Sau khi nghe lời Đức Phật dạy, nhiều người
đã quyết định từ bỏ quan niệm sai lầm của họ trước
đây về lối sống đạo hạnh.
Phật Giáo là một viên
kim cương quí giá với nhiều mặt cắt sáng đẹp lôi cuốn
đủ mọi hạng người có nhân phẩm khác nhau. Mỗi mặt cắt
này đều có những phương pháp và đường lối đã được
kiểm chứng nhằm đem lợi ích cho người tìm Chân Lý dù
mức độ hiểu biết và thâm nhập của họ có khác nhau.
Phật Pháp là kết
quả có được do một vị hoàng tử quý phái với lòng từ
bi vô lượng, với sứ mệnh giúp đỡ nhân loại khổ đau, đã
nỗ lực tìm tòi tích cực và thâm sâu trong một thời gian dài.
Mặc dù sống trong cảnh giàu sang phú quý của vị thái tử
sẽ nối ngôi vua, Ngài đã từ bỏ cuộc sống xa hoa, và đã
gian lao dấn thân vào việc tìm chân lý, tìm phương thuốc
trị bệnh đau khổ và bất toại nguyện của đời sống con
người. Ngài mang hết tâm lực, tìm giải pháp cho con người
thoát khỏi khổ đau. Trong cuộc tìm kiếm lâu dài này, Ngài
đã không ỷ vào một đấng thần linh nào hay niềm tin
truyền thống trong quá khứ. Ngài đã nỗ lực nghiên cứu
với một tâm trí phóng khoáng, tự do, theo đường hướng
mục tiêu thành khẩn của Ngài, theo một quyết tâm cao thượng,
kiên nhẫn sắt đá, và một trái tim từ bi nhiệt thành để
giải thoát khổ đau. Sau sáu năm dài kinh nghiệm, thử thách và
kiên trì, vị Hoàng Tử cao quý này đạt được mục tiêu -
Ngài đạt Giác Ngộ và ban cho thế giới giáo pháp của Ngài
được gọi là Phật Pháp.
Đức Phật có lần
tuyên bố: 'Này các Tỳ-Kheo, sư tử, Chúa sơn lâm, ra khỏi
hang lúc chiều tà. Nó vươn vai, nhìn tứ phía. Rồi nó rống
lên ba tiếng gầm. Sau khi gầm lên ba tiếng sư tử chạy đi rình
mồi.
'Bấy giờ, này tỳ
kheo, khi các con thú rừng nghe thấy tiếng Chúa Sơn lâm này
rống lên, đều khiếp vía, đều run rẩy sợ hãi. Thú nào
sống trong hang thì chạy vào hang, con nào sống dưới nước
chạy xuống nước, con nào sống trong rừng chạy vào rừng,
chim muông vội vã bay đi.
Dù các quản tượng
tại thôn dã, trong thành hay tại hoàng cung đã buộc voi bằng
các sợi dây da thật chắc, khi nghe thấy Sư Tử gầm, voi cũng
lồng lên bật hết các dây buộc, phân vung vãi vì sợ hãi, và
trong hoảng hốt chạy tới chạy lui. Sức hùng mạnh ấy là
của con sư tử, chúa sơn lâm, trên tất cả các thú. Sư tử
uy vũ hùng mạnh và oai nghiêm.
'Cũng như vậy đó, này
các tỳ kheo, phải chăng khi một Đức Phật xuất hiện trên
thế giới, Ngài là Vị A La Hán, Bậc Đại Giác, là bậc trí
tuệ và hạnh kiểm toàn bích, là người du hành, người
biết rõ thế giới, là huấn luyện viên xuất sắc nhất cho
những ai cần đưọc huấn luyện, là thầy của trời và người,
là Đấng Vô Thượng Sĩ. Đó là bản chất của quan niệm
về cái Ta, con đường dẫn đến để chấm dứt cái Ta'
Dù là các vị trời,
khi nghe thấy Pháp của Như Lai cũng đều sợ hãi: các vị
trời run rẩy khiếp hãi nói: "Chúng tôi tưởng rằng chúng
tôi thường còn mà rồi ra tất cả cũng là vô thường, chúng
tôi tưởng rằng chúng tôi vững vàng mà rồi cũng chẳng
vững vàng, chẳng trường cửu mà chúng tôi nghĩ là trường
cửu. Quả là chúng tôi cũng vô thường, không vững vàng, không
trường cửu, không có gì trong cái Ta cả". Sức mạnh đó
chính là một đấng Như Lai đứng vượt trên thế giới loài
trời và loài người. (Anguttara
Nikaya)
PHẬT GIÁO LÀ GÌ?
