Nếu ai đã từng đứng trước một dòng thác lũ sẽ
tưởng tượng ra được sự hung hãn của nó, cuồn cuộn cuốn phăng đi và nhận
chìm tất cả. Sự sống chết của con người nói riêng, của muôn loài chúng
sanh trong lục đạo nói chung, cũng được ví như dòng thác lũ ấy. Ngôn ngữ
biểu tượng dùng để so sánh này, trong nhân loại, có thể nói, chỉ người trí
mới nhận ra. Trong khi đó, chư Thiên đã nhận ra điều ấy rất sớm, và họ cảm
thấy rất đau khổ vì phải buông xuôi mặc tình cho dòng thác lũ đẩy đưa, như
những người nông dân yếu đuối bị cuốn trôi đi nhà cửa, của cải và cả sự
sống con người khi mùa nước lũ tràn về mà đành bất lực.
Lần nọ, khi Đức Phật đang ở tại vườn
Anàthapindika, trong tu viện Jetavana, một vị Thiên từ cõi trời bay xuống
chỗ Thế Tôn và hỏi: "Làm thế nào để vượt thoát bộc lưu?". Bộc lưu, dòng
thác lũ, từ đó được dùng để chỉ cho dòng hữu vi, dòng tham ái, dòng vô
minh, chấp thủ hay dòng sinh tử luân hồi.
Sinh tử như một dòng thác lũ cuồn cuộn cuốn
phăng đi bao kiếp sống của chúng sanh; trong Phật giáo, đó là nỗi khổ đau
lớn nhất trong những khổ đau của kiếp người. Hẳn nhiên trong dòng thác lũ
của cuộc đời vẫn có những khúc sông bình lặng, hiền hoà. Song nếu bình tâm
nhận diện thật khách quan thì ai cũng nhận ra rằng có quá nhiều sóng gió
bão bùng trong dòng chảy của kiếp người, mà bi thương nhất là phải chảy
qua cửa sinh tử. Vậy có cách nào để vượt qua dòng thác ấy? Đức Phật trả
lời vị Thiên: "Không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu".
Hình như vẫn chưa hiểu ý Đức Thế Tôn, vị
Thiên lại hỏi: "Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài
vượt khỏi bộc lưu?". "Này Hiền giả, khi đứng lại, thời Ta chìm xuống; khi
bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, không đứng lại, không bước tới, Ta
vượt khỏi bộc lưu".
Trong dòng thác sinh tử luân hồi, đứng lại có
nghĩa là chấp ngã, là bám víu vào cái ta, cái của ta; còn bước tới là chạy
theo ngoại cảnh, chạy theo những thứ sắc dục, tiền tài, danh vọng, quyền
lực... Tất cả đều là nguyên nhân của khổ đau sinh tử luân hồi. Thực ra,
bản chất của cuộc đời vốn bất sinh, bất diệt, vốn không có khổ đau. Khổ
đau là do chấp ngã, do nhầm tưởng, do nhận thức sai lầm về bản chất của
thế giới và con người. Bản chất của cuộc đời vốn Duyên sinh, Vô ngã mà
chúng sinh cứ cho là thường hằng, hữu ngã, rồi khởi tâm tham đắm, chấp thủ
(đứng lại), thành ra bị chìm đắm trong khổ đau, trong hận thù, trong chiến
tranh. Vì lầm chấp thế giới là thường hằng, hữu ngã cho nên suốt một đời
bon chen danh lợi, chạy theo ngoại cảnh, tiền tài, sắc dục (bước tới)...
đến nỗi thân tàn ma dại mà mấy ai bừng tỉnh?!
