pháp hành thiền về Sổ
Tức Quán nầy trước khi Ngài đắc quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Kinh Satipatthana Sutta (Tứ Niệm Xứ) và
sách Thanh Tịnh Đạo có trình bày pháp môn bổ ích này với
đầy đủ chi tiết.
Sau đây là một vài điều cho người
hành giả sơ cơ:
Nên
chọn lối ngồi thích hợp. Giữ thân hình ngay ngắn. Đặt
tay mặt lên tay trái. Mắt nhắm hoặc mở hi hí.
Trước
khi khởi niệm, từ từ thở ra dài bằng miệng, rồi ngậm
lại. Kế đó thở vô bằng mũi, như thường, không cố sức
thở mạnh quá mà cũng không yếu quá. Lúc thở vô đếm
thầm, Một. Rồi thở ra, đếm Hai. Luôn luôn chú tâm theo hơi
thở, không tưởng nhớ đến điều chi khác. Và cứ thở vô
đếm Ba, thở ra đếm Bốn, như thế đến Mười. Trong khi
niệm, tâm hành giả có thể xao lãng phóng túng. Nhưng không nên
ngã lòng. Hãy cố gắng cho đến khi kềm giữ được tâm vào
hơi thở. Từ từ hành giả có thể tăng thêm loạt số, như
đếm đi đếm lại đủ năm loạt từ Một đến Mười
chẳng hạn. Về sau, hành giả có thể chú tâm vào hơi thở mà
không cần đếm. Có người thích đếm, vì đếm gom tâm được
dễ dàng. Cũng có nhiều người không thích. Điều chánh yếu
là gom tâm. Đếm là phụ thuộc.
Khi
thực hành pháp thiền này, hành giả cảm thấy thân nhẹ nhàng
và rất an lạc. Sau khi khi kinh nghiệm một thời gian, ngày kia
hành giả thông hiểu được rằng cái mà người ta gọi là
thân đây chỉ sống nhờ vào hơi thở, và khi hơi thở chấm
dứt thì thân này phải chết. Tức khắc hành giả nhận định
lý Vô thường của vạn hữu. Nơi nào biến đổi vô thường
thì nơi ấy không thể có thực tồn, hay linh hồn bất diệt.
Chừng ấy tuệ minh sát được triển khai để chứng ngộ Đạo
Quả A La Hán.
Điều này rõ ràng chứng tỏ rằng
mục tiêu của pháp hành thiền về hơi thở chẳng những là
trau giồi tâm an trụ mà còn khai thông minh sát tuệ để thành
đạt giải thoát cuối cùng.
Đây là phương pháp giản tiện và vô
hại mà tất cả mọi người đều có thể thực hành.
Để có đầy đủ chi tiết, đọc
giả có thể tham khảo bộ Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo).
Theo Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana),
pháp niệm hơi thở có thể thực hành như sau:
"Thở vô, hành
giả ghi nhận thở vô. Thở ra, hành giả ghi nhận thở ra.
1.- "Khi thở vô dài,
hành giả biết: 'Ta thở vô dài'. Khi thở ra dài, hành giả
biết: 'Ta thở dài'.
2.- "Khi thở vô
ngắn, hành giả biết: 'Ta thở vô ngắn'. Khi thở ra ngắn, hành
giả biết: 'Ta thở ra ngắn'.
3.- "Tri giác rõ ràng
và trọn vẹn tiến trình của hơi thở (tức chặng đầu,
chặng giữa và chặng cuối), 'ta sẽ thở vô' hành giả tự
luyện tập lấy như thế; tri giác rõ ràng và trọn vẹn
tiến trình của hơi thở, 'ta sẽ thở ra', và hành giả tự
luyện tập lấy như thế.
4.- "Làm cho hơi
thở êm dịu, 'ta sẽ thở vô' , hành giả tự luyện tập
lấy như thế. Làm cho hơi thở êm dịu, 'ta sẽ thở ra' , hành
giả tự luyện tập như thế."
Tứ
Vô Lượng Tâm (Brahmavihara)
Nơi đây Brahma có nghĩa là cao thượng,
hay cao nhã như trong danh từ "brahmacariya" (lối sống
cao thượng).Vihara có nghĩa là phương thức hay trạng thái
của phẩm hạnh, hay trạng thái của đời sống. Những
trạng thái này cũng được gọi là "appamanna", vô lượng,
vô biên. Bởi vì những tư tưởng này được rải khắp cho
tất cả chúng sanh, không có giới hạn, không có sự ngăn
trở.