Phật Giáo chẳng là gì
ngoài Chân Lý Cao Thượng.
Phật Giáo là gì? Câu
hỏi này đã làm nhiều người bối rối thường muốn biết
Phật Giáo có phải là một triết lý, một tôn giáo, hay là
một lối sống. Câu trả lời đơn giản là Phật Giáo quá
rộng lớn và thâm sâu để có thể sắp vào một trong ba
loại trên. Đương nhiên, Phật Giáo gồm cả triết lý, tôn
giáo và lối sống nhưng Phật Giáo vượt hẳn các loại trên.
Thứ loại hay danh
hiệu gán cho Phật Giáo giống như bảng tên để cho mọi người
chứng biết cái gì đang được trình bày. Nếu ta so sánh
Phật giáo vói một hãng thuốc, rõ ràng bảng tên của hãng
thuốc không chữa cho một người khỏi bệnh được. Nếu
thuốc công hiệu, bạn dùng nó và được khỏi bệnh mà
chẳng cần quan tâm đến cái bảng tên hãng thuốc chỉ cái
nhãn thuốc. Cũng vậy, nếu giáo pháp của Đức Phật hữu
hiệu, áp dụng giáo pháp này bạn chẳng cần quan tâm đến
bảng tên hay nhãn hiệu. Không nên sắp Phật Giáo vào một
loại riêng biệt nào hay giới hạn Phật Giáo dưới bất kỳ
một bảng tên nào.
Những người khác
nhau ở vào thời điểm và điạ điểm khác nhau, đã gán các
nhãn hiệu và giải thích khác nhau về Phật Giáo. Đối với
một số người, Phật Giáo có vẻ chỉ là một mớ thực hành
dị đoan. Với một nhóm người khác, Phật Giáo chỉ là một
danh hiệu tiện dụng để đạt được lợi lạc có tính cách
hạn định. Với một nhóm người nọ, Phật Giáo cổ hủ
lỗi thời. Với nhóm người kia, Phật Giáo là một hệ
thống tư tưởng có ý nghĩa chỉ riêng cho giới trí thức mà
thôi. Với một số người, Phật Giáo là một khám phá khoa
học. Đối với người Phật tử thuần thành và sùng đạo,
Phật Giáo là cả cuộc đời họ, là nhiệm vụ phải làm cho
tất cả những gì gần gữi và thân yêu của họ.
Một số nhà trí
thức coi Phật Giáo là một sản phẩm của môi sinh Ấn hay
sự phát triển của một trong những loại giáo lý khác của
người Ấn. Phật Giáo chẳng là gì cả mà chỉ là Chân Lý
Cao Thượng. Đó là đường vào thực tại bằng tri thức.
Sự hiểu biết của Đức Phật về những vấn đề vũ trụ
không chỉ thu?n bằng phương pháp dựa trên lý trí và tinh
thần, mà bằng sự trau dồi và thanh lọc tâm ý. Thế đứng
tinh thần của Đức Phật gợi lại thái độ khoa học khiến
Ngài trở thành độc nhất vô nhị giữa những bậc đạo sư
tôn giáo trong mọi thời gian. Đương nhiên, yêu cầu trình độ
cao về tinh thần và đạo đức tràn ngập Ấn Độ vào thời
gian đó, là những điều kiện tiên khởi khẩn cứu lại ánh
sáng của Pháp bị chìm đắm trong lãng quên. Sự phát triển
về tôn giáo hàng ngàn năm và triết học qua hàng ngàn năm đã
để lại trên mảnh đất trí thức Ấn những chất liệu
phong phú và phì nhiêu về tư tưởng và lý tưởng, làm thành
một môi sinh rất tốt cho những hạt giống Pháp nẩy nở. Hy
Lạp, Trung Hoa, Ai Cập và Babylonia, cùng với những lý tưởng
cao tột của họ, cũng chưa đạt được phẩm chất về
nhận thức của các nhà hiền triết Ấn sống trong rừng núi.