Người có trí tuệ nhận ra sự thật của cuộc đời
và không đành lòng để cho dòng thác sinh tử nhấn chìm hay cuốn trôi đi
kiếp sống vốn thật hiếm hoi mới nhặt được này. Người có trí tuệ càng không
thể bằng lòng để bị nhấn chìm hay bị cuốn trôi đi khi biết rằng dòng thác
cuồng sinh tử ấy do chính mình tạo ra. Nhưng bi kịch của kiếp người là
không ai tự nhận mình là kẻ ngu dốt. Đó là một hình thức đứng lại. Ôm ấp
những tri kiến, những nhận thức nào đó rồi cho là chân lý cũng là một cách
đứng lại khác. Tất cả đều là gốc rễ của khổ đau, nguyên nhân của những
chướng ngại không cho chân lý tràn về. Như gã thương buôn nọ ôm nắm tro
tàn và tự cho là hài cốt của đứa con mình, trong khi đứa con đích thực của
y chưa chết và đã trở về gõ cửa tìm y, nhưng y nhất định không mở cửa, vì
đã cất chứa trong lòng một nhận thức sai lầm mà y tin là sự thật, và vì
vậy y đã mất thật đứa con. Cũng vậy, chân lý đang ở xung quanh ta, đã bao
lần đến gõ cửa tìm ta, nhưng chúng ta không bao giờ mở cửa trái tim ra để
đón nhận nó, vì chúng ta đã trót chất chứa trong đó quá nhiều tri thức mà
ta cho là chân lý, như ly nước đã đầy. Đó là một hình thức đứng lại tệ hại
nhất!
Một mặt khác, chúng ta thường nghĩ rằng hạnh
phúc nằm ở tương lai, ở một ngày mai kia ta có nhiều tiền, có địa vị cao
trong xã hội, được nhiều người kính nể… và vì vậy ta chạy theo những thứ
ấy, tiền tài, danh vọng… Đó là bước tới hay bị cuốn trôi. Trong khi đó,
hạnh phúc có mặt ngay đây, trong giờ phút hiện tại này, khi ta biết buông
bỏ và dừng lại. Buông bỏ là không đứng lại. Dừng lại không chay theo ngoại
cảnh là không bước tới. Ngay khi ấy chúng ta đạt được giải thoát, vượt
thoát bộc lưu.
Vấn đề chỉ có vậy, tưởng chừng như rất đơn
giản, nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện được, bởi vì chẳng ai nhận
ra rằng mình đang bị nhận chìm hay bị cuốn trôi đi trong dòng thác sinh
tử, như dòng nước cuốn trôi cành củi mục. Cho nên, vấn đề quan trọng chưa
phải ở chỗ "làm thế nào để vượt thoát bộc lưu", mà là có thấy rằng mình
đang sống trong sự nguy hiểm của dòng thác lũ ấy hay không? Nếu như quả
thật không nhận ra rằng mình đang có nguy cơ bị nhấn chìm hoặc sẽ bị cuốn
trôi thì làm gì có ước muốn vượt thoát. Cũng như những đứa con của ông
trưởng giả sang giàu vẫn cảm thấy an ổn và tự nhiên vui đùa trong căn nhà
lửa, thì việc tìm cách cho chúng thoát ra ngoài phỏng có ích gì. Nhưng đối
với chư Phật và Bồ tát, vốn thương chúng sinh như ông trưởng giả thương
con, thấy sự nguy hiểm của ngôi nhà đang bốc cháy, không đành lòng đứng
yên nhìn thảm kịch các con bị chết cháy, nên mở bày phương tiện khéo léo
kêu dụ các con ra.
Việc tự thân nhìn thấy sự nguy hiểm của cơn
thác lũ hay được người khác chỉ cho thấy đều có giá trị như nhau là cùng
đi đến hành động tìm đường vượt ra khỏi vòng hiểm nguy. Đối với dòng thác
sinh tử, vốn do tự thân mỗi chúng sinh tạo ra, việc nhận chân ra được sự
thật "đây là khổ" là điều kiện cần và đủ để vượt thoát bộc lưu. Phương
tiện để vượt sang đến bờ bên kia, trong đạo Phật thì nhiều, ở đây là chiếc
thuyền đầy ắp từ bi và trí tuệ: "không đứng lại, không bước tới". Không
đứng lại, không bước tới là không trú trước vào ngã, ngã sở. Đó chính là
"vô trú bát nhã". Và như thế, vượt thoát bộc lưu chính là nhờ sự hành trì
và thể nhập "vô trú bát nhã".