Metta (sanskrit là "maitri") tâm
từ, lòng từ ái, hảo tâm, thiện ý, được định nghĩa là
cái gì làm cho tâm êm dịu. Tâm Từ (metta) không phải là tình
thương có liên quan đến nhục dục ngũ trần hay lòng trìu
mến cá nhân đối với một người nào. Kẻ thù trực tiếp
của tâm từ là sân hận, oán ghét, hay ta không ưa thích,
bực mình (kodha). Kẻ thù gián tiếp là lòng trìu mến cá nhân
(pema). Tâm Từ bao trùm tất cả chúng sanh, không loại bỏ và
không phân biệt chúng sanh nào. Đến mức cùng tột, tâm Từ
là tự đồng hóa tất cả chúng sanh (sabbattata), tự mình chan
hòa trong toàn thể, thấy vạn vật và mình là một. Tâm Từ
là lòng chân thành ước mong cho tất cả chúng sanh đều được
an lành vui vẻ. Thái độ từ ái là đặc điểm chánh yếu
của tâm Từ. Tâm Từ lánh xa sân hận, oán ghét.
Tâm Bi (karuna) là cái gì cho ta rung động
trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu nỗi
khổ của người. Đặc tính của tâm Bi (karuna) là ý muốn giúp
người khác thoát ra một cảnh khổ. Kẻ thù trực tiếp của
tâm Bi là sự ươn hèn suy nhược (himsa), và kẻ thù gián
tiếp là ưu sầu, phiền muộn (domanassa). Tâm Bi bao trùm
những chúng sanh đau khổ và tiêu trừ mọi hành động độc
ác tàn bạo.
Tâm Hỷ (Mudita) không phải là trạng
thái thỏa thích suông, mà là lòng hoan hỷ, có thiện cảm, trước
hạnh phúc của người khác. Ganh tỵ (issa) là kẻ thù trực
tiếp của tâm Hỷ, và thái độ hỷ hạ vui vẻ là kẻ thù
gián tiếp. Đặc điểm chánh yếu của tâm Hỷ là hoan hỷ
với sự thạnh vượng và thành công (anumodana) của người khác.
Tâm Hỷ bao trùm những chúng sanh hữu hạnh. Tâm Hỷ là đức
tánh thành thật chung vui, chung mừng và ngợi khen. Tâm Hỷ
loại trừ mọi hình thức bất mãn (arati) trước sự thạnh vượng
của người khác.
Tâm Xả (Upekkha) theo sát nghĩa, là
nhận định vô tư, tức không luyến ái cũng không ghét bỏ.
Xả không phải là lạnh lùng, lãnh đạm mà trạng thái thản
nhiên, hoàn toàn không chao động, là tâm tuyệt đối quân bình.
Đây là tâm trạng bình thản của tâm giữa những hoàn cảnh
thăng trầm của đời sống, như tán dương và khiển trách,
hạnh phúc và đau khổ, được và thua, danh thơm và tiếng
xấu. Người thù trực tiếp của tâm Xả là luyến ái (raga),
và kẻ thù gián tiếp là thái độ lạnh lùng, vô tình. Thái
độ vô tư là đặc điểm chánh yếu của tâm Xả (Upekkha).
Ở đây, danh từ Upekkha không có nghĩa
là tâm vô ký, không-hạnh-phúc - không-phiền-não, mà rõ ràng
hàm xúc ý nghĩa một phẩm hạnh. Bình thản, tâm quân bình
được xem như sát nghĩa nhất. Tâm Xả bao trùm cả tốt lẫn
xấu, những điều khả ái và khả ố, thích thú cũng như
nghịch lòng.
Sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) mô
tả với đầy đủ chi tiết phương pháp phát triển Tứ Vô Lượng
Tâm để phát triển các tầng Thiền-na (jhana).
Một khi đã thành công phát triển và
trau giồi đầy đủ Thiền (jhana), hành giả có thể dễ dàng
phát triển các năng lực thần thông (abhinna) như thiên nhãn
(dibacakkhu), thiên nhĩ (dibbasota), hồi nhớ tiền kiếp (pubbe
nivasanusstinana), tha tâm thông (paracittavijanana) và nhiều năng
lực thần thông khác (iddhividha).