Mầm Giác Ngộ nẩy sanh tựa như một hạt giống bay đến đến
từ những cánh đồng xa xa, từ những thế giới không gian và
thời gian vô tận xa xăm với chúng ta - mầm Giác Ngộ thực
sự nẩy nở và phát triển trên miền góc Đông-Bắc Ấn.
Mầm Giác Ngộ thực sự này đạt được hoàn toàn do kinh
nghiệm của một người: Đức Phật Cồ Đàm. Nguồn gốc
của Phật Giáo là kinh nghiệm này được gọi là 'Giác
Ngộ'. Với kinh nghiệm Giác Ngộ, Đức Phật bắt đầu
triển khai giáo lý của Ngài không bằng một niềm tin giáo điều
và huyền bí, mà bằng một kinh nghiệm giá trị, đại đồng,
Ngài cho thế gian chân lý phổ quát. Cho nên, nghĩa đúng của
Phật Giáo là CHÂN LÝ VI DIỆU CAO THƯỢNG. Nhớ rằng Đức
Phật không dùng lý thuyết suông để dạy. Ngài lúc nào cũng
dạy trên một lập trường thực tiễn căn cứ vào sự hiểu
biết, sự Giác Ngộ, và sự chứng nghiệm của Ngài về Chân
Lý.
Phật Giáo bắt đầu
với Chân Lý xuất hiện trên 2500 Năm qua trong con người của
Đức Phật Cồ Đàm. Khi Đức Phật giới thiệu Giáo Pháp
của Ngài, ý định của Ngài không phải là khai triển cái khái-niệm
về cái Ta trong tâm thức của con người, và Ngài cũng không
muốn tạo thêm tham vọng về một cuộc sống bất diệt và
lạc thú thế gian. Mục đích của Ngài là nhấn mạnh cho
thấy cái phù phiếm của kiếp nhân sinh, và chỉ ra con Đường
thực tiễn, chính xác để giải thoát do Ngài khám phá ra.
Giáo lý nguyên thủy
của Đức Phật nêu rõ bản chất thực sự của cuộc sống
và của thế gian. Tuy nhiên, có sự phân biệt giữa Giáo Lý
nguyên thủy của Đức Phật (thường được gọi là Pháp hay
lời dạy của Đức Phật) và tôn giáo phát triển căn cứ vào
Giáo Lý của Ngài.
Giáo Lý của Đức
Phật không những chỉ bắt đầu cho một tôn giáo mà còn gây
cảm hứng cho sự thăng hoa của cả một nền văn minh. Giáo lý
này trở thành một lực lượng vĩ đại khai hóa qua dòng
lịch sử văn hóa của nhiều quốc gia. Đương nhiên, Phật Giáo
trở thành nền văn minh vĩ đại nhất mà thế giới đã
từng biết. Trong lãnh vực văn học, mỹ thuật, triết lý, tâm
lý, đạo đức, kiến trúc và văn hóa, Phật Giáo đã đạt
được một thành tích lịch sử tuyệt vời. Qua nhiều thế
kỷ, biết bao nhiêu cơ sở xã hội giáo dục được thiết
lập tại nhiều quốc gia chuyên về học tập giáo lý của Đức
Phật. Lịch sử của Phật Giáo được ghi trên bảng vàng
về tình huynh đệ và thiện chí. Tín ngưỡng và sự tu hành
trở thành một phương cách sống có tính cách duy lý, khoa
học và đạo hạnh nhằm phát triển tâm linh từ ngày Đức
Phật hoằng pháp và thực hành mục đích và ý nghĩa thực
sự của một đời sống và của một tôn giáo.
ẢNH HƯỞNG
CỦA PHẬT GIÁO VỚI NỀN VĂN MINH
Cho đến nay, Phật Giáo
vẫn giữ nguyên là một lực lượng khai hóa vĩ đại trên
thế giới hiện đại. Là một lực lượng khai hóa, Phật Giáo
thức tỉnh lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm của vô
số con người và khơi dậy tiềm năng của nhiều quốc gia.
Phật Giáo nuôi dưỡng tinh thần tiến bộ bằng cách thúc đẩy
sức mạnh suy tư của mỗi cá nhân. Phật Giáo khuyến khích
tinh thần bao dung của người dân bằng cách tránh khỏi
những sự hẹp lượng và cuồng tín về tôn giáo và quốc
gia. Kẻ ác được thuần hóa và người dân được tác động
để tâm ý trở nên sáng suốt và hiền hậu. Tóm lại, Phật
Giáo gây đưọc niềm tự tin bằng giáo lý là số mệnh của
con người nằm trong chính bàn tay của mình, và chính mình có
khả năng phát triển năng lực và chuyển hóa nội tâm để
tiến đến mục đích cao cả.
Trên hơn hai ngàn năm,
Phật Giáo thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một phần ba nhân
loại. Sự lôi cuốn của Phật Giáo chưa bao giờ lại mạnh
mẽ như ngày nay. Giáo lý của Đức Phật là một trong những
tài nguyên tinh thần giàu có nhất của nhân loại, vì đã nâng
cao chân trời nỗ lực của con người tiến lên một tầm
mức cao hơn, vượt qua những nhu cầu, ham muốn không bao giờ
thỏa mãn của con người. Trong viễn ảnh rộng lớn, cái nhìn
của Đức Phật về cuộc sống, có khuynh hướng lôi cuốn
những nhà trí thức quá mệt mỏi về tinh thần của mình (cũng
như của người khác).
Tuy nhiên cái quả
của nhãn quan Phật Giáo còn có một cái gì hơn là môn thể
thao tinh thần hoặc là nguồn an ủi cho những người kiệt
quệ tâm linh.
Một sức hấp dẫn khác
là Phật Giáo rất thực tiễn và cống hiến một cái nhìn
thực tế về cuộc đời và thế giới. Phật Giáo không
khuyến dụ nhân loại sống trên một thiên đàng hoang tưởng,
hay làm con người khiếp sợ đau đớn bởi những loại sợ hãi
giả tạo hay mặc cảm tội lỗi. Phật Giáo nói lên một cách
chính xác và khách quan chúng ta và thế giới chung quanh chúng
ta là gì, và chỉ cho chúng ta con đường đi đến tự do, bình
an, tịch tịnh và hạnh phúc hoàn toàn.
Nếu nhân loại ngày
nay được cứu khỏi những phản ứng gây ra do tín điều
của các tôn giáo gây ra thì Phật Giáo là một cỗ xe hữu
hiệu nhất. Phật Giáo là tôn giáo của nhân loại mà người
sáng lập qua hệ thống giáo lý của Ngài không cần đến
sự khám phá hay can thiệp của thần quyền nào. Ở vào một
thời đại mà con người bị tràn ngập bởi sự thành công
trong việc kiểm soát vũ trụ vật chất, con người phải quay
lại và lấy những thành tích đạt được của mình để
kiểm soát cái hiện tượng khó khăn nhất: đó là cái Ngã
(Ta) của chính mình. Trong sự tìm kiếm này, con người hiện
đại sẽ tìm thấy trong Phật Giáo câu trả lời cho nhiều
vấn đề khó khăn và thắc mắc.
Ngày nay Phật Giáo lôi
cuốn Tây Phương vì Phật Giáo không có giáo điều, và Phật
Giáo thoả mãn cả lý trí lẫn con tim. Phật Giáo nhấn mạnh
đến lòng tự tin đi đôi với lòng khoan dung với người khác.
Phật Giáo bao gồm những khám phá khoa học tiên tiến nếu
những khám này là mục tiêu xây dựng. Phật Giáo nhấn mạnh
con người chính là người sáng tạo ra cõi đời này, và cũng
chính mình là kẻ phác họa ra vận mệnh cho chính mình. Đó là
bản chất của Phật Giáo.
Thông điệp hòa bình
và từ tâm của Đức Phật gửi đi muôn hướng và gửi đến
hàng triệu người; nhờ ảnh hưởng của thông điệp này
họ đã áp dụng như một con đường mới của cuộc sống đạo
hạnh.
SỰ ĐÓNG
GÓP CỦA PHẬT GIÁO CHO NHÂN LOẠI
Phật Giáo là một tôn
giáo phụng sự con người đem hy vọng và ước nguyện; trong
phạm vi xã hội, Phật Giáo đã nuôi dưỡng, một lối sống
đáng ca ngợi, và một tinh thần cộng đồng do nỗ lực
nhằm vào hòa bình và mãn nguyện. Phật Giáo là tiên phong
của hạnh phúc con người.