Mặc đầu tâm định( samadhi) và các
năng lực tinh thần này chắc chắn đen lại nhiều lợi ích
cho hành giả, ta lên ghi nhận rằng đó không phải là điều
chánh yếu để thành đạt Đạo Quả A La Hán. Có những vị
A La Hán gọi là Sukkhavipassaka, đi thẳng đường, và chứng đắc
đạo Quả A La Hán bằng cách hành thiền Minh sát (vipassana),
không qua sự hỗ trợ của Thiền-na (jhana). Nhiều người ở
thời Đức Phật, nam cũng như nữ, đã đắc Quả A La Hán mà
không có đắc Thiền (jhana).
Chỉ có những vị đã đắc thiền
mới phát triển được năm loại năng lực thần thông
(abhinna) là:
1)
Dibbacakkhu, thiên nhãn, cũng được gọi là huệ nhãn, là khả
năng thấy được những việc ở cảnh việc ở cảnh trời
hay cảnh người, xa hay gần, mà ắt người không thể thấy.
2)
Cutupapatanana, tri kiến có liên quan đến cái chết và sự
xuất hiện trở lại của chúng sanh, cũng đồng nghĩa với
thiên nhãn, hay nhãn thông. Anagatamsanana, tri kiến có liên quan
đến tương lai, và Yathkammupagatanana, tri kiến về sự ra đi
của chúng sanh tùy hành động thiện hay bất thiện,là hai
loại hiểu biết nằm trong phân hạng nầy.
3)
Dibbasota, thiên nhĩ, cũng gọi là nhĩ thông hay huệ nhĩ, là
khả năng nghe được những âm thanh, vi tế hay thô kịch, xa
hay gần.
4)
Pubbenivasanussatinana, là khả năng hồi nhớ các tiền kiếp,
của mình và của người khác. Về điểm này, năng lực của
Đức Phật không có giới hạn. Ngài có thể nhớ được vô
lượng tiền kiếp. Nhưng đối với người khác thì năng
lực này có giới hạn, tùy theo mức độ trau giồi.
5)
Paracittavijanana, tha tâm thông, là năng lực tinh thần có thể
đọc tư tưởng của người khác.
6)
Iddhividha là những năng lực thần thông như bay trên không
trung, đi trên mặt nước, chun dưới đất, tạo những hình
thể mới v.v...
Chú thích:
[1] "Kasina" ở đây có nghĩa
là trọn vẹn, tất cả, đầy đủ. Gọi như vậy bởi vì ánh
sáng tủa ra từ hình ảnh khái niệm của đề mục
"Kasina" phải bao trùm trọn vẹn, tất cả, không
giới hạn.
Trong trường hợp dùng đất làm đề
mục, ta phải làm một cái dĩa hình tròn, bề kính độ một
gang bốn ngón tay. Lấy đất sét màu da trời lúc bình minh,
nhồi nhuyển, đắp lên, rồi cạo gọt thật kỹ, thật láng.
Nếu không có đủ đất màu da trời lúc bình minh thì làm
mặt, rồi dùng đất màu khác cũng được, để đắp phía dưới.
Cái vật tròn bằng đất để suy niệm ấy gọi là
"kasina mandala".
Các loại Kasina khác cũng làm tương
tợ như vậy. Sách Thanh Tịnh Đạo có mô tả từng chi tiết.
Cũng nên ghi nhận rằng đề mục ánh sáng và không gian không
có trong kinh điển. Nếu không kể hai đề mục nầy, thì còn
lại ba mươi tám đề mục hành thiền tất cả.
[2] Vào thời Đức Phật có nhiều
tử thi còn quàng lại trong các nghĩa địa, chờ ngày chôn
hoặc thiêu, còn làm mồi ngon cho thú và chim. Ngày nay, không
thể có tử thi như vậy nữa để dùng làm đề mục hành
thiền.
[3] "Anussati" là niệm niệm,
không ngừng niệm.
[4] "Ahare patikkulasanna" - như
quán tưởng tánh cách ghê tởm của vật thực khi đi tìm, lúc
ăn, lúc tiết ra, lúc tiêu hóa, lúc thoát ra, v.v...
[5] Thí dụ như qua sát bốn yếu
tố: đất, có tánh cách duỗi ra (pathavi); nước, dính liền
lại (apo); lửa, nóng hay lạnh (tejo); và gi, di động (vajo).
Xem xét những đặc tánh riêng biệt.
[6] Padhana Sutta, trang 28.
[7] Majjhima Nikaya, Vitakka Santhana Sutta,
số 20.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com