Cả đến trong lãnh
vực chính trị, đã có rất nhiều lần Phật Giáo được ghi
nhận là đã có lối giải quyết chính xác, công bình bằng
đường lối dân chủ dựa trên những giá trị căn bản đạo
đức. Phật Giáo đem lại một hương vị văn hóa khác biệt
của Đông Phương. Phật Giáo cung cấp nền tảng đạo đức
căn bản và thuần khiết cho những ai áp dụng nó dưới hình
thức này hay hình thức khác.
Đương nhiên, tiềm năng
rộng lớn của Phật Giáo không thể thực thi được tất
cả bởi đa số chỉ áp dụng một phần giới hạn mà thôi.
Tiềm năng cá nhân và tập thể được bao tỏa bằng những
đóng góp của Phật Giáo vào các lãnh vực như mỹ thuật và
văn hóa. Nhưng tiềm năng vĩ đại nhất của Phật Giáo nằm
trong tính cách hợp lý không cần đến bất cứ một thứ gì
để chúng minh. Nếu có một sự đổi mới hay tái xét giá
trị nền tảng của Phật Giáo, thì sự việc này không phải
do những phát giác bất thường hay ngẫu nhiên, hay qua sự
chuyển hướng bởi mệnh lệnh thế tục hay uy quyền siêu nhân
nào đó. Phật Giáo mang hạt giống tự đổi mới ngay chính nơi
mình.
Sự đóng góp của Đức
Phật vào sự tiến bộ xã hội và tinh thần của nhân loại
phi thường cho đến nỗi thông điệp của Ngài phổ biến
tại các quốc gia tại Á Châu của Ngài đã chinh phục được
sự thương yêu và mến mộ của người dân với một nhiệt
tình chưa bao giờ có.
CHÂN LÝ TỐI THƯỢNG
Chân Lý Tối Thượng
có thể tìm thấy trong Giáo Lý của Đức Phật
Phật Giáo công nhận
hai loại sự thật: sự thật bên ngoài có tính cách qui ước
(tục đế) và sự thật rốt ráo, tối thượng (chân đế).
Chân lý tối thượng này chỉ có thể chứng nghiệm bằng
thiền quán chứ không bằng lý thuyết suông hay bằng ức đoán.
Giáo Lý của Đức
Phật là Chân Lý Rốt Ráo của thế gian. Dù vậy, Phật Giáo
không phải là một tôn giáo thiên khải hay là một tôn giáo
có hệ thống tổ chức. Phật Giáo là mẫu mực thứ nhất
về đường lối thuần túy khoa học đặt trên những vấn đề
liên quan đến bản chất tối hậu của kiếp sống. Giáo Pháp
vượt thời gian này do chính Đức Phật khám phá ra không có
sự giúp đỡ của một lực lượng thần thánh nào cả.
Giáo Pháp này đủ
mạnh để đối đầu với bất cứ sự thử thách nào mà không
cần phải thay đổi nguyên lý căn bản học thuyết của nó.
Tôn giáo nào mà bắt buộc phải thay đổi, điều chỉnh học
thuyết để phù hợp với thế giới hiện đại là một tôn
giáo không có một nền tảng vững chắc trên một chân lý
rốt ráo. Phật Giáo vẫn giữ Chân Lý của giáo lý nguyên
thủy của bậc Đại Đạo Sư dù là trong những điều kiện
hết sức khó khăn đang lan tràn trên thế giới hiện đại.
Đức Phật không tiến dẫn việc thực hành có tính cách cá
nhân hay thế gian nào mà không liên quan đến đạo đức hay
giới luật. Với Đức Phật, việc tu tập nếu không có luân
lý và đạo hạnh thì không có giá trị về tôn giáo. Chúng
ta phải phân biệt giữa những gì Đức Phật dạy và những
gì người ta thuyết giảng và thực hành dưới danh nghĩa
Phật Giáo.
Mọi tôn giáo đều
gồm có không những giáo lý của vị giáo chủ khai sáng ra tôn
giáo đó, mà còn gồm có những nghi thức, và nghi lễ phát
triển từ cốt lỏi căn bản của giáo lý. Những nghi thức và
nghi lễ bắt nguồn từ những tập tục văn hóa của người
dân theo tôn giáo ấy. Thường thường, các vị khai sáng ra các
tôn giáo lớn không đặt ra các luật lệ chính xác về nghi
thức phải theo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo sau đó,
lập ra các luật lệ về giới hạnh mà các môn đồ không
được phép làm sai các giới luật ấy.
Cả đến tôn giáo mà
chúng ta gọi là Đạo Phật cũng khác biệt về sự thực hành
bề ngoài với những gì mà Đức Phật và các đệ tử của
Ngài hành trì lúc ban đầu. Qua nhiều thế kỷ về văn hóa và
ảnh hưởng môi sinh đã làm Phật Giáo Miến Điện, Thái,
Trung Hoa, Tây Tạng, Sri Lankan, và Nhật Bản khác nhau. Nhưng
những việc thực hành đó không gây va chạm, vì Đức Phật
dạy rằng khi nào còn giữ được bản chất Chân Lý tuyệt
đối, sự biểu hiện vật chất của chân lý đó có thể khác
biệt theo lối sống của hành giả.
Vài trăm năm sau khi Đức
Phật nhập diệt, một số các đệ tử của Đức Phật, thành
lập một tôn giáo căn cứ vào giáo lý của vị Đại Đạo Sư.
Trong khi thiết lập thành tôn giáo, giữa những quan niệm và
tín ngưỡng khác, họ đã hội nhập vào đó đủ loại phép
lạ, huyền bí, bói toán, bùa mê, thư phù, mật chú, cầu
nguyện và nhiều nghi thức, nghi lễ không hề thấy trong giáo
lý nguyên thủy. Khi những tín ngưỡng và hành trì ngoại lai
được hội nhập, đa số người đã chểnh mảng trong việc
phát triển việc thực hành giáo lý nguyên thủy: kỷ luật
tự giác, tự thu thúc, trau dồi đức hạnh và phát triển
tinh thần. Thay vì thực hành Giáo Lý nguyên thủy, họ quan tâm
nhiều hơn và cố gắng để tự bảo vệ chống với quỷ
thần hầu đạt thịnh vượng và may mắn. Dần dà, con người
không mấy chú trọng đến giáo lý nguyên thủy và càng ngày
càng chú ý đến khám phá các phuơng cách và phương tiện để
tránh những cái gọi là bất hạnh hay ảnh hưởng xấu của
các vì sao, ma thuật hay bệnh tật. Theo đường lối trên, qua
thời gian thực hành với niềm tin suy thoái, việc tu tập bị
phong tỏa bởi những theo đuổi thế tục. Ngay cả đến ngày
này, vẫn có những người tin tưởng là có thể loại bỏ các
khó khăn bằng ảnh hưởng của sức mạnh bên ngoài. Vẫn có
những người tin như vậy; cho nên họ chểnh mảng trau dồi
sức mạnh của ý chí, của trí thông minh, hiểu biết và
những gì khác liên quan đến phẩm tính con người. Nói một
cách khác, con người bắt đầu lạm dụng trí thông minh để
theo những loại tín ngưỡng và thực hành như thế dưới
danh nghĩa của Phật Giáo. Họ cũng đã làm ô nhiễm tính cách
thuần khiết của bức thông điệp của Đức Phật.
Tôn giáo hiện đại mà
chúng ta thấy tại nhiều quốc gia, là sản phẩm của những
chúng sanh bình thường sống trong một quốc gia và tự điều
chỉnh cho hợp với nhiều môi trường xã hội và văn hóa khác
nhau. Dù sao Phật Giáo là một tôn giáo không bắt đầu như
một hệ thống siêu thế xuống trần gian từ thiên đàng.
Phật Giáo khai sinh và hội nhập trong một tiến trình lịch
sử dài. Trong tiến trình tiến hóa, nhiều người đã từ
từ đi ra khỏi con đuờng Giáo Lý nguyên thủy của vị khai sáng
và bắt đầu các trường và môn phái khác. Tất cả những tôn
giáo hiện hữu đều phải đối đầu tình trạng này.
Ta không nên đi đến
một kết luận vội vàng bằng cách hoặc đánh giá hoặc lên
án một tôn giáo đơn giản chỉ bằng cách nhìn những tín đồ
hành đạo qua niềm tin mù quáng của họ dưới danh nghĩa
của tôn giáo đó. Muốn hiểu được thực chất của một tôn
giáo, ta phải nghiên cứu và điều tra Giáo Lý nguyên thủy
của người khai sáng ra tôn giáo ấy.
Trước sự thặng dư
về ý niệm và thực hành mới được phát triển về sau này,
rất hữu ích cho chúng ta quay lại với Giáo Pháp tích cực và
bất diệt dạy bởi Đức Phật cho dù ta tin tưởng và thực
hành dưới bất cứ danh nghĩa Phật Giáo nào thì Giáo Lý căn
bản của Đức Phật vẫn còn hiện hữu trong các kinh điển
nguyên thủy của Ngài.
HAI TRƯỜNG PHÁI CHÍNH
TRONG PHẬT GIÁO
Những môn đồ thực
sự của Đức Phật có thể tu tập mà không cần phải gia
nhập trường hay môn phái nào cả.
Một vài trăm năm sau
Đức Phật nhập diệt, có đến mười tám trường và môn phái
mọc lên, trường phái nào cũng nói là trường phái mình
mới đúng là đại diện thực hành Giáo Lý nguyên thủy của
Đức Phật. Những khác biệt giữa những trường phái này căn
bản là do sự giải thích Giáo Lý của Ngài. Sau một thời
gian dài, tất cả những trường và môn phái ấy nhập thành
hai trường phái chính: Nguyên Thủy (Theravada) và Đại Thừa
(Mahayana). Ngày nay, đa số những người theo đạo Phật đều
thuộc một trong hai trường phái này.
Căn bản Đại Thừa
Phật Giáo xuất phát từ Giáo Lý của Đức Phật là tất
cả ai ai cũng có khả năng thành Phật. Nguyên Thủy cho rằng
khả năng thành Phật chỉ có thể thực hiện được do sự
nỗ lực của mỗi cá nhân. Phật Tử Đại Thừa, mặt khác,
tin là có thể tìm được giải thoát với sự giúp đỡ của
siêu nhân gọi là Bồ Tát. Theo họ, Bồ Tát là các vị Phật
tương lai, Bồ Tát với lòng từ bi vô lượng đối với các
chúng sanh đồng loại, đã tự mình chưa muốn đạt Phật
Quả mà chờ đợi cho đến khi nào giúp các người khác
giải thoát mới thành Phật. Mặc dầu có sự khác biệt trên
căn bản nhưng học thuyết không có gì bất đồng về Pháp
ghi trong Ba Tạng Kinh Điển. Vì lẽ người Phật Tử được
khuyến khích bởi Đức Đại Đạo Sư, phải nghiên cứu chân
lý thật cẩn thận ; Phật Tử hoàn toàn tự do giải thích
kinh điển theo sự hiểu biết của chính mình. Nhưng trên
hết cả, Đại Thừa lẫn Nguyên Thủy đều là những người
tôn quý Đức Phật.
Những lãnh vực mà
cả hai đều đồng ý:
1. Cả hai đều công
nhận Đức Thích Ca là Đạo Sư.
2. Tứ Diệu Đế hoàn toàn giống nhau ở cả hai trường
phái.
3. Bát Chánh Đạo hoàn toàn giống nhau ở cả hai trường
phái.
4. Lý Duyên Sanh hay Thập Nhị Nhân Duyên hoàn toàn
giống nhau.
5. Cả hai đều bác bỏ ý kiến một đấng siêu nhân nào đó
tạo thế giới và thống trị thế giới.
6. Cả hai đều công nhận Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Giới,
Định và Huệ mà không có khác biệt nào.
Một số người quan
niệm Nguyên Thủy ích kỷ vì Nguyên Thủy dạy nên tìm giải
thoát cho chính mình. Nhưng làm sao một người ích kỷ lại có
thể đạt Giác Ngộ được? Cả hai trường phái công nhận
Tam Bồ Đề hay Tam Thừa, và lý tưởng Bồ Tát là lý tưởng
cao nhất. Đại Thừa tạo ra nhiều Bồ Tát huyền bí, trong
khi Nguyên Thủy tin rằng Bồ Tát là một người giữa chúng
ta đã hiến trọn đời để đạt được sự toàn bích và
tối thượng, trở nên một Đức Phật Giác Ngộ hoàn toàn để
đem lại phúc lợi và hạnh phúc cho thế gian.
Từ ngữ Tiểu Thừa
(Cỗ Xe Nhỏ) và Đại Thừa (Cỗ Xe Lớn) không thấy nói đến
trong văn hóa Nguyên Thủy tiếng Pali. Những từ ngữ này cũng
không thấy nói đến trong Tam Tạng Kinh Điển tiếng Pali hay
trong các Bộ Luận trong Tam Tạng Kinh Điển. Phật Tử Nguyên
Thủy theo truyền thống tôn giáo chính thống lan tràn tại
Ấn từ hai ngàn năm trăm năm qua. Họ dùng tiếng Pali trong các
cuộc lễ. Họ cũng mong ước đạt được mục tiêu cuối cùng
(Niết Bàn), bằng cách trở thành một Đức Phật Giác Ngộ
Tối Thượng, một Bích Chi Phật, hay Một A La Hán (Quả Vị
cao Nhất trong các bậc Thánh). Đa số Phật Tử Nguyên Thủy
thích A La Hán. Phật Tử tại Sri Lanka, Miến Điện, và Thái
Lan thuộc trường phái này. Phật Tử Đại Thừa đã thay đổi
tập tục tôn giáo cổ. Họ tu tập theo tập quán và truyền
thống của quốc gia họ sinh sống. Phật Tử Đại Thừa dùng
tiếng nước họ trong các cuộc lễ. Họ cũng mong ước đạt
mục tiêu cuối cùng (Niết Bàn) bằng cách trở thành Phật.
Do đó, họ sùng kính cả Đức Phật lẫn các Vị Bồ Tát
(Phật Tương Lai). Phật Tử tại Trung Hoa, Nhật Bản và
Triều Tiên thuộc trường phái này. Phần đông Phật Tử
tại Tây Tạng và Mông Cổ lại theo một trường phái khác
gọi là Mật Tông (Vajrayana). Các học giả Phật Giáo tin là
Mật Tông có khuynh hướng ngả về Đại Thừa.
Các học giả đã
chung quát chấp nhận rằng từ ngữ Tiểu Thừa (Hinayana) và
Đại Thừa (Mahayana) chỉ mới phát minh sau này. Theo lịch
sử, Nguyên Thủy đã hiện hữu từ trước khi những từ
ngữ này được phát minh. Nguyên Thủy, coi như giáo lý nguyên
thủy của Đức Phật, được truyền bá vào Sri Lanka và
củng cố tại đây từ Thế Kỷ Thứ Ba trước Tây Nguyên, vào
thời gian Hoàng Đế A Dục tại Ấn. Vào thời điểm này, chưa
có gì gọi là Đại Thừa. Đại Thừa mới xuất hiện sau này,
vào thời gian đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc. Phật Giáo hội
nhập Sri Lanka với Tam Tạng Kinh Điển, và các Bộ Luận, vào
Thế Kỷ Thứ Ba trước Tây Nguyên, vẫn là Theravada (Nguyên
Thủy) giữ nguyên không thay đổi, và cũng không tiến vào
trong cuộc tranh chấp Tiểu Thừa-Đại Thừa mới phát triển
sau này tại Ấn. Cho nên sắp Nguyên Thủy vào Tiểu Thừa hay
Đại Thừa là không hợp lý. Sau cuộc Đại Hội Phật Giáo
Thế Giới năm 1950, các bậc thức giả cả Đông lẫn Tây, dùng
từ ngữ Nguyên Thủy (Theravada) và không dùng từ ngữ Tiểu
Thừa (Hinayana), căn cứ vào Phật Giáo đang thịnh hành tại các
nước Đông Nam Á Châu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có những
người lỗi thời dùng từ ngữ Tiểu Thừa (Hinayana).
Tóm lại, trong Kinh Đai
Thừa Samdhi Nirmorcana (Giải Thâm-Mật Kinh) nói rõ ràng là
Thinh Văn Thừa- Nguyên Thủy và Đại Thừa tạo thành Nhất
Thừa và không phải là hai 'cỗ xe' khác nhau và riêng biệt.
Mặc dù có nhiều trường phái Phật Giáo giữ quan niệm khác
biệt về giáo lý của Đức Phật, nhưng chưa bao giờ sẩy ra
vụ bạo động hay đổ máu nào từ hai ngàn năm qua. Đó là
điểm độc đáo về lòng khoan dung độ lượng của người
Phật Tử.